Arthas và binh lính chạy về khu trại và nhận ra trận chiến chưa hề ngớt đi khi anh vắng mặt. Số lượng binh lính đã giảm đi, nhưng cũng chẳng có cái xác nào cả. Anh chẳng muốn thấy những các xác đó chút nào cả – những người bị dựng dậy dưới quyền tên chúa tể sợ hãi và trở thành kẻ thù của anh.
Với bộ giáp bám đầy máu, Falric hét lên với anh. “Hoàng Tử Arthas! Chúng tôi đã cố gắng hết sức có thể và – Muradin đâu rồi? Chúng tôi không thể chống cự được lâu hơn nữa!”
“Muradin đã chết rồi,” Arthas nói. Sự hiện diện lạnh lẽo nhưng đầy dễ chịu của thanh kiếm đã giảm đi đôi chút, và nỗi đau lại dâng lên trong anh. Muradin đã phải trả cái giá – nhưng rất xứng đáng nếu nó có thể hạ gục Mal’Ganis. Ông lùn hẳn cũng sẽ đồng ý, vì ông đã biết mọi thứ, hiểu mọi thứ như Arthas. Binh lính của Muradin bất chợt trở nên sợ hãi kể cả khi họ vẫn tiếp tục bắn hết loạt đoạn này tới loạt đạn khác vào đám xác sống đang tràn về phía họ. “Cái chết của ông ấy không hề vô ích. Dũng cảm lên nào Đại Úy. Kẻ thù sẽ không chống cự được lâu trước sức mạnh của Băng Sầu đâu!”
Và rồi họ đứng nhìn, không tin vào mắt mình khi Arthas lao vào đám hỗn loạn.
Anh từng nghĩ anh sử dụng cây búa của mình rất tốt, giờ nó đang nằm trơ trọi và bị lãng quên tại hầm mộ băng giá nơi từng chứa thanh Băng Sầu, nhưng nó chẳng là gì so với thiệt hại mà giờ đây anh có thể gây ra. Có cảm giác thanh Băng Sầu như một cánh tay mới của anh chứ không phải là một thứ vũ khí. Anh nhanh chóng quen thuộc với nó và bắt đầu xẻ nát hàng ngũ xác sống như thể đang thu hoạch lúa mì bằng lưỡi hái. Thứ vũ khí này mới cân bằng và hoàn hảo trong tay anh làm sao. Một đòn quét ngang chặt đứt đầu một con ma cà rồng. Anh lại vung thanh Băng Sầu, đập nát xương của một bộ xương. Một đòn đánh nhịp nhàng hạ gục đối thủ thứ ba. Chúng ngã xuống quanh anh, những cái xác thối rữa bắt đầu chất đống khi anh mở đường xuyên qua chúng. Có lúc khi đang tìm đối thủ tiếp theo, anh nhận thấy Falric đang nhìn mình. Đó là vẻ thán phục trên khuôn mặt thân thuộc đó, nhưng cũng cả sự choáng váng và – cả kinh hoàng nữa chăng? Hiển nhiên là vì sự tàn sát mà anh đang thực hiện rồi. Thanh Băng Sầu dường như đang hát trong tay anh.
Gió nổi lên và tuyết bắt đầu rơi nhanh và dày. Thanh Băng Sầu dường như đang chấp nhận nó khi mà dù tuyết rơi càng ngày càng dày cũng không hề cản trở Arthas được chút nào cả. Thanh kiếm cứ vung lên vung xuống để chém giết, và càng lúc càng nhiều xác sống ngã xuống. Cuối cùng, lũ tay chân đã được xử lý xong. Giờ lúc lúc xử lý chủ nhân của chúng.
“Mal’Ganis, tên hèn nhát!” Arthas hét lên, cả giọng anh giờ cũng trở nên khác đi trong tai anh, như thể nó đang được những luồng gió mang đi. “Ra mặt đi! Ngươi đã thách ta đến đây, giờ ra đây đối mặt với ta đi!”
Và rồi tên chúa quỷ xuất hiện, to lớn hơn so với những gì Arthas ghi nhớ, hắn cười với vị hoàng tử. Hắn đứng thẳng dậy với chiều cao đầy ấn tượng, đôi cánh đập vào gió, đuôi vụt qua vụt lại. Các chiến binh xác sống theo lệnh hắn đứng im lại sau khi hắn vẩy một ngón tay.
Lần này Arthas đã chuẩn bị cho sự xuất hiện đầy đe dọa của tên chúa tể sợ hãi. Hắn không còn khiến anh lo lắng nữa. Nhìn về phía kẻ thù, anh im lặng nhấc thanh Băng Sầu lên, và những cổ tự khắc dọc thân kiếm lóe sáng. Mal’Ganis nhận ra món vũ khí đó và có chút vẻ lo lắng hiện ra trên đôi môi xanh của hắn.
“Vậy là, ngươi đã lấy được Băng Sầu với cái giá là tính mạng của đồng đội ngươi, như Chúa Tể Hắc Ám đã nói. Ngươi mạnh mẽ hơn ta nghĩ đấy.”
Anh nghe thấy những lời đó, nhưng còn những lời nói khác đang nhẹ nhàng thì thầm trong đầu anh. Arthas lắng nghe và rồi nhe răng cười dữ tợn.
“Ngươi đang phí lời đấy Mal’Ganis. Giờ đây ta chỉ nghe thấy giọng nói của Băng Sầu thôi.”
Tên chúa tể sợ hãi ngửa đầu ra sau cười lớn. “Ngươi đang nghe thấy giọng nói của Chúa Tể Hắc Ám đấy,” Mal’Ganis vặn lại. Hắn chỉ một ngón tay với vuốt sắc màu đen về phía thanh cổ tự kiếm hùng mạnh. “Hắn đang thì thầm với ngươi thông qua thanh kiếm ngươi đang mang!”
Arthas cảm thấy mặt cắt không còn hột máu. Chủ nhân của tên chúa tể sợ hãi… đang nói chuyện với thanh thông qua thanh Băng Sầu ư? Nhưng… sao lại có thể như thế chứ? Đây có phải là trò lừa gạt cuối cùng không? Liệu có phải anh đã bị lừa bịp và bị dẫn thẳng vào bàn tay đầy vuốt của Mal’Ganis không?
“Hắn đang nói gì vậy, hả gã trai con người kia?” Hắn lại cười với vẻ mặt của một kẻ biết thứ đó đang nói với một kẻ không biết. Tên chúa tể sợ hãi dường như đang rất hả hê dựa vào điệu cười của hắn. “Chúa Tể Hắc Ám của Cái Chết đang nói gì với ngươi thế?”
Tiếng thì thầm lại quay trở lại, nhưng lần này là chính Arthas đang cười với vẻ mặt giống hệt vẻ mặt vừa rồi của tên chúa tể sợ hãi. Giờ đây anh mới là người biết thứ gì đó mà Mal’Ganis không biết.
Arthas vung thanh Băng Sầu qua đầu, thanh kiếm khổng lồ trở nên nhẹ nhàng và duyên dáng trong tay anh, và rồi anh đưa nó vào tư thế tấn công. “Ngài đang bảo ta rằng đã đến lúc ta trả thù rồi.”
Đôi mắt xanh tỏa sáng nở lớn. “Gì cơ? Hắn không thể nào-”
Arthas xông lên.
Thanh cổ tự kiếm hùng mạnh vung lên rồi bổ xuống. Tên chúa tể sợ hãi bị bất ngờ nhưng chỉ trong phút chốc, và hắn kịp thời vung cây trượng lên đỡ đòn. Hắn nhảy sáng bên, đôi cánh dơi khổng lồ tạo ra một luồng gió thổi tung mái tóc vàng của Arthas nhưng chẳng hề khiến anh mất đi thăng bằng hay tốc độ. Anh cứ liên tục lao vào, nhanh nhẹn và chết chóc như một con mãng xà, thanh kiếm tỏa sáng đầy say mê. Một suy nghĩ thoáng hiện lên trong đầu anh: Băng Sầu đói rồi.
Và một phần trong anh phản ứng một cách sợ hãi: Đói gì cơ?
Không thành vấn đề. Anh, Arthas, đang đói khát đòi báo thù, và anh đang cố lấy được nó. Mỗi lần Mal’Ganis định làm phép, thanh Băng Sầu lại tới đánh bật hắn sang một bên, xẻ thịt hắn, quấy rối hắn tới tận lúc có thể thực hiện một đòn kết liễu. Anh cảm thấy sự mong đợi, sự thèm muốn của thanh Băng Sầu, và anh hét lên khi anh vung cây cổ tự kiếm với một đường cong tỏa sáng lờ mờ màu xanh lam xẻ ngang người Mal’Ganis.
Máu đen phun trào ra bắn lên tuyết khi tên chúa tể sợ hãi ngã xuống. Có sự ngạc nhiên hiện lên trên mặt hắn; kể cả đến cuối cùng, hắn cũng không tin rằng hắn có thể bị đánh bại.
Arthas đứng đó một lúc, gió và tuyết gào rú quanh anh, ánh sáng từ các cổ tự trên thanh Băng Sầu tuy có mờ đi đôi chút vì dính máu đen của con quỷ rọi sáng cả cảnh tượng huy hoàng đó.
“Kết thúc rồi,” anh khẽ nói.
Nếu là chuyến du hành này thì đúng vậy, hoàng tử trẻ à, thanh Băng Sầu lại thì thầm – hay đó chính là tên Chúa Tể Hắc Ám mà Mal’Ganis nhắc đến? Anh không biết và cũng không quan tâm. Anh cúi xuống và cẩn thận lau sạch thanh kiếm bằng tuyết. Nhưng còn nữa. Còn rất nhiều nữa. Còn rất nhiều sức mạnh có thể dành cho ngươi. Còn rất nhiều kiến thức và quyền lực.
Arthas nhớ lại về những dòng chứ Muradin đọc được. Tay anh tự động đưa lên ngực. Thanh kiếm giờ đây đã trở thành một phần của anh, và anh là một phần của nó.
Cơn bão tuyết càng ngày càng tệ hơn. Giờ anh mới nhận ra rằng mình chẳng hề thấy lạnh chút nào. Anh đứng thẳng dậy, tay nắm chặt thanh Băng Sầu, và nhìn xung quanh. Con quỷ nằm cứng đờ dưới chân anh. Giọng nói – giọng của thanh Băng Sầu, hay là của tên Chúa Tể Hắc Ám bí ẩn đó – đã đúng.
Còn nữa. Còn rất nhiều nữa.
Và mùa đông sẽ dạy điều đó.
Arthas Menethil nắm chặt thanh cổ tự kiếm và nhìn vào cơn bão tuyết, rồi tiến tới tóm gọn tất cả.
Arthas biết rằng anh sẽ ghi nhớ những hồi chuông này cả cuộc đời mình. Chúng chỉ được rung lên trong những dịp đặc biệt quan trọng – một đám cưới hoàng gia, sự ra đời của một người thừa kế, đám tang của một vị vua, tất cả những thứ để lại dấu ấn trong lịch sử một vương quốc. Nhưng ngày hôm nay, chúng được rung lên để chúc mừng. Anh, Arthas Menethil, đã trở về nhà.
Anh đã đưa tin chiến thắng trở về. Về việc tìm ra kẻ đứng đằng sau bệnh dịch. Về việc tìm ra hắn. Về việc hạ sát hắn, và về ngày hôm nay, sự trở về với nơi chôn rau cắt rốn đầy vinh quang của mình. Khi anh rảo bước dọc con đường đi tới Thành Đô, anh được đón chào bằng những tiếng hoan hô và những tràng pháo tay khen ngợi, những lời cảm ơn của một quốc gia được cứu thoát khỏi thảm họa bởi vị hoàng tử yêu quý của họ. Anh chấp nhận điều xứng đáng đó, nhưng tâm trí anh chỉ tập trung vào việc gặp người cha của mình sau ngần ấy thời gian.
“Con sẽ nói chuyện riêng với người, thưa Phụ Vương, và kể cho người nghe về những thứ con đã học được và thấy được,” anh đã viết như vậy trong bức thư đã được chuyển tới vài ngày trước bởi một người đưa thư nhanh nhẹn. “Con chắc rằng người đã nói chuyện với Jaina và Uther. Con có thể tưởng tượng ra họ đã nói nhưng gì – họ đã cố khiến người quay lưng lại với con. Con xin đảm bảo với người rằng con chỉ làm những việc con tin là tốt nhất cho cư dân Lordaeron. Cuối cùng, con đã tiêu diệt được kẻ đã dáng bệnh dịch này xuống đầu thần dân của chúng ta, và con sẽ trở về nhà trong chiến thắng, hăm hở muốn bắt đầu một kỷ nguyên mới cho vương quốc của chúng ta.”
Những người đi bên cạnh anh cũng im lặng hệt như anh, đầu họ trùm kín mũ. Đám đông dường như không cần họ phải phản hồi lại sự chúc mừng quay trở lại của họ. Cây cầu cất khổng lồ được hạ xuống và Arthas băng qua nó. Đám đông hoan hô cũng xuất hiện ở đây, giờ đây không còn là những người bình dân nữa mà là những nhà ngoại giao, nhưng tiểu quý tộc, những đại sứ của tiên, người lùn, và đoản nhân. Họ đứng không chỉ ngay trong sân mà còn trên những lô ban công. Những cánh hoa hồng đủ màu từ hồng trắng và đỏ rơi lả tả xuống đầu vị anh hùng mới trở về.
Arthas nhớ về lần ấy, anh từng nghĩ sẽ nhìn thấy Jaina đứng trước mặt anh trong lễ cưới của họ, những cánh hoa rơi xuống xung quanh khuôn mặt với một nụ cười, rồi cô quay sang hôn anh.
Jaina…
Rung động trước hình ảnh đó, anh nắm lấy một cánh hoa hồng đỏ trong lòng bàn tay đeo găng. Anh trầm ngâm vân vê nó, và rồi cau mày khi một vết đen xuất hiện. Nó lan ra ngay trước mắt anh, ngay trong tay anh, làm khô héo và phá hủy cánh hoa, tới khi màu nâu trở nên áp đảo màu đỏ. Bằng một động tác nhanh chóng thô bạo, anh ném thứ chết chóc đó đi và tiếp tục đi.
Anh đẩy mở cánh cửa khổng lồ dẫn tới ngai phòng mà anh biết rất rõ và bước tới trước, nhìn Terenas, rồi ném cho cha mình một nụ cười gần như bị khuất sau lớp mũ trùm. Arthas khuỵu gối xuống đầy cung kính, thanh Băng Sầu ở ngay trước mặt anh, mũi nhọn của nó tì xuống hình con dấu khắc trên nền đá.
“A, con trai. Ta thật vui khi thấy con đã trở về nhà an toàn,” Terenas nói và đứng dậy một cách hơi loạng choạng.
Arthas nghĩ Terenas trông không khỏe lắm. Những sự kiện xảy ra trong mấy tháng qua đã khiến vị vua trở nên già đi. Tóc ông giờ đã trở nên bạc hơn nhiều, mắt ông đầy mệt mỏi.
Nhưng giờ mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.
Ông không cần phải hi sinh cho thần dân của ông nữa. Ông không cần phải gánh vác trọng trách của ngai vàng nữa. Ta đã trông nom tất cả mọi thứ rồi.
Arthas đứng dậy, áo giáp của anh kêu vang với từng cử động. Anh đưa một tay lên hất mũ trùm đầu ra sau và nhìn phản ứng của cha mình. Mắt Terenas nở lớn khi ông nhận ra sự thay đổi đối với đứa con trai duy nhất của mình.
Mái tóc từng vàng rực như lúa mì nuôi sống thần dân của Arthas giờ đã trắng như xương cốt. Anh cũng biết mặt mình cũng đã tái đi như thể máu đã bị rút kiệt khỏi đó.
Đến lúc rồi, thanh Băng Sầu thì thầm trong tâm trí anh. Arthas tiến về phía cha mình, người đang đứng nhìn trên bệ cao. Có vài lính canh đang đứng quanh phòng, nhưng họ chẳng hề đấu lại được với anh, thanh Băng Sầu, cùng hai người hộ tống anh. Arthas trâng tráo bước trên bậc đá được trải thảm và tóm lấy tay cha mình.
Arthas kéo thanh kiếm về sau. Những cổ tự trên thanh Băng Sầu tỏa sáng đầy hi vọng. Và rồi có một lời thì thầm, không phải từ thanh cổ tự kiếm mà là một ký ức-
-giọng nói của một vị hoàng tử có mái tóc màu đen, dường như đã lâu như cả một đời người-
“Ông ấy bị ám sát. Một người bạn đáng tin cậy… ả ta giết ông ấy. Đâm ngay vào tim.”
Arthas lắc đầu và giọng nói đó trở nên im bặt.
“Chuyện gì thế này? Con đang làm gì vậy hả con trai?”
“Kế vị ông đó… Phụ Vương à.”
Và rồi cơn đói của thanh Băng Sầu đã được thỏa mãn – trong phút chốc.
Arthas sau đó đã giải phóng họ – những thần dân mới phục tùng anh một cách mù quáng. Việc triệt hạ những vệ binh tấn công anh lúc cha anh chết là chuyện hết sức đơn giản, và rồi anh thẳng tiến ra sân với một mục tiêu lạnh lùng.
Thật điên rồ.
Cuộc truy hoan bây giờ đã trở nên điên loạn. Buổi lễ chúc mừng đã biến thành cuộc chạy trốn điên cuồng. Chỉ có vài người thoát được. Hầu hết những người lúc trước vừa đứng chờ hàng giờ liền để chào mừng vị hoàng tử của họ giờ đã chết, máu đã đông lại trên những vết thương ghê tởm, tứ chi bị xẻ đứt, cơ thể bị dẫm nát. Những đại sứ giờ nằm cùng những thường dân, nam nữ trẻ em lẫn lộn, tất cả đều đã chết.
Arthas không quan tâm số mệnh của họ là gì – làm xác chết nuôi sống lũ quạ, hay là thần dân mới đi theo anh ta. Anh sẽ để điều đó lại cho các đội trưởng là Falric và Marwyn, hai người này giờ đã trắng bệch như anh và có sự tàn nhẫn hơn rất nhiều. Arthas đi dọc theo con đường anh dùng để tới đây, tập trung vào một mục đích duy nhất.
Khi đã ra khỏi khu sân trong chứa đầy xác, cả sống lẫn chết, anh bắt đầu chạy. Chẳng có con ngựa nào có thể chịu đựng được anh nữa; lũ súc vật đó phát điên lên trước cái mùi của anh và quân lính. Nhưng anh nhận ra giờ đây anh không hề mệt mỏi; không còn biết mệt mỏi nữa một khi thanh Băng Sầu, hay là Thi Vương – kẻ dùng thanh cổ tự kiếm để nói chuyện với anh – đang thì thầm với anh. Và vậy là anh chạy, đôi chân mang anh tới một nơi đã nhiều năm rồi chưa tới.
Những giọng nói cuộn xoáy trong đầu anh, những ký ức, những mẩu đối thoại:
“Người biết người chưa nên cưỡi nó mà.”
“Người lại quên bài học rồi…”
Tiếng kêu la đau đớn của Bất Bại vang vọng trong tâm trí anh. Ánh Sáng đã ngập ngừng vào thời khắc tồi tệ đó, như thể đang quyết định xem anh có xứng đáng với ân huệ của nó không. Khuôn mặt của Jaina khi anh kết thúc mối quan hệ của họ.
“Lắng nghe ta này chàng trai… Bóng tối đã buông xuống, và anh chẳng thể ngăn chặn được nó đâu… Anh càng cố tiêu diệt kẻ thù, anh càng nhanh chóng đưa thần dân mình vào tay chúng thôi…”
“…Đây đâu phải một cánh đồng trồng táo bị nhiễm bệnh đâu, đây là một thành phố chứa đầy con người đấy!…”
“…Chúng ta biết quá ít ỏi – chúng ta không thể chỉ tàn sát họ như những con thú vật được mà không e ngại điều gì được!”
“Cậu lừa dối cã các binh lính và phãn bội các lính đánh thuê đã chiến đấu cho cậu!… Đó chẵng phãi là cậu bé con trai Vua Terenas.”
Nhưng họ là những người không thấy được, không hiểu được. Jaina – Uther – Terenas – Muradin. Tất cả bọn họ dù bằng lời hay bằng ánh mắt đều bảo anh rằng anh đã sai.
Anh bước chậm lại khi tới trang trại. Các thần dân của anh đã tới đây trước cả anh, và giờ chỉ còn là những cái xác nằm cứng đờ trên mặt đất. Arthas gồng mình lên trước cơn đau khi phải thừa nhận rằng; họ là những người rất may mắn khi chỉ phải chết. Một người đàn ông, một người phụ nữ, và một chàng trai cỡ tuổi anh.
Và bụi hoa mõm chó… có vẻ như năm nay đã nở bung. Arthas bước tới gần và đưa một tay ra định chạm vào những đóa hoa màu xanh oải hương dài và đẹp đẽ, rồi lưỡng lự khi nhớ về cánh hoa hồng kia.
Anh không tới đây vì hoa.
Anh quay đi sải bước tới bên một ngôi mộ, giờ nó đã gần bảy tuổi rồi. Cỏ đã mọc bên trên nó, nhưng những dòng chữ vẫn có thể đọc được. Anh không cần phải đọc mới biết cái gì đã an nghỉ tại đây.
Anh đứng đó một lúc lâu, rung động trước cái chết của kẻ ở trong ngôi mộ này hơn cả cái chết của cha đẻ của mình, những cái chết gây ra bởi chính tay anh.
Sức mạnh là của ngươi, tiếng thì thầm lại vang lên. Hãy làm đi.
Arthas vươn một tay ra, tay còn lại nắm chặt thanh Băng Sầu. Ánh sáng lờ mờ bắt đầu xoáy cuộn quanh bàn tay vươn ra, càng lúc càng nhanh. Nó cuốn quanh những ngón tay như một con rắn, quằn quại gợn sóng theo ý mình, và rồi đâm thẳng xuống mặt đất.
Arthas cảm thấy nó kết nối với bộ xương bên dưới. Niềm vui dâng tràn bên trong anh, và nước mắt trào lên. Anh nhấc tay lên kéo cái thứ giờ đây không còn kết nữa khỏi giấc ngủ suốt bảy năm ròng trong lòng đất đen tối lạnh lẽo.
“Hãy đứng lên!” anh ra lệnh, những lời nói vang lên từ trong cổ họng.
Ngôi mộ mở ra, bắn một ít đất tung tóe ra xung quanh. Những bộ vó bằng xương đặt lên nền đất, rồi một hộp sọ nhú lên khỏi mặt đất. Arthas nín thở đứng nhìn, một nụ cười nở trên khuôn mặt tái xám.
Ta nhìn thấy ngươi được sinh ra, anh nghĩ khi nhớ lại về lớp màng bao bọc quanh một sinh mạng nhỏ bé ẩm ướt mới được sinh ra. Ta đã giúp ngươi tới được thế giới này, và ta giúp ngươi rời khỏi đó… giờ đây nhờ ta, ngươi sẽ được tái sinh.
Con chiến mã bằng xương cuối cùng đã vươn lên khỏi mặt đất và đặt hai chân trước lên kéo cả cơ thể lên. Ngọn lửa đỏ rực cháy trong hai hố mắt trống không của nó. Nó hất đầu lên hí vang, dù cho bộ lông mềm mại của nó từ lâu đã mục ruỗng.
Arthas đưa một bàn tay run run về phía sinh vật xác sống kia, nó khịt mũi và hít ngửi bàn tay anh với cái mõm xương của mình. Bảy năm trước, anh từng khiến con ngựa này phải chết. Bảy năm trước, anh đã phải gạt nước mắt lúc ấy đã đông cứng trên mặt anh khi nhấc kiếm lên đâm thẳng vào trái tim dũng cảm của con thú yêu quý này.
Anh đã một mình mang tội lỗi của hành động đó suốt ngần ấy thời gian. Nhưng giờ anh đã nhận ra – đó là một phần trong vận mệnh của anh. Nếu anh không xuống tay hạ sát con chiến mã của mình, anh sẽ không thể mang nó trở lại. Nếu còn sống thì con ngựa này sẽ sợ anh. Khi đã trở thành xác sống, với lửa cháy trong mắt, những đốt xương nối lại với nhau bởi thứ ma thuật chiêu hồn Arthas sử dụng nhờ món quà của Thi Vương bí ẩn, ngựa và người cuối cùng đã có thể đoàn tụ, như thể họ được sinh ra cho nhau. Bảy năm trước, đó không phải là một sai lầm; anh đã không hề sai. Không phải trước đây, không phải bây giờ.
Không bao giờ.
Và đây là bằng chứng.
Khắp vùng đất giờ đây anh làm chủ, với máu của cha anh vẫn còn đỏ trên thanh Băng Sầu, cái chết đang tới. Chính là sự thay đổi.
“Vương quốc này sẽ sụp đổ,” anh hứa với con chiến mã yêu quý của mình khi anh tung tấm áo choàng lên bộ lưng bằng xương của nó và nhảy lên. “Và từ đống tro tàn một trật tự mới sẽ được dựng lên chấn động đến tận nền móng của thế giới này!”
Con ngựa khịt mũi.
Bất Bại.