“Như người thấy đấy, thưa Hoàng Tử,” Trung Tướng Aedelas Blackmoore nói, “chỗ thuế đó đã được sử dụng rất tốt. Mọi sự phòng ngừa đã được triển khai cho điều này. Thực tế an ninh được thắt chặt tới mức chúng ta có thể tổ chức những cuộc giác đấu tại đây.”
“Như ta từng nghe nói,” Arthas nói khi anh rảo bước cùng với chỉ huy các khu trại giam trong một chuyến thăm viếng. Dù không phải là một trại giam nhưng lại là trung tâm điều khiển của tất cả các trại giam, Durnholde thật khổng lồ, thực sự cứ như đang có một bầu không khí lễ hội tại đây vậy. Đó là một ngày mùa thu sáng sủa nhưng mát mẻ, và làn gió khiến những cờ hiệu màu xanh lam và trắng trên pháo đài bay phần phật. Cơn gió thổi tung mái tóc của Blackmoore và giật mạnh áo choàng của Arthas khi họ đi dọc tường thành.
“Và người rồi sẽ thấy,” Blackmoore cười toe toét và hứa với vị hoàng tử.
Chính Arthas đã đề ra ý về cuộc thanh tra bất ngờ này. Terenas đã khen ngợi sự chủ động và lòng trắc ẩn của Arthas. “Đó là điều nên làm mà Phụ Vương,” Arthas đã nói vậy, và anh cũng có ý đó, mặc dù lý do chủ yếu cho lời đề nghị này là để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình về con orc cưng mà vị trung tướng đang giữ. “Chúng ta phải đảm bảo rằng số tiền được đổ vào khu trại chứ không phải vào túi Blackmoore. Chúng ta có thể biết được nếu ông ta đang để tâm đến những cuộc giác đấu – và cũng là để chắc chắn ông ta không đi theo vết xe đổ của cha mình.”
Cha của Blackmoore, Tướng Aedelyn Blackmoore, là một kẻ phản bội khét tiếng, ông ta từng đã bán bí mật quốc gia và đã bị kết tội vì điều đó. Tội ác của ông ta đã xảy ra từ rất lâu về trước, khi con trai ông ta mới chỉ là một đứa trẻ, vết nhơ đó đã bám lên người Aedelas theo cả sự nghiệp quân sự của ông ta. Chỉ nhờ những chiến công trong chiến đấu, và sự dữ dội trong khi chiến đấu với lũ orc, đã cho phép Blackmoore hiện giờ được thăng tiến trong hàng ngũ. Dù vậy, Arthas vẫn ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của người đàn ông này, cho dù giờ mới chỉ là sáng sớm. Anh cho rằng mẩu thông tin đó sẽ chẳng phải tin tức gì mới với Terenas, nhưng dù sao anh cũng sẽ báo với cha mình.
Arthas nhìn xuống, giả vờ thích thú với chuyện ngắm nhìn hàng tá lính canh đứng đó tỏ ra cảnh giác một cách hơi gượng ép. Anh thắc mắc không biết họ có còn cảnh giác đến vậy không khi vị vua tương lai này không ngắm nhìn họ.
“Ta đang chờ xem cuộc đấu ngày hôm nay,” anh nói. “Ta có được xem Thrall của ông thi đấu không? Ta từng nghe được đôi chút về hắn.”
Blackmoore cười toe toét, chòm râu dê được xén gọn gàng của ông ta đối lập hẳn với hàm răng trắng. “Hắn không có lịch thi đấu vào ngày hôm nay, nhưng vì ngài thưa Hoàng Tử, thần sẽ bắt cặp cho hắn đấu lại những đối thủ xứng đáng nhất.”
Hai tiếng sau, chuyến thanh tra đã hoàn thành, và Arthas ăn một bữa ngon lành với Blackmoore và một người đàn ông trẻ tên là Lãnh Chúa Karramyn Langston, người Blackmoore giới thiệu là “người được thần bảo trợ.” Arthas có cảm giác không ưa tên Langston này với bàn tay mềm mại và điệu bộ uể oải của hắn. Ít nhất Blackmoore cũng đã chiến đấu để dành được danh hiệu của mình; cậu nhóc này – Arthas nghĩ hắn chỉ đáng là một cậu nhóc, mặc dù Langston lớn hơn số tuổi hiện thời của Arthas là mười bảy – lại được phục vụ mọi thứ tận miệng.
Chà, mình cũng vậy mà, anh nghĩ, nhưng anh cũng biết về sự hi sinh mà một vị vua cần phải có. Langston trông có vẻ chưa bao giờ từ chối thứ gì trong cuộc đời hắn. Và kể cả bây giờ cũng thế, hắn tự chọn miếng thịt ngon nhất, miếng bánh lớn nhất, và uống nhiều hơn một ly rượu vang để tống chỗ thức ăn ấy xuống. Ngược lại, Blackmoore lại ăn uống rất thanh đạm, dù cho ông ta có uống nhiều rượu hơn Langston.
Cái ghét Arthas dành cho hai gã này đã đẩy lên mức tối đa khi người hầu gái bước vào và Blackmoore đưa tay ra chạm vào cô như thể ông ta sở hữu cô ấy vậy. Cô gái này có mái tóc vàng và ăn mặc rất giản dị, khuôn mặt cô chẳng cần trang điểm gì cũng đã rất xinh đẹp, cô nhoẻn miệng cười như thể cô rất thích điều đó, nhưng Arthas thấy ẩn sau đôi mắt xanh lam của cô là một nỗi buồn.
“Đây là Taretha Foxton,” Blackmoore nói, một tay vẫn vuốt ve tay cô gái khi cô thu dọn bát đĩa. “Con gái đầy tớ riêng của thần là Tammis, thần chắc người rồi sẽ sớm gặp ông ta.”
Arthas nở một nụ cười hấp dẫn nhất dành cho cô gái. Cô khiến anh nhớ đến Jaina – tóc của cô sáng lên trong ánh nắng, làn da cô ngăm đen. Cô nhoẻn cười đáp trả lại anh, rồi e dè nhìn đi chỗ khác khi vẫn thu dọn bát đĩa, rồi khẽ nhún chân chào trước khi rời đi.
“Người sẽ sớm có được một người như thế này thôi, chàng trai ạ,” Blackmoore nói và cười lớn. Arthas mất cả giây sau mới hiểu được ý nghĩa của lời nói đó và rồi anh chớp mắt giật mình. Hai gã đàn ông kia cười lớn hơn nữa, và Blackmoore nhấc ly lên chúc mừng.
“Với những cô gái tóc vàng,” anh khẽ nói. Arthas ngoái lại nhìn Taretha, nghĩ về Jaina, rồi buộc mình nhấc ly lên.
Một tiếng sau Arthas đã quên hết tất cả về Taretha Foxton và sự căm phẫn mà cô phải chịu. Giọng anh khàn đi vì la hét, tay anh đau đớn vì vỗ tay quá nhiều, và anh đã có một khoảng thời gian cực kỳ vui vẻ.
Đầu tiên anh cảm thấy đôi chút không thoải mái. Những đấu sĩ đầu tiên trong đấu trường chỉ là lũ súc vật đọ sức với nhau, chiến đấu tới chết chỉ vì mục đích làm thỏa mãn người xem. “Bọn chúng bị đối xử như thế nào trước đây vậy?” Artha hỏi. Anh rất yêu quý động vật; nó khiến anh bối rối khi thấy chúng như vậy.
Langston mở miệng định nói, nhưng Blackmoore nhanh chóng vẩy tay ra hiệu cho hắn im lặng. Hắn mỉm cười, ngả người ra trên ghế dài và nhâm nhi một chùm nho. “Chà dĩ nhiên là chúng thần muốn chúng luôn ở phong độ tốt nhất rồi,” ông ta nói. “Vậy nên chúng được được bắt và chăm sóc rất tốt. Như người thấy đấy, cuộc đấu diễn ra rất nhanh chóng. Nếu một con thú còn sống nhưng không thể tiếp tục chiến đấu nữa, chúng thần sẽ giết chết nó một cách nhân từ.”
Arthas hi vọng người đàn ông này không lừa dối anh. Một cảm giác bệnh hoạn trong lòng đang bảo anh rằng có thể tên Blackmoore này đang nói dối, nhưng anh phớt lờ điều đó đi. Cảm giác đó biến mất khi cuộc đấu chuyển thành người đấu với thú vật. Khi anh chăm chút theo dõi, Blackmoore nói, “Những người đó được trả rất hậu hĩnh. Thực sự họ đã trở thành những người có tiếng tăm.”
Nhưng chắc không phải tên orc. Và Arthas biết điều đó, nhưng vẫn chấp thuận. Đó là những gì anh đang trông đợi – cơ hội được trông thấy con orc cưng của Blackmoore, nó được tìm thấy lúc còn là đứa bé sơ sinh và được nuôi dạy để trở thành một chiến binh trong đấu trường này.
Anh đã không phải thất vọng. Dường như mọi thứ từ đầu đến giờ chỉ là màn khởi động cho đám đông mà thôi. Khi cánh cửa bật mở và một hình thù màu xanh to lớn bước ra ngoài, một người đều đứng dậy và rống lên. Arthas bỗng thấy mình cũng hòa cùng đám người đó.
Thrall thật khổng lồ, trông có vẻ còn to lớn hơn nữa bởi rõ ràng là hắn khỏe mạnh và nhanh nhẹn hơn hẳn đám orc Arthas thấy ở trong khu trại. Hắn mặc ít lớp giáp và không đội mũ trụ, và làn da xanh căng tràn trên những thớ cơ mạnh mẽ. Hắn cũng đứng thẳng hơn lũ orc ấy. Tiếng hoan hô vang lên inh tai, và Thrall bước đi vòng tròn quanh đấu trường, tay giơ nắm đấm và hướng cái mặt xấu xí lên hứng lấy cơn mưa cánh hoa hồng đang rơi xuống vốn thường được dùng trong dịp lễ hội.
“Thần đã dạy hắn làm thế đấy,” Blackmoore nói đầy vẻ tự hào. “Thật sự đúng là một điều kỳ cục. Đám đông cổ vũ hắn, nhưng lúc nào họ cũng muốn hắn bị đánh bại.”
“Hắn đã thua trận nào chưa?”
“Chưa bao giờ, thưa Hoàng Tử. Và sẽ không bao giờ. Nhưng người ta vẫn cứ hi vọng, và tiền thì vẫn cứ chảy.”
Arthas nhìn ông ta. “Khi mà ngân khố hoàng gia còn được chia hoa hồng từ doanh thu của ông, Trung Tướng à, thì ông vẫn được phép tiếp tục trò chơi này.” Anh lại quay về phía tên orc, theo dõi hắn đi hết một vòng quanh đấu trường. “Hắn… hoàn toàn có thể kiểm soát phải không?”
“Đương nhiên rồi,” Blackmoore trả lời ngay. “Hắn được con người nuôi dạy và được dạy phải sợ và kính trọng chúng ta.”
Ngay khi anh nghe thấy lời nhận xét đó, dù cho thực sự anh chẳng thể nghe nổi vì tiếng la hét rền vang khắp khán đài, Thrall quay về phía Arthas, Blackmoore, và Langston đang ngồi. Hắn đấm ngực rồi gập người chào.
“Người thấy chứ? Hoàn toàn là con thú của thần,” Blackmoore xuýt xoa. Ông ta đứng dậy nhấc một lá cờ lên vẫy, và bên kia đấu trường một người đàn ông tóc đỏ dáng vẻ cứng cáp vẫy một lá cờ khác. Thrall quay về phía cửa, tay nắm chặt cây rìu chiến khổng lồ dùng làm vũ khí của hắn trong trận này.
Các lính canh bắt đầu kéo cửa lên, và trước khi nó mở ra hoàn toàn, một con gấu to cỡ Bất Bại lao về phía trước. Lông nó dựng lên và nó lao thẳng về phía Thrall như thể vừa được bắn ra từ một khẩu đại bác, tiếng gầm gừ của nó có thể nghe rõ kể cả với tiếng la hét của đám đông.
Thrall vẫn đứng nguyên tại chỗ, hắn chỉ né sang một bên ngay khoảnh khắc cuối cùng và vung cây rìu lên như thế nó nhẹ như không. Nó xé toạc một bên hông con gấu, và con thú vật gầm lên trong đau đớn và điên cuồng, nó quay người lại khiến máu bắn tung tóe khắp nơi. Một lần nữa tên orc vẫn đứng nguyên tại chỗ cho tới khi hắn bỗng di chuyển với cái tốc độ đáng ngạc nhiên với cái kích thước kia. Hắn tóm chặt đầu con gấu, miệng gầm gừ những lời chế nhạo bằng chất giọng Ngôn Ngữ Chung hoàn hảo, và bổ cây rìu xuống. Đầu con gấu gần như bị chặt đứt lìa khỏi cổ, nhưng nó vẫn còn chạy thêm một đoạn ngắn trước khi ngã lăn ra thành một đống thịt run lẩy bẩy.
Thrall ngửa đầu ra gầm lên trong chiến thắng. Đám đông gần như phát điên lên. Arthas cứ nhìn chằm chằm.
Tên orc chẳng hề bị một vết xước nào, và Arthas còn có thể nói rằng tên cục súc thậm chí còn chẳng hề phải thở dốc.
“Đó mới chỉ là mở màn thôi,” Blackmoore nói và mỉm cười trước phản ứng của Arthas. “Tiếp theo sẽ là ba con người tấn công hắn. Hắn không được giết họ, chỉ được đánh gục họ mà thôi. Sẽ là một trận đấu chiến lược hơn là chỉ dựa vào sức mạnh đơn thuần, nhưng thần phải thú nhận, việc nhìn hắn xử trảm con gấu chỉ bằng một đòn luôn khiến thần phải tự hào.”
Ba đấu sĩ con người, tất cả đều là những người đàn ông to lớn lực lưỡng, họ bước vào đấu trường và chào đối thủ và đám đông. Arthas nhìn Thrall ước lượng sức mạnh của họ và thắc mắc Blackmoore thông minh đến đâu để có thể khiến con orc cưng này chiến đấu giỏi đến vậy. Nếu Thrall có trốn thoát, hắn có thể dạy những kỹ năng đó cho những tên orc khác.
Điều đó là hoàn toàn có thể xảy ra, cho an ninh được tăng cường đến đâu. Dù sao thì nếu Orgrim Doomhammer có thể thoát khỏi Hạ Thành ngay giữa trung tâm cung điện, Thrall hoàn toàn có thể thoát khỏi Durnholde.
Chuyến thanh tra kéo dài năm ngày. Một buổi tối nọ, Taretha Foxton tới gặp vị hoàng tử tại phòng riêng của anh. Anh đã thật bối rối khi những người hầu của anh không trả lời khi anh gõ cửa và thậm chí còn giật cả mình khi thấy cô gái tóc vàng xinh đẹp đứng đó mà mang theo một khay đồ ăn. Mắt cô nhìn xuống đất, nhưng quần áo của cô để lộ ra nhiều điều mà anh không cần nói.
Cô nhún gối chào. “Ngài Blackmoore cử tôi mang những thứ này đến cho người ạ,” cô nói. Má cô đỏ phừng phừng. Arthas cảm thấy thật bối rối.
“Ta – bảo với chủ nhân của cô là cảm ơn ngài ấy, mặc dù ta không đói. Và ta thắc mắc ông ấy đã làm gì với các đầy tớ của ta.”
“Họ được mời tới bữa tiệc cùng những người hầu khác rồi ạ,” Taretha giải thích. Cô vẫn không nhìn lên.
“Ta hiểu rồi. Chà, ngài trung tướng tử tế thật; ta chắc mấy người đó sẽ cảm kích lắm.”
Cô không hề di chuyển.
“Có còn gì nữa không hả Taretha?”
Má cô lúc này càng trở nên đỏ hơn, và cô nhướn mắt lên nhìn anh. Chúng thật cam chịu và bình tĩnh. “Ngài Blackmoore cử tôi mang những thứ này đến cho người ạ,” cô nói lại. “Thứ mà có thể người sẽ thích.”
Sau đó anh ngay lập hiểu ra mọi chuyện. Hiểu, và xấu hổ, cáu kỉnh, và cả tức giận. Anh cố bình tĩnh lại – đó rõ ràng không phải là lỗi của cô gái, chỉ là cô đã bị lạm dụng mà thôi.
“Taretha à,” anh nói, “ta sẽ lấy chỗ thức ăn, rất cảm ơn. Ta không cần gì nữa cả.”
“Thưa Hoàng Tử, tôi sợ rằng ngài ấy cứ nhất định như vậy.”
“Bảo với ông ta là ta bảo là ổn.”
“Thưa ngài, người không hiểu rồi. Nếu tôi trở về, ông ấy-”
Anh nhìn xuống hai bàn tay đang bê cái khay, nó bị những lọn tóc dài che khuất. Arthas tiến tới trước và nhấc lọn tóc ra khỏi vị trí, và anh cau mày trước vết thâm tím trên cổ tay và cả cổ họng cô.
“Ta hiểu rồi,” anh nói. “Vậy thì vào trong đi.” Khi cô đã vào bên trong, anh đóng cửa lại và quay về phía cô.
“Cứ ở lâu đến khi nào cô cảm thấy thoải mái, rồi hãy về với ông ta. Trong khi ấy, chắc ta khó lòng ăn hết chỗ này được.” Anh ra hiệu cho cô ngồi xuống và ngồi xuống một cái ghế đối diện với cô, anh nhấc một miếng bánh ngọt lên và cười toe toét.
Taretha chớp mắt với anh. Mất một chút cô mới hiểu được những gì anh vừa nói, và rồi sự khuây khỏa và lòng biết ơn dần nở ra trên mặt cô khi cô rót rượu vang. Sau một lát, cô bắt đầu trả lời câu hỏi của anh một cách rất đỗi lịch sự, và họ nói chuyện suốt vài tiếng sau đó trước khi họ đồng ý rằng đã đến lúc cô trở về. Khi cô nhấc khay lên, cô quay sang nhìn anh.
“Thưa Hoàng Tử – tôi rất lấy làm vui khi biết rằng người đàn ông tiếp theo lên làm vua lại có một trái tim nhân từ đến vậy. Quý cô mà người chọn làm hoàng hậu ắt hẳn phải là một người phụ nữ rất may mắn.”
Anh mỉm cười và đóng cửa lại sau lưng cô, rồi anh tựa vào đó một lát.
Cô gái mà anh sẽ chọn làm hoàng hậu. Anh nhớ lại về cuộc nói chuyện với Calia; may cho chị anh, Terenas đã bắt đầu có chút hoài nghi về Prestor – chẳng thể chứng minh được điều gì, nhưng quá đủ để ông phải suy nghĩ lại.
Arthas cũng sắp đến tuổi rồi – hơn hai tuổi so với lúc Calia suýt bị cha của họ hứa hôn với Prestor. Anh cho rằng anh sắp phải nghĩ đến chuyện tìm một hoàng hậu.
Ngày mai anh sẽ rời đi, không sớm hơn hay muộn hơn.
Cái lạnh của mùa đông đã phủ khắp không gian. Những ngày huy hoàng cuối cùng của mùa thu đã đi qua, và những cái cây từng mang sắc vàng đỏ và cam, giờ đây chỉ còn là những cành cây khẳng khiu trên nền trời xám xịt. Chỉ trong vòng vài tháng nữa, Arthas sẽ đến tuổi mười chín và sẽ được kết nạp vào Hội Bàn Tay Bạc, và anh đã rất sẵn sàng. Việc huấn luyện cùng với Muradin đã kết thúc vài tháng trước, và giờ đây anh đã bắt đầu tập luyện với Uther. Thật là khác, nhưng vẫn rất quen thuộc. Những gì Muradin đã dạy là sự chăm chú và quyết tâm có được chiến thắng bằng mọi giá. Các hiệp sĩ lại nhìn nhận về những trận đấu theo một cách lễ nghi hơn nhiều, và tập trung nhiều hơn vào quan điểm của các đấu sĩ hơn là chính việc đấu kiếm đó. Arthas nhận thấy cả hai phương thức đều rất có căn cứ, mặc dù anh đã bắt đầu thắc mắc rằng liệu anh có bao giờ có được cơ hội sử dụng những gì đã học vào một trận chiến đích thực không.
Thường thì giờ anh đang phải tham gia buổi cầu nguyện, nhưng cha anh đang có một chuyến đi ngoại giao tới Stromgarde, và Uther đã đi theo hộ tống ông ấy. Điều đó có nghĩa là giờ Arthas được rảnh buổi chiều trong vài ngày, và anh không định lãng phí điều đó, kể cả nếu thời tiết có đôi chút tệ hại. Anh ôm lấy Bất Bại một cách thân thiết khi họ phi trên khu trảng, bước chân của con thú chỉ hơi chậm lại đôi chút vì lớp tuyết dày vài tấc trên mặt đất. Anh có thể thấy được khói trong hơi thở của mình và của con ngựa trắng lớn khi Bất Bại ngửa đầu ra và khịt mũi.
Giờ tuyết đã lại bắt đầu rơi, không phải là những bông tuyết lớn mềm mịn rơi lững lờ xuống nữa mà là những viên tinh thể tuyết nhỏ và cứng. Arthas nhăn mặt và tiếp tục tiến tới. Anh tự nhủ rằng sẽ chỉ đi thêm một lát nữa thôi, rồi anh sẽ quay về. Có thể anh sẽ dừng lại ở trang trại nhà Balnir. Đã khá lâu rồi anh chưa tới đó; Jorum và Jarim sẽ rất thích thú khi nhìn thấy con ngựa con nhỏ bé nhút nhát ngày xưa đã trở thành một con ngựa đẹp đẽ đến nhường nào.
Cơn bốc đồng lâu nay bị đè nén giờ đang yêu cầu được đáp trả, và Arthas bẻ hướng Bất Bại bằng cách ép nhẹ chân trái. Con ngựa ngoan ngoãn quay người một cách hòa hợp theo ý muốn của chủ nhân. Cơn mưa tuyết dần nặng hạt hơn, những kim châm tí hon đâm vào da thịt hở của anh, và Arthas kéo mũ trùm lên đầu giúp che chắn bớt phần nào. Bất Bại lắc đầu, lớp da của nó giật giật giống như khi nó bị đám côn trùng quấy nhiễu vào mùa hè. Nó phi dọc con đường, vươn cái cổ ra phía trước, tận hưởng sự nỗ lực cùng với Arthas.
Giờ họ sắp tới đoạn cần nhảy, và ngay sau đó sẽ là một chuồng ngựa ấm áp dành cho con ngựa và một ca trà nóng cho người kỵ sĩ trước khi họ quay trở về cung. Mặt Arthas dần trở nên tê cóng vì cái lạnh, và bàn tay dù nằm trong đôi găng làm bằng da loại tốt cũng chẳng hề khá hơn. Anh nắm chặt bàn tay lạnh cóng quanh dây cương, buộc những ngón tay phải gập lại, và chuẩn bị tinh thần cho Bất Bại nhảy – không, anh tự nhắc nhở bản thân, là bay, họ bay như thể-
-nhưng họ lại không bay được. Vào phút cuối, Arthas bỗng cảm thấy vó sau của Bất Bại bị trượt trên nền băng, con ngựa sẩy chân và hí vang, chân nó khua điên cuồng trên không cố tìm chỗ đặt an toàn. Cổ họng Arthas bỗng khàn đi, và anh nhận ra anh đang hét lên khi họ đang lao thẳng vào một tảng đá xù xì chứ không phải là nền cỏ bị lấp bởi tuyết với một tốc độ chết người. Anh kéo mạnh dây cương, như thể điều đó có thể có chút tác dụng, như thể mọi việc sẽ đều có tác dụng-
Và rồi đầu óc anh chỉ còn những tiếng kêu, anh nhấp nháy mắt tỉnh lại với tiếng kêu buốt xương của một con thú đang bị đau đớn đến tận cùng. Ban đầu anh không thể nào di chuyển được, dù cho cơ thể đang cố co thắt hết cỡ, anh cố di chuyển về phía tiếng kêu đáng sợ đó. Cuối cùng anh đã có thể ngồi dậy. Cơ thể anh bỗng nhói đau và anh hét lên cùng với tiếng thét kỳ quái kia, và anh nhận ra rằng có lẽ mình đã gãy một hai cái xương sườn.
Cơn mưa tuyết đã dần nặng hạt hơn và giờ đang rất dày. Anh khó lòng thấy được xa hơn ba bộ ngay trước mặt. Anh cố nén cơn đau và dỏng cổ lên cố tìm kiếm-
Bất Bại. Mắt anh bỗng nhìn thấy cử động và một vũng màu đỏ lớn đang làm tan chảy cả tuyết, và nó đang bốc hơi kể cả trong trời giá lạnh như thế này.
“Không,” Arthas thì thào và cố đứng dậy. Cả thế giới gần như tối sầm và anh suýt bất tỉnh trở lại, nhưng may thay anh vẫn trụ được. Anh từ từ lần đường tiến về phía con thú đang hoảng sợ, anh vật vã trong cơn đau đớn, cơn gió và mưa tuyết đang đe dọa thổi ngã người anh.
Bất Bại đang quẫy đạp trong đống tuyết đầy máu bằng hai chân sau mạnh mẽ chưa bị thương và hai chân trước đã gãy. Arthas cảm thấy bụng mình nặng như chì khi nhìn thấy hai chân gãy của nó, lúc trước từng rất thẳng, dài, sạch sẽ, và hùng mạnh, giờ đây đang vẹo đi một góc kỳ dị khi Bất Bại cố đứng dậy. Rồi hình ảnh đó được cơn mưa tuyết xóa nhòa đi một cách nhân từ và những dòng nước mắt nóng hổi chảy dọc hai má anh.
Anh lê chân tới bên con ngựa của mình và khóc thổn thức, anh khuỵu chân xuống bên con thú đang điên cuồng cố để – để làm gì được chứ? Đó đâu phải một vết xước nhỏ để có thể băng bó nhanh chóng để Bất Bại được dẫn tới một chuồng ngựa nhỏ và được ngâm nước nóng đâu. Arthas với tay xuống đầu con thú, anh muốn chạm vào nó, để bằng cách nào đó giúp nó bình tĩnh lại, nhưng Bất Bại đang hoảng loạn trong cơn đau đớn. Và nó vẫn cứ rít lên như vậy.
Giúp với. Có các tư tế và Ngài Uther – có thể họ có thể chữa trị-
Nỗi đau lớn hơn cả cơn đau thể xác tràn ngập cơ thể anh chàng. Vị giám mục đã đi cùng cha anh tới Stromgarde, và cả Uther nữa. Có thể có tu sĩ nào khác ở một ngôi làng khác, nhưng Arthas lại không biết nó ở đâu cả, và với cơn bão-
Anh lùi lại khỏi con thú, cố che tai mình và nhắm mắt lại, anh thổn thức đến mức cả cơ thể mình run lên. Trong cơn bão này, anh sẽ không thể tìm ra nổi một y sư trước khi Bất Bại hoặc bị chết vì vết thương hoặc bị lạnh cóng tới chết. Arthas còn không chắc mình có thể tìm ra nổi trang trại của nhà Balnir, dù cho nó không còn xa nữa. Cả thế giới toàn một màu trắng, tất cả mọi thứ trừ con ngựa sắp chết, nó đã tin tưởng anh tới mức đã nhảy khỏi một bờ đê toàn băng, và rồi nằm giãy chết trên một vũng máu bốc khói như thế này.
Arthas biết mình phải làm gì, và anh không thể làm thế được.
Anh không biết mình đã ngồi đó bao lâu, khóc lóc và cố gạt đi hình ảnh âm thanh của con ngựa yêu quý đang trong đau đớn, tới khi cuối cùng cử động của Bất Bại dần chậm đi. Nó nằm trên tuyết, lồng ngực phập phồng, mắt đảo tròn đầy đau khổ.
Arthas không thể cảm thấy khuôn mặt hay tứ chi của mình nữa, nhưng bằng cách nào đó anh đã có thể tiến tới trước tới bên con thú. Nội việc thở thôi cũng khiến anh đau đớn, và anh chấp nhận cơn đau đó. Đây là lỗi của anh. Lỗi của anh. Anh đặt cái đầu lớn của nó lên đùi mình, và trong một khoảnh khắc thanh bình anh không còn ngồi trên tuyết cùng con thú bị thương nữa, mà là ngồi trong một chuồng ngựa khi một con ngựa cái đang sinh con. Vào lúc đó, mọi chuyện chỉ mới bắt đầu, và sẽ không dẫn tới một kết cục sửng sốt, thất vọng, và hoàn toàn có thể tránh được như thế này.
Nước mắt anh lã chã rơi trên cái má rộng của con ngựa. Bất Bại run len, đôi mắt nâu của nó nở lớn với cơn đau giờ đã dịu xuống. Arthas tháo găng tay ra và vuốt ve dọc cái mõm màu xám hồng, cảm thấy hơi thở nóng hổi của Bất Bại trên tay mình. Rồi từ từ, anh đặt đầu con ngựa ra khỏi đùi mình rồi đứng dậy, và đưa bàn tay lúc này đã được làm ấm thêm đôi chút với lấy thanh kiếm. Chân anh ngập trong vũng nước đỏ khi anh đứng ngay phía trên con thú bị thương.
“Ta xin lỗi,” anh nói. “Ta rất xin lỗi.”
Bất Bại nhìn anh đầy bình tĩnh và tin tưởng, như thể bằng cách nào đó nó hiểu được chuyện sắp xảy ra, và sự cần thiết của việc đó. Arthas không thể chịu đựng nổi, và trong khoảng khắc những giọt nước mắt lại làm nhòe mắt anh. Anh chớp mắt lia lịa cố gạt chúng đi.
Arthas nhấc kiếm lên và đâm thẳng xuống.
Ít nhất thì anh đã làm đúng việc này; đâm thẳng vào trái tim vĩ đại của Bất Bại bằng một đòn mạnh mẽ duy nhất với đôi tay đáng ra phải quá tê cóng để làm nổi. Anh cảm thấy thanh kiếm đâm xuyên qua lớp da thịt, cọ vào xương, và đâm thẳng vào nền đất bên dưới. Bất Bại uốn cong người một lần cuối, rồi rùng mình và nằm im.
Sau đó một khoảng thời gian Jorum và Jarim tìm thấy anh tại nơi đó, sau khi tuyết đã ngừng rơi và chất thành đống trên cái xác lạnh cóng của con vật từng một thời rất lộng lẫy với đầy sinh lực. Khi người đàn ông già cúi xuống đỡ anh dậy, Arthas hét lên trong đau đớn.
“Xin lỗi, chàng trai,” Jorum nói, giọng ông tử tế một cách không thể chịu đựng nổi. “Vì đã làm anh bị đau, và vì tai nạn này.”
“Ừ,” Arthas nói một cách yếu đuối, “là tai nạn. Nó bị trượt chân…”
“Không lạ gì trong thời tiết như thế này. Cơn bão đó đến nhanh quá. Người thật may mắn vì vẫn còn sống. Đi nào – chúng tôi sẽ đưa người vào trong và cử ai đó đến cung điện.”
Và rồi anh nắm chặt bàn tay cứng cáp của người nông dân, Arthas nói, “Chôn nó… ở đây nhé? Để ta có thể tới thăm được không?”
Balnir và con trai nhìn nhau, rồi gật đầu. “Vâng, dĩ nhiên rồi. Nó đã là một con chiến mã đầy quý phái.”
Arthas ngước đầu lên nhìn xác con ngựa mà anh đã đặt tên là Bất Bại. Anh sẽ để tất cả bọn họ nghĩ rằng đó là một tai nạn, bởi vì anh không thể chịu đựng nổi việc bảo cho ai đó biết những gì anh đã làm.
Và rồi anh thề rằng nếu có ai đó cần đến sự bảo vệ – rằng nếu sự hi sinh là điều cần thiết để mang lại hạnh phúc cho người khác – anh sẽ làm thế.
Bất kể mọi giá, anh nghĩ.