Arthas nhận ra tiếng bước chân nặng nề của Muradin trước cả khi ông lùn kéo vạt cửa lều ra và trừng trừng nhìn anh. Họ cứ nhìn nhau suốt một lúc lâu, rồi Muradin hất đầu ra phía ngoài và thả vạt cửa ra. Trong phút chốc, Arthas chợt trở về lại cái khoảng thời gian khi anh còn là một đứa trẻ vô ý ném bay thanh kiếm gỗ ngang qua phòng. Anh cau mày đứng dậy, đi theo Muradin tới một nơi cách xa các binh lính.
Ông lùn nói thẳng vào vấn đề ngay. “Cậu lừa dối cã các binh lính và phãn bội những lính đánh thuê đã chiến đấu cho cậu!” Muradin quát và hất hàm về phía Arthas dù ông thấp hơn anh nhiều. “Đó chẵng phãi chèng trai mà ta đã huấn luyện. Đó chẵng phãi ngừi đàn ông đã được kết nạp vào hội Bàn Tay Bạc. Đó chẵng phãi là cậu bé con trai Vua Terenas.”
“Ta chẳng phải cậu bé của ai cả,” Arthas nói lớn và xô mạnh Muradin. “Ta đã làm những gì ta cho là cần thiết.”
Anh hơi mong chờ Muradin sẽ tấn công anh, nhưng thay vì đó cơn giận dữ có vẻ như đã trôi tuột khỏi người cựu huấn luyện viên của anh. “Có chiện zì xãy ra zới cậu zậy Arthas?” Muradin khẽ nói, giọng ông đầy đau đớn và bối rối. “Chẵng lẽ ziệc trã thù quan chọng zới cậu zậy ư?”
“Tha cho ta đi Muradin,” Arthas càu nhàu. “Ông không ở đó để thấy những gì Mal’Ganis đã làm với quê hương của ta đâu. Những gì hắn đã làm với những người đàn ông phụ nữ và cả trẻ em vô tội đó!”
“Ta đã nghe thấy những zì cậu làm rùi,” Muradin khẽ nói. “Vài binh lính cũa cậu đã lãm nhãm hết tất cã khi say khướt. Ta bít ta nghĩ zì – nhưng ta cũng bít ta không thễ phê bình cậu. Cậu nói đúng, ta hông ỡ đóa. Cãm ơn Ánh Sáng, ta đã hông bị buộc phãi lựa chọn như thế. Nhưng mà – có chiện zì đóa đang xãy ra. Cậu-”
Tiếng đạn pháo và tiếng báo động xen ngang câu nói của ông. Ngay lập tức Muradin và Arthas rút vũ khí ra và quay về khu trại. Các binh lính vẫn đang tranh nhau đi lấy vũ khí. Falric đang ra lệnh cho các binh lính con người, còn Baelgun đang triệu tập những người lùn. Có tiếng giao tranh từ bên ngoài khu trại, và Arthas có thể thấy được đám xác sống đang tiến tới. Tay anh nắm chặt cán búa. Có dấu hiệu của một cuộc tấn công có chiến thuật chứ không phải những cuộc đụng độ ngẫu nhiên nữa.
“Chúa Tể Hắc Ám bảo các ngươi sẽ tới,” một giọng nói giờ đây đã trở nên quá quen thuộc với Arthas cất lên. Anh bỗng thấy cực kỳ phấn chấn. Mal’Ganis đang ở đây! Chẳng phải tốn công vô ích chút nào. “Chuyến du hành của ngươi phải kết thúc tại đây rồi cậu nhóc. Mắc kẹt và chết cóng ở nóc nhà thế giới này, chỉ có cái chết còn lại để ca khúc ca tuyệt mệnh của ngươi thôi.”
Muradin gãi gãi cằm và đảo mắt nhìn quanh. Ngay phía ngoài khu trại là âm thanh của trận chiến. “Có vẽ tệ quớ,” ông công nhận với sự thật thà đúng chất người lùn. “Chún ta hoàn toàn bĩ bao zây rùi.”
Arthas cứ nhìn trong tuyệt vọng. “Chúng ta có thể làm được,” anh thì thầm. “Với Băng Sầu… chúng ta có thể làm được.”
Muradin nhìn đi chỗ khác. “Chà… chèng trai à, ta vẫn lun rất e ngại. Về thanh kiếm. Và, thực lòng mà nói, cã về cậu nữa.”
Mất một giây Arthas mới nhận ra rằng Muradin đang nói. “Ông – có phải ông định nói cho ta rằng ông đã biết cách tìm ra nó sao?”
Khi Muradin gật đầu, Arthas tóm lấy cánh tay ông. “Dù ông e ngại điều gì, Muradin à, ông cũng không thể e ngại ngay bây giờ được. Không phải khi có Mal’Ganis ở ngay đây. Nếu ông biết nó ở đâu thì hãy đưa ta tới đó. Giúp ta đoạt được Băng Sầu! Chính ông cũng đã nói – ông không nghĩ rằng Mal’Ganis sẽ thích khi thấy ta cầm Băng Sầu trong tay. Mal’Ganis có nhiều quân hơn chúng ta. Không có Băng Sầu thì chúng ta sẽ thất bại, ông biết điều đó mà!”
Muradin nhìn anh với vẻ tuyệt vọng, rồi nhắm mắt lại.
“Ta cóa một cãm giác rất xấu zề chiện nì, chèng trai à. Rằng tãi xao trước giừ ta hông thễ có chút tiến triễn nào – có thứ zì đó về cỗ vật nì, zề ziệc làm thế nào thông tin zề nóa được lan ra – có zì đó hông đúng. Nhưng ta đã hứa xẽ theo tới cùng chiện nì. Cậu đi tập hợp zài ngừi đi và ta xẽ tìm cho cậu thanh cỗ tự kiếm đó.”
Arthas vỗ vai người bạn cũ. Đây rồi. Ta sẽ lấy được thanh cổ tự kiếm khốn nạn đó, và ta sẽ dùng nó đâm thủng trái tim đen của ngươi, chúa tể sợ hãi ạ. Ta sẽ bắt người trả giá.
“Bịt kín chỗ hở đầu kia lại!” Falric hét lên. “Davan, bắn!” Tiếng đạn pháo nổ rung chuyển cả khu trại khi Arthas chạy về phía phó tướng của mình.
“Đại Úy Falric!”
Falric quay về phía anh. “Thưa hoàng tử… chúng ta hoàn toàn bị bao vây rồi. Chúng ta vẫn có thể trụ được một thời gian, nhưng rồi chúng cũng sẽ tiêu hao được chúng ta. Chúng ta càng mất quân số, chúng lại càng có thêm quân.”
“Ta biết rồi, Đại Úy à. Muradin và ta sẽ đi tìm thanh Băng Sầu.” Mắt Falric hơi nở lớn vừa kinh ngạc lẫn hi vọng. Arthas đã chia sẻ thông tin về thanh kiếm – và cả nguồn sức mạnh được cho là rất lớn của nó – với vài người đáng tin cậy nhất của mình. “Một khi chúng ta có được nó, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng. Anh có thể câu giờ cho bọn ta được không?”
“Vâng, thưa Hoàng Tử.” Falric cười toe toét, nhưng trông anh ta vẫn có vẻ lo lắng, “Chúng tôi sẽ ngăn cản lũ khốn xác sống ấy lại.”
Một chốc sau, với một tấm bản đồ và một vật thể phát sáng kỳ lạ, Muradin đi cùng Arthas và một vài người nữa. Miệng ông mím lại và mắt trông rất khốn khổ, nhưng người ông lại đứng thẳng. Falric ra hiệu và bắt đầu đánh lạc hướng. Hầu hết xác sống đột nhiên chuyển hướng và tập trung vào anh, để lại một kẽ hở ở sau khu trại.
“Đi nào,” Arthas nói dứt khoát.
Muradin hét lớn về hướng di chuyển, ông nhìn từ cái bản đồ tới cái thứ đồ vật tỏa sáng có vẻ như đang phát ra những xung nhịp thất thường kia. Họ gắng sức đi băng qua lớp tuyết dày theo chỉ thị của ông, chỉ thỉnh thoảng dừng lại đôi chút để kiểm tra lại. Bầu trời tối dần đi khi những đám mây kéo đến. Tuyết bắt đầu rơi càng khiến họ chậm lại.
Arthas bắt đầu di chuyển một cách vô thức. Tuyết khiến cho việc nhìn thấy hơn một bộ trước mặt là bất khả thi. Anh không còn nhận ra hay quan tâm đến phương hướng mình di chuyển nữa, chỉ là bước chân theo Muradin thôi. Thời gian có vẻ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Việc di chuyển cảm giác như mất chỉ vài phút hoặc tới tận vài ngày.
Đầu óc anh hoàn toàn bị lấn át bởi suy nghĩ về thanh Băng Sầu. Sự cứu rỗi của họ. Arthas biết rõ như thế. Nhưng liệu họ có thể tới được chỗ nó trước khi các binh lính của anh ở khu trại ngã xuống trước bầy xác sống và tên chủ nhân ma quỷ của chúng không? Falric đã nói rằng họ có thể duy trì được – một khoảng thời gian. Còn bao lâu nữa? Cuối cùng thì đã biết được Mal’Ganis đang ở đây – tại khu trại của chính anh – và việc không thể tấn công thật sự rất-
“Đây rùi,” Muradin nói và chỉ tay. “Nóa ở trong đây.”
Arthas dừng lại, mắt nheo lại và hấp háy cố nhìn qua làn mưa tuyết sắc lạnh như băng. Họ đang đứng trước cả một hang động đầy vẻ lạnh lẽo và hung gở trong cơn mưa tuyết tối tăm mặt mũi của một ngày xám xịt. Có thứ ánh sáng gì đó ở bên trong, một loại ánh sáng nhợt nhạt màu xam lục và lam mà anh khó nhìn thấy rõ được. Dù mệt rã rời và tê cóng, anh vẫn cảm thấy cực kỳ phấn khích. Anh buộc cái miệng tê cóng phải thốt lên.
“Băng Sầu… và cái kết của Mal’Ganis. Cái kết của bệnh dịch này. Đi thôi!”
Một luồng gió thứ hai suýt thổi bay người anh và anh buộc đôi chân mình phải nhanh chóng bước tới trước.
“Chèng trai à!” Giọng Muradin vọng đến tai anh. “Một kho báu quý giá như zậy xẽ hông đơn giãn chịu nằm im đễ ngừi ta tìm đến đâu. Chún ta phãi di chuyễn hết xức thận chọng.”
Arthas bỗng nổi cáu, nhưng Muradin đã có nhiều kinh nghiệm về chuyện này. Vậy nên anh gật đầu, tay nắm chắc cán búa và tiến tới đầy cảnh giác. Việc không còn gió và cơn mưa tuyết nữa khiến anh phấn khởi, và họ tiến sâu vào lòng hang động. Ánh sáng anh thoáng thấy từ phía người có vẻ phát ra từ những tinh thể ngọc lam và những mạch quặng phát sáng ẩn trong chính những vách, sàn, và trần hang. Họ đã từng nghe kể về những loại tinh thể phát sáng đó và giờ đang rất biết ơn thứ ánh sáng chúng mang lại. Binh lính của anh sẽ có thể tập trung vào việc sử dụng vũ khí chứ không phải cầm đuốc. Trước đây cây búa của anh từng phát ra đủ ánh sáng để cho họ nhìn rõ đường. Anh nhăn mặt trước suy nghĩ đó, rồi gạt nó sang bên. Chuyện ánh sáng đó tới từ đâu không quan trọng, quan trọng là có ánh sáng là được.
Và rồi họ nghe thấy tiếng nói. Muradin đã đúng – mọi thứ vẫn như dự đoán.
Giọng nói đó trầm sâu, trống rỗng, lạnh lẽo, và với những từ kinh khủng khi vọng tới tai Arthas. “Quay lại, hỡi những kẻ phàm trần. Chỉ có cái chết và bóng tối là đang chờ đợi các ngươi trong hầm mộ bị bỏ rơi này thôi. Các ngươi không được qua đây.”
Muradin dừng lại. “Chèng trai à,” ông nói, giọng nói của ông tuy khẽ nhưng trong một nơi như thế này cũng khiến nó vang vọng mãi, “có lẽ chún ta nên lắng nghe.”
“Nghe cái gì chứ?” Arthas hét lên. “Một nỗ lực thảm hại cuối cùng để đuổi ta khỏi con đường cứu giúp dân tộc ta sao? Cần nhiều thứ hơn những câu nói hung gở mới làm được điều đó.”
Tay nắm chặt cán búa, anh đi nhanh tới trước, bẻ hướng ở một khúc cua – rồi đứng lại, cố nắm rõ mọi thứ ngay trước mắt.
Họ đã tìm thấy chủ nhân của những giọng nói lạnh giá kia. Trong khoảnh khắc, Arthas nhớ về nguyên tố nước dễ sai bảo của Jaina, nó đã giúp cô chống lại lũ ogre vào cái ngày rất lâu trước khi mọi thứ trở nên tàn nhẫn kinh hoàng như thế này. Những sinh vật đó bay lơ lửng trên nền băng đá của hang động, chúng được làm từ băng và một vật chất phi tự nhiên chứ không phải nước, trên người mặc thứ áo giáp trông như thể mọc ra từ chính cơ thể chúng. Đầu chúng đội mũ trụ, nhưng không hề có mặt; đeo găng tay, mang vũ khí và khiên, nhưng không hề có tay.
Dù cho với dáng vẻ đáng lo ngại đó, Arthas cũng chẳng để tâm nhiều tới những linh hồn nguyên tố đáng sợ đó vì mắt anh bị thu hút bởi chính cái lý do mà họ tới đây.
Băng Sầu.
Nó đang bay lơ lửng, được bọc trong một tảng băng, những ký tự cổ tự chạy dọc chiều dài lưỡi kiếm tỏa ra ánh sáng màu lam lạnh lẽo. Bên dưới là một bệ đỡ trên một mô đất được đắp lên phủ bởi một lớp tuyết mỏng. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt tới từ một khe hở nào đó trên trần hang chiếu xuống thanh cổ tự kiếm. Lớp vỏ bằng băng che dấu đi hình thù chi tiết của thanh kiếm, và cường điệu thêm nhiều thứ khác. Nó vừa rõ ràng lại vừa che dấu, và hơn tất thảy đó là sự quyến rũ như một người tình chỉ mới nhìn thấy thoáng qua sau lớp mành mỏng. Arthas biết thanh kiếm đó – chính là thanh kiếm mà anh thấy trong giấc mơ khi lần đầu tiên tới đây. Thanh kiếm không giết chết Bất Bại mà đã khiến nó hồi sinh lại với đầy sức mạnh. Lúc đó anh đã nghĩ đó là một điềm tốt, nhưng giờ anh biết đó thực sự là một lời tiên tri. Đây là thứ anh tới để tìm kiếm. Thanh kiếm này có thể thay đổi mọi thứ. Arthas nhìn nó đầy say mê, tay gần như đau đớn khi nắm lấy nó, những ngón tay nắm chặt cán kiếm, tay anh cảm thấy thanh kiếm vung lên đầy mượt mà trong đòn kết liễu Mal’Ganis, kết thúc nỗi đau khổ mà hắn đã giáng xuống đầu người dân Lordaeron, kết thúc cơn thèm khát trả thù này. Anh bước tới trước trong sự mê hoặc.
Linh hồn nguyên tố huyền bí rút thanh kiếm băng ra.
“Quay lại, trước khi quá muộn,” nó nói.
“Ngươi vẫn đang cố bảo vệ thanh kiếm hả?” Arthas gầm gừ trong sự tức giận và ngượng ngịu với phản ứng của chính mình.
“Không.” Giọng sinh vật đó rung lên. “Cố bảo vệ ngươi khỏi nó.”
Trong tích tắc, Arthas cứ đứng nhìn trong kinh ngạc. Rồi anh lắc đầu, mắt nheo lại đầy quyết tâm. Rõ ràng đây chỉ là trò lừa bịp. Anh sẽ không bao giờ quay đầu lại với Băng Sầu – quay đầu lại với cơ hội bảo vệ thần dân của mình. Anh sẽ không mắc lừa. Anh lao tới, binh lính theo ngay phía sau. Những thực thể kia cũng lao về phía họ và tấn công bằng thứ vũ khí phi tự nhiên của chúng, nhưng Arthas chỉ tập trung vào tên thủ lĩnh, kẻ đang canh gác Băng Sầu. Bằng tất cả cảm xúc hi vọng, lo lắng, sợ hãi, và tuyệt vọng dồn nén lại, anh dáng lên kẻ bảo hộ kỳ lạ kia. Các binh lính quay sang tấn công những kẻ bảo hộ nguyên tố khác. Cây búa của anh vung lên bổ xuống, vung lên lại bổ xuống, đập tan lớp áo giáp bằng băng khi những tiếng thét tức giận lung lạc trong cổ họng anh. Sao thứ này dám ngáng đường giữa anh với Băng Sầu chứ? Sao nó dám-
Bằng một tiếng kêu đầy đau đớn cuối cùng như thể tiếng hấp hối từ cổ họng một người sắp chết, linh hồn vung cái vật dùng để thay thế tay của nó lên trời và biến mất.
Arthas đứng đó nhìn và thở dốc, hơi thở từ đôi môi lạnh cóng của anh trắng như khói. Rồi anh quay về phía phần thưởng mà anh đã rất vất vả mới có được. Tất cả mọi nỗi e ngại đều biến mất khi anh nhìn thanh kiếm.
“Nhìn đi, Muradin,” anh nói và nhận ra giọng mình đang run lên, “sự cứu rỗi của chúng ta, Băng Sầu.”
“Chờ đã, chèng trai.” Lời nói thô lỗ của Muradin gần như một mệnh lệnh, như thể một gáo nước lạnh đổ lên đầu Arthas. Anh hấp háy mắt, giật mình tỉnh giấc khỏi cơn mê màng và quay sang nhìn ông lùn.
“Sao? Tại sao?” anh hỏi.
Muradin nheo mắt lại nhìn thanh kiếm đang bay lơ lửng và bệ đỡ bên dưới. “Có thứ zì đó hông đúng ỡ đây.” Ông chỉ vào thanh cổ tự kiếm. “Quá dễ dàng. Và nhìn nóa đi, ỡ ngay đó với ánh sáng tới từ chỗ nào đóa chẵng ai biết, như một đóa hoa chĩ chờ được hái.”
“Quá dễ à?” Arthas nhìn ông với vẻ không tin. “Mất rất lâu ông mới tìm được nó đấy. Và chúng ta đã phải đánh lại cái thứ kia mới dành được nó.”
“Chà,” Muradin khịt mũi. “Mọi thứ mà ta bít về cỗ vật đang bão ta rằng có thứ zì đó mờ ám ỡ đây giống như ỡ khu bến tàu Vịnh Cướp Biễn ấy.” Ông thở dài nhưng lông mày vẫn nhíu lại. “Chờ đã… có chữ khắc trên bệ đỡ nì. Đễ xem xem ta có đọc được hông. Có thễ nó sẽ cho chún ta bít zì đó.”
Cả hai người cùng tiến tới, Muradin khuỵu gối nhìn xuống dòng chữ, Arthas tiến sát tới thanh kiếm. Arthas liếc nhìn dòng chữ đang gây được sự chú ý của Muradin. Nó được viết bằng thứ ngôn ngữ anh không biết, nhưng có vẻ như ông lùn đọc được nó dựa vào cách mắt ông săm soi từng con chữ.
Arthas đưa bàn tay lên chạm vào lớp băng đang chia cách họ – quả là một lớp băng trơn láng và lạnh lẽo chết người, nhưng có thứ gì đó bất thường về nó. Đó không chỉ đơn giản là nước đá. Anh không biết làm sao anh biết được điều đó. Có thứ gì đó rất mạnh mẽ, gần như không thuộc về trái đất này.
Băng Sầu…
“Ầy, ta nghĩ ta đã nhận ra rùi. Nóa được viết bằng tiếng Kalimag – ngôn ngữ cũa các nguyên tố,” Muradin nói tiếp. Ông vừa đọc vừa cau mày. “Đóa là… một lời cãnh báo.”
“Cảnh báo à? Cảnh báo về cái gì?” Arthas nghĩ có thể nó nói về việc đập tan lớp băng này có thể gây hư hại cho thanh kiếm. Dường như tảng băng bất thường này đã bị cắt ra từ một tảng băng lớn hơn. Muradin từ từ dịch. Arthas lơ màng lắng nghe, mắt tập trung vào thanh kiếm.
“Bất cứ ai cóa được thanh kiếm nì sẽ được ban cho sức mạnh bất diệt. Thanh kiếm cắt vào thịt bao nhiu, sức mạnh càng xé nát linh hồn bấy nhiu.” Ông lùn nhảy dựng dậy, trở nên kích động tới mức Arthas chưa bao giờ thấy. “Ối, đáng ra ta đã phãi biết chứ. Thanh kiếm nì bị nguyền rũa rùi! Cuốn gói ra khõi đây ngay thôi!”
Trái tim Arthas bỗng quặn một cách kỳ lạ lại trước những lời của Muradin. Rời đi ư? Để thanh kiếm này mãi lơ lửng trong nhà tù băng, không được chạm vào, không được sử dụng, với sức mạnh lớn đến thế ư? “Sức mạnh bất diệt,” câu khắc trên đó đã hứa hẹn như thế, cùng với lời đe dọa xé nát linh hồn.
“Linh hồn ta vốn đã bị xé nát rồi,” Arthas nói. Và quả đúng như vậy. Nó đã bị xé nát bởi những cái chết vô ích của con chiến mã mà anh yêu quý, bởi nỗi kinh hoàng khi nhìn thấy cái chết bị dựng dậy, bởi sự phản bội của người mà anh yêu – đúng là anh rất yêu Jaina Proudmoore, anh có thể nói như vậy ngay bây giờ vào cái thời điểm linh hồn anh dường như bị phơi bày trước sự phán quyết của thanh kiếm. Nó đã bị xé nát bởi việc buộc phải tàn sát hàng trăm người, bởi việc phải lừa dối binh lính của mình và bịt miệng những kẻ dám nghi ngờ và bất tuân lệnh anh. Nó đã bị xé nát quá nhiều rồi. Hiển nhiên dấu vết để lại bởi sức mạnh đó dù tồi tệ đến thế nào cũng không thể lớn hơn được những điều đó.
“Arthas, chèng trai à,” Muradin nói vẻ cầu xin. “Cậu đã có đũ việc đễ xữ lý rùi, hông cần mang thêm một lời nguyền lên đầu nữa đâu.”
“Lời nguyền à?” Arthas cười cay đắng. “Ta sẵn sàng chịu đựng bất cứ lời nguyền nào để bảo vệ quê hương ta.”
Ngay khóe mắt, anh thấy Muradin đang run lên. “Arthas à, cậu biết ta là một ngừi cứng rắn, không hề bõ chạy trước bất cứ chuyện zì. Nhưng ta bão cậu nì, việc này quá tệ rồi đó chèng trai à. Kệ nóa đi. Cứ đễ nóa ỡ đây, bị thất lạc và lãng quên đi. Đúng là Mal’Ganis cũng ỡ đây, chà thì tốt thui. Cứ đễ hắn với cái đội quân ma quỹ của hắn chết cóng ở vùng hoang vu nì đi. Quên chuyện nì đi và dẫn binh lính cũa cậu về nhà thôi.”
Hình ảnh các binh lính chợt choán đầy trong đầu Arthas. Anh nhìn thấy họ, và bên cạnh họ anh thấy hàng trăm người đã ngã xuống trước bệnh dịch tồi tệ này. Ngã xuống để rồi lại bị dựng dậy thành một đám xác chết thối rữa không biết suy nghĩ. Còn họ thì sao? Còn linh hồn họ, sự đau đớn của họ, sự hi sinh của họ thì sao? Một hình ảnh khác xuất hiện – mộ tảng băng khổng lồ cùng loại với tảng băng đang chứa thanh Băng Sầu. Giờ anh đã thấy khối băng này xuất phát từ đâu. Nó là một phần của một thứ gì đó lớn hơn, mạnh mẽ hơn – và nó, cùng với thanh cổ tự kiếm bên trong, bằng cách nào đso đã được gửi tới với anh để báo thù cho những người đã ngã xuống. Một giọng nói thì thầm trong đầu óc anh: cái chết cần phải được báo thù.
Một nhóm nhỏ người còn sống mà so sánh với sự thống khổ của nhưng người đã ngã xuống một cách kinh hoàng sao?
“Kệ xác lũ binh lính đó!”
Những lời nói đó gần như bùng nổ từ đâu đó sâu thẳm bên trong anh. “Ta có trọng trách phải làm với người chết. Chẳng thứ gì có thể ngăn cản ta báo thù được, người bạn cũ của ta à.” Giờ đây anh đã dứt ánh mắt khỏi thanh kiếm để nhìn vào cặp mắt lo lắng của Muradin, và khuôn mặt anh thư giãn đôi chút. “Kể cả ông.”
“Arthas à – ta đã dạy cậu cách chiến đấu. Ta muốn giúp cậu trỡ thành một chiến binh giõi và một vị vua tốt. Nhưng một phần cũa việc trỡ thành một chiến binh giõi là phãi biết lựa chọn cuộc chiến nào cần chiến đấu – và sữ dụng thứ zũ khí nào.” Ông chỉ ngón tay vào thanh Băng Sầu. “Và cậu xẽ hông muốn thứ zũ khí đó được đặt vào kho zũ khí cũa cậu đâu.”
Arthas tì cả hai tay lên lớp băng bọc quanh thanh kiếm và ghé mặt lại sát mặt băng. Anh nghe Muradin nói như thể ông đang đứng ở khoảng cách rất xa.
“Hãy nghe lời ta đi, chèng trai à. Chún ta xẽ tìm được cách khác đễ cứu người dân cũa cậu mà. Giờ hãy đi thôi, quay trỡ lại tìm con đường khác.”
Muradin nhầm rồi. Ông ta không thể hiểu nổi đâu. Arthas phải làm việc này. Nếu bây giờ anh quay đi, anh sẽ lại thất bại, và anh không thể để điều đó xảy ra. Lúc nào anh cũng bị ngăn cản.
Nhưng không phải lần này.
Anh tin vào Ánh Sáng, bởi vì anh có thể nhìn thấy và sử dụng nó, và anh tin vào hồn ma và xác chết biết đi, vì anh đã phải chống lại chống. Nhưng từ trước tới giờ, anh vẫn luôn chế giễu cái ý tưởng về một sức mạnh vô hình tới từ một linh hồn, nơi chốn, hoặc một thứ đồ gì đó. Nhưng giờ đây, trái tim anh đang đập thổn thức và bằng sự mong mỏi, lòng thèm khát đang sôi sục trong chính linh hồn anh, môi anh dường như đang tự động mấp máy nói.
“Ngay giờ đây, ta triệu hồi các linh hồn thuộc nơi đây,” anh nói, hơi thở đóng băng trong bầu không khí lạnh giá tĩnh mịch. Ngay sát tầm tay anh, thanh Băng Sầu bay lơ lửng đang chờ đợi anh. “Dù các ngươi như thế nào, tốt hay xấu hay cả hai hoặc không có gì. Ta có thể cảm thấy các ngươi đang ở đây. Ta biết các ngươi đáng lắng nghe. Ta đã sẵn sàng. Ta đã hiểu rõ. Và ta tuyên bố với các ngươi – ta sẽ cho đi mọi thứ, hoặc trả mọi cái giá, chỉ cần các ngươi giúp ta bảo vệ thần dân của ta.”
Suốt một khoảng thời gian tồi tệ kéo dài, chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Hơi thở của anh đóng băng, tan biến đi, rồi lại đóng băng, nhưng giọt mồ hôi lạnh toát điểm trên trán anh. Anh đã dâng lên mọi thứ anh có – chẳng lẽ anh đã bị từ chối sao? Chẳng lẽ anh lại thất bại nữa sao?
Rồi bằng một tiếng rên rỉ khe khẽ khiến cả cơ thể anh như đóng băng lại, một vết nứt bất ngờ xuất hiện trên mặt băng. Nó nhanh chóng lan lên phía trên, chạy ngoằn ngoèo và lan rộng ra, tới khi Arthas khó lòng thấy được thanh kiếm nằm bên trong nữa. Rồi anh lùi lại phía sau và che tai lại trước tiếng nổ lớn vang vọng trong hang.
Tảng băng bao bọc quanh thanh kiếm phát nổ. Những mảnh vỡ bay tung tóe khắp hang, kể cả chính thanh kiếm sắc nhọn. Chúng rơi lả tả xuống nền và vách đá cứng, nhưng khi Arthas khuỵu gối xuống và lấy tay che đầu, anh nghe thấy một tiếng thét lớn vang lên.
“Muradin!”
Mảnh băng vỡ va chạm đã khiến ông lùn bị hất tung ra sau vài bộ. Giờ ông đang nằm dài trên nền đá lạnh, một mảnh băng dài nhọn như mũi giáo đâm thẳng vào người, máu chảy ra xung quanh. Mắt ông nhắm chặt và người mềm oặt. Arthas gượng đứng dậy và chạy về phía người bạn cũ và người cựu huấn luyện viên của mình, anh tháo găng tay của mình ra. Anh vòng tay quanh cơ thể mềm oặt của ông, đặt bàn tay lên vết thương, anh nhìn vào đó, mong rằng Ánh Sáng sẽ tới tỏa sáng bàn tay anh với nguồn năng lượng chữa thương. Cảm giác tội lỗi bao phủ lấy anh.
Vậy ra đây chính là cái giá đáng sợ đó. Không phải mạng sống của chính anh mà là của một người bạn. Một người quan tâm anh, dạy dỗ anh, hỗ trợ anh. Anh cúi đầu, nước mắt cay xè trong mắt, và anh thầm cầu nguyện.
Đó là hành động điên rồ của ta. Cái giá ta phải trả. Cầu xin-
Và rồi như một cái mơn trớn quen thuộc của một người bạn cũ, anh lại cảm thấy nó. Ánh Sáng đã quay lại với anh, đầy dễ chịu và ấm áp, và anh cố ngăn tiếng khóc thổn thức khi anh nhìn thấy ánh sáng đang bao phủ quanh tay anh. Anh đã sa ngã quá xa, nhưng vẫn chưa phải quá muộn. Ánh Sáng vẫn chưa bỏ rơi anh. Tất cả những gì anh cần làm là mở lòng mình ra. Muradin sẽ không chết. Anh có thể chữa cho ông ấy, và cùng nhau họ-
Có thứ gì đó đang quấy động sau gáy anh. Không, không, không phải sau gáy… là đằng sau trí óc anh. Anh nhanh chóng nhìn lên-
Và cứ nhìn chằm chằm trong kinh ngạc.
Nó đã tự mình bay tới trước mắt anh, những ký tự cổ tự được bao bọc bởi thứ ánh sáng lạnh lẽo và huy hoàng. Ánh Sáng trên tay anh tan biến ngay khi anh đứng dậy, gần như bị thôi miên. Băng Sầu đang chờ đợi anh như một người tình đang chờ đợi cái động chạm của dục vọng để được đánh thức về thời kỳ huy hoàng nhất.
Lời thì thầm đằng sau trí óc anh vẫn tiếp tục nói. Đấy chỉ còn là con đường xưa cũ thôi. Thật ngu ngốc khi tin vào Ánh Sáng. Nó đã phụ anh, nhiều lần rồi. Nó đã không tới cứu Bất Bại, nó không có đủ khả năng ngăn cản được bệnh dịch kinh hoàng đó tiến tới quét sạch dân số vương quốc của anh. Sức mạnh của Băng Sầu – đó là thứ duy nhất có thể chống lại sức mạnh của một chúa tể sợ hãi.
Muradin đã hi sinh vì trận chiến tồi tệ này. Nhưng may thay sự hi sinh của ông sẽ là sự hi sinh cuối cùng. Arthas đứng dậy và lảo đảo bước về phía món vũ khí lộng lẫy ấy, tay anh, vẫn còn dính đầy máu bạn mình, run run với tới trước. Nó chạm vào tay cầm và những ngón tay nắm chặt xung quanh vừa vặn một cách hoàn thảo, như thể nó được làm riêng cho chính anh.
Anh bỗng cảm thấy cái lạnh tràn đến, khiến hai cánh tay run lên, rồi lan ra khắp cơ thể và cả vào trái tim anh. Trong phút chốc nó thật là đau đớn và khiến anh cảm thấy chút hoảng hốt, và rồi đột nhiên mọi chuyện qua đi. Mọi chuyện đều đã qua đi; Băng Sầu là anh và anh chính là nó, và giọng của nó đang nói, đang thì thầm, đang mơn trớn trong tâm trí anh như thể nó vẫn luôn ở đó.
Với một tiếng thét đầy niềm vui, anh nhấc món vũ khí lên và nhìn nó đầy kinh ngạc xen lẫn hãnh diện. Anh sẽ làm được mọi thứ – anh, Arthas Menethil, và thanh Băng Sầu lộng lẫy giờ đã trở thành một phần của anh cũng như tâm trí và trái tim hơi thở của anh, và anh chăm chú lắng nghe những bí mật nó đang tiết lộ.