“Ta rất tự hào về con, Arthas à,” cha cậu nói. “Đứng lên nhận lấy trách nhiệm như thế này.”
Vào tuần lễ Jaina Proudmoore trở thành vị khách danh dự của gia đình Menethil, từ “trách nhiệm” đã trở thành khẩu lệnh quen thuộc. Không chỉ là việc huấn luyện với Muradin bắt đầu – và đúng là nghiêm ngặt khắt khe đúng như ông lùn đã cảnh báo trước, cơn đau cơ và do mấy vết bầm tím cứ tăng lên sau mỗi cú bạt tai khi Arthas không thực sự tập trung như ý Muradin muốn – mà đúng như Arthas lo sợ, Uther và Terenas cũng đã quyết định rằng đã đến lúc việc tập luyện của hoàng tử đã sang một trang mới. Arthas sẽ phải dậy trước bình minh, ăn sáng thật nhanh bằng bánh mì và bơ, rồi đi cùng Muradin. Chuyến đi kết thúc bằng một cuốc leo núi, và chàng trai mới mười hai tuổi luôn thở dốc và run lên. Arthas cứ thắc mắc có phải người lùn có ái lực đặc biệt gì với đất đá không mà mặt đất dường như tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ leo. Sau đó cậu về nhà, tắm rửa, học lịch sử, toán, và học viết chữ. Ăn trưa, và rồi dành cả buổi chiều trong nhà thờ với Uther để cầu nguyện, ngồi thiền, và thảo luận về bản chất của hiệp sĩ và kỷ luật hà khắc mà họ phải tuân theo. Đến bữa tối, rồi Arthas lăn ra giường ngủ ngon lành sau một ngày kiệt sức.
Cậu có thấy Jaina vài lần vào bữa tối, cô ấy và Calia có vẻ rất thân thiết với nhau. Cuối cùng Arthas quyết định như vậy là quá đủ rồi, nắm vững bài học lịch sử và chính trị đã in sâu vào đầu óc, cậu tiến về phía cha cậu và Uther để đề nghị được hộ tống vị khách của họ là Công Nương Jaina Proudmoore tới Dalaran.
Cậu không cần phải bảo cho họ biết rằng điều đó là bởi vì cậu muốn thoát khỏi bổn phận của mình. Terenas rất vui khi nghĩ rằng con trai mình có trách nhiệm như vậy, Jaina khẽ mỉm cười vì điều đó, và đó chính là thứ Arthas muốn. Tất cả mọi người đều vui vẻ.
Và rồi vào đầu mùa hạ, khi trăm hoa đua nở, rừng cây toàn thú rừng, mặt trời nhảy múa trên bầu trời màu xanh sáng sủa, Hoàng Tử Arthas Menethil hộ tống một cô gái trẻ với mái tóc vàng và nụ cười rạng rỡ tới thành phố kỳ khôi của các pháp sư.
Họ đã bắt đầu chuyến đi hơi muộn một chút – một điều mà Arthas bắt đầu biết về Jaina Proudmoore đó là cô không được đúng giờ cho lắm – nhưng Arthas cũng không lấy làm để tâm. Cậu không cần phải vội làm gì cả. Dĩ nhiên là họ cũng không phải đi một mình. Theo lễ nghi thì có thêm thị nữ của Jaina và một hai vệ binh sẽ hộ tống họ. Nhưng những người đầy tớ vẫn lùi lại phía sau và để hai quý tộc trẻ làm quen với nhau. Họ cưỡi nhựa cùng nhau một hồi, rồi dừng lại nghỉ chân ăn trưa. Khi họ đang ăn bánh mì cùng bơ và rượu vang loãng, một vệ binh của Arthas bước đến.
“Thưa ngài, nếu người cho phép, chúng tôi sẽ chuẩn bị nghỉ qua đêm ở Cối Hổ Phách. Ngày mai, chúng ta sẽ đi hết chặng còn lại tới Dalaran. Chúng ta sẽ tới đó khi đêm xuống.”
Arthas lắc đầu. “Không, cứ tiếp tục đi đi. Chúng ta sẽ hạ trại qua đêm ở khu Đồi Đinh. Điều đó sẽ giúp Công Nương Jaina tới được Dalaran vào giữa buổi sáng hôm sau.” Cậu quay sang cười với cô.
Cô cười lại với cậu, dù vậy cậu vẫn cảm thấy chút thất vọng trong mắt cô.
“Ngài có chắc không ạ? Chúng tôi đang dự định sẽ nhận lòng hiếu khách của dân địa phương, và không để công nương phải ngủ ngoài trời.”
“Ổn mà Kayvan,” Jaina nói. “Ta đâu phải là một cô nương yếu đuối đâu.”
Nụ cười của Arthas nở lớn thành một điệu cười toe toét.
Cậu mong rằng cô sẽ vẫn cảm thấy như thế trong mấy tiếng nữa.
Khi những người hầu đang hạ trại, Arthas và Jaina đi khám phá. Họ leo lên một ngọn đồi có khung cảnh đẹp vô song. Hướng tây, họ có thể thấy khu trang trại Cối Hổ Phách nhỏ bé và kể cả những ngọn tháp xa xa của pháo đài của Nam Tước Silverlaine. Hướng đông, họ có thể thấy gần như toàn bộ Dalaran, và gần đó là khu trại giam ở phía nam thành. Từ cuối Đệ Nhị Chiến Tranh, lũ orc đã bị bắt giam trong những khu trại đó. Terenas đã giải thích với Arthas rằng điều đó khoan dung hơn nhiều so với việc giết chúng bất cứ khi nào nhìn thấy. Và bên cạnh đó, lũ orc dường như đang phải chịu một nỗi phiền muộn kỳ lạ. Hầu hết mọi lúc khi con người tình cờ gặp chúng, hoặc săn đuổi chúng, chúng đều chỉ chống trả rất hời hợt và dễ dàng bị tống vào trại giam. Cũng có nhiều trại giam khác giống như thế này.
Họ ăn một bữa dân dã với thỏ xiên nướng và nghỉ ngơi đôi chút khi trời tối. Khi cậu cho rằng mọi người đã say ngủ, Arthas ném một cái áo chẽn lên quần mình và nhanh chóng giật đôi ủng. Sau khi nghĩ một chút, cậu lấy một con dao găm ra và giắt vào thắt lưng, rồi bò tới bên Jaina.
“Jaina,” cậu thì thầm, “dậy đi.”
Cô tỉnh dậy trong im lặng mà không sợ hãi gì cả, ánh trăng phản chiếu trong ánh mắt cô. Cậu ngồi xổm ra sau khi cô ngồi dây và đặt một ngón tay lên môi. Cô thì thầm. “Arthas à? Có chuyện gì không ổn sao?”
Cậu cười toe toét. “Cậu sẵn sàng đi phiêu lưu chưa?”
Cô nghiêng đầu. “Phiêu lưu kiểu gì?”
“Hãy tin tớ.”
Jaina nhìn cậu một chốc, rồi gật đầu. “Được thôi.”
Giống như tất cả bọn họ, cô ấy đi ngủ mà vẫn mặc nguyên quần áo, chỉ cởi bỏ ủng và áo choàng. Cô đứng dậy, dùng tay chải sơ qua mái tóc vàng, rồi gật đầu.
Jaina đi theo cậu tiến vào đỉnh đồi mà họ mới khám phá ngày hôm đó. Việc leo trèo trở nên khó khăn hơn vào buổi tối, nhưng ánh trăng khá là sáng và giúp chân họ không bị vấp ngã.
“Đó là đích đến của chúng ta,” cậu chỉ tay và nói.
Jaina nuốt ực một cái. “Khu trại giam ư?”
“Cậu đã bao giờ tới gần một cái như thế chưa?”
“Không, và tớ không muốn.”
Cậu cau mày vẻ thất vọng. “Thôi nào Jaina. Đó là cơ hội duy nhất cho chúng ta nhìn rõ lũ orc đấy. Cậu không tò mò sao?”
Nét mặt cô thật khó đoán dưới ánh trăng, hai con mắt tối sầm. “Tớ – chúng đã giết Derek. Anh trai tớ.”
“Một trong số chúng cũng đã giết cha của Varian. Chúng đã giết rất nhiều người, đó là lý do tại sao chúng ở trong những khu trại đó. Đó là nơi phù hợp nhất cho chúng. Rất nhiều người không thích chuyện cha tớ tăng thuế để chi trả cho các khu trại, nhưng – hãy tới và tự suy xét đi. Tớ đã mất cơ hội được nhìn rõ Doomhammer khi hắn ở Hạ Thành. Giờ tớ không muốn bỏ lỡ một cơ hội khác nữa.”
Cô chỉ im lặng, cuối cùng cậu đành thở dài. “Thôi được rồi, tớ sẽ đem cậu về.”
“Không,” cô nói và khiến cậu ngạc nhiên. “Đi thôi.”
Họ tiến bước trong im lặng. “Được rồi,” Arthas thì thầm. “Khi chúng ta tới gần đây lúc sáng, tớ đã chú ý đến mấy lính tuần tra. Có vẻ như họ không khác nhiều lắm vào ban đêm, ngoại trừ việc họ ít đi tuần hơn. Với việc lũ orc không còn chút tinh thần nào nữa, tớ đoán lính canh nghĩ rằng chúng sẽ không thèm chạy trốn.” Cậu mỉm cười giúp cô an tâm hơn. “Điều đó thật tốt cho chúng ta. Ngoài các lính canh, luôn có người gác trên hai tháp canh. Chúng ta phải cẩn thận với họ nhất, nhưng chắc là họ sẽ chú ý nhiều hơn tới những thứ bên trong hơn là ở ngoài, bốn bức tường đều dốc đứng hoàn toàn. Giờ chờ cho anh bạn kia đi tuần xong và rồi chúng ta sẽ dư thời gian tới bức tường ngay đầu kia và nhìn cho kỹ.”
Họ chờ đợi người lính canh buồn chán kia đi qua, rồi sau đó nói thì thào gì đó với người khác. “Trùm mũ lên,” Arthas nói. Cả hai đều có mái tóc vàng, quá dễ dàng để các lính canh nhận ra. Jaina trông có vẻ lo lắng hơn là thích thú, cô nghe theo lời cậu. May thay cả cô và Arthas đều mặc áo choàng tối màu. “Sẵn sàng chưa?” Cô gật đầu. “Tốt. Đi thôi!”
Họ nhanh chóng trượt xuống đoạn còn lại trong im lặng. Arthas giữ cô lại một chút tới khi người lính trên tháp canh nhìn về hướng khác, rồi cậu ra hiệu cho cô. Họ chạy tới trước, cố giữ cho mũ trùm đầu vẫn ở đúng vị trí, và sau vài bước họ đã tới được bức tường trại giam.
Bức tường khu trại thật xù xì nhưng rất có tác dụng. Chúng được làm từ gỗ, bền hơn nhiều so với gỗ được cột với nhau, chúng được đẽo nhọn ở đầu và chôn sâu xuống đất. Có nhiều kẽ hở trên “bức tường” mà một cô hay cậu bé hiếu kỳ có thể nhìn qua được.
Ban đầu có vẻ rất khó để nhìn, nhưng có vài hình thù to lớn ở bên trong. Arthas lúc lắc đầu cố nhìn cho rõ hơn. Chúng đều là orc. Một số ở trên nền đất, co tròn trong lớp mền. Một số đi đi lại lại gần như vô định, giống như thú vật bị nhốt trong chuồng, nhưng lại thiếu đi khao khát được tự do của những con thú đó. Đầu kia trông có vẻ là một gia đình – một nam, một nữ, và một đứa trẻ. Ả orc nữ trông gầy và thấp hơn tên orc nam, và đang giữ thứ gì đó trước ngực, và Arthas nhận ra đó là một đứa bé sơ sinh.
“Ồ,” Jaina thì thầm bên cạnh cậu. “Họ trông… buồn quá.”
Arthas khịt mũi, rồi bỗng nhớ lại là cần phải giữ im lặng. Cậu nhanh chóng nhìn lên tháp canh, nhưng người lính gác không nghe thấy gì cả. “Buồn ư? Jaina à, lũ súc vật đó đã phá hủy Bạo Phong đấy. Chúng chỉ muốn khiến con người diệt chủng thôi. Ôi hỡi Ánh Sáng, chúng đã giết anh cậu đấy. Đừng thương hại bọn chúng.”
“Dù vậy – tớ chưa từng nghĩ họ lại có con cái,” Jaina nói tiếp. “Cậu có thấy kẻ ôm đứa con không?”
“Dĩ nhiên là chúng phải có con cái rồi, kể cả lũ chuột hôi hám còn có con cái nữa là,” Arthas nói. Cậu tức tối, nhưng rồi nhận ra cậu nên biết một cô gái mười một tuổi hoàn toàn có thể có phản ứng như thế chứ.
“Trông họ chẳng nguy hiểm gì cả. Cậu có chắc là họ nên ở đây không?” Cô quay sang nhìn cậu, một khuôn mặt trái xoan màu trắng dưới ánh trăng đang cố hỏi quan điểm của cậu. “Giữ họ ở đây rất tốn tiền bạc. Có lẽ họ nên được thả ra.”
“Jaina à,” cậu nói, cố giữ cho giọng mềm mỏng, “chúng là lũ giết người. Kể cả giờ đây chúng có tỏ ra thẫn thờ như vậy, ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng được thả chứ?”
Cô khẽ thở dài trong bóng tối và không trả lời gì cả. Arthas lắc đầu. Cậu đã thấy quá đủ rồi – lính canh sẽ sớm trở lại đây thôi. “Quay về nhé?”
Cô gật đầu và cùng cậu quay đầu chạy nhanh về phía quả đồi cùng. Arthas liếc qua vai thấy người lính canh bắt đầu quay lại. Cậu lao về phía Jaina, nắm lấy eo cô, và ấn cô ngã xuống đất. “Đừng di chuyển,” cậu nói, “lính canh đang nhìn về phía chúng ta đấy!”
Mặc dù với cú ngã khá mạnh Jaina cũng đủ thông minh để nằm im. Cẩn thận giữ cho mặt mình ẩn trong bóng tối, Arthas quay đầu lại nhìn người lính gác. Cậu không thể thấy được mặt người ở khoảng cách xa thế này, nhưng điệu bộ của anh ta rõ ràng đang tỏ ra mệt mỏi và buồn chán. Sau một hồi lâu, khoảng thời gian Arthas nghe thấy được cả tiếng tim mình đập rõ mồn một, người lính bắt đầu nhìn về hướng khác.
“Xin lỗi vì điều này,” Arthas xin lỗi và giúp Jaina đứng dậy. “Cậu ổn chứ?”
“Ừ,” Jaina nói. Cô cười toe toét với cậu.
Một lát sau họ đã trở về chỗ ngủ của riêng họ. Arthas nhìn lên bầu trời đầy sao, hoàn toàn thỏa mãn.
Thật là một ngày tốt lành.
Cuối buổi sáng hôm sau, họ đã tới Dalaran. Arthas chưa từng đến đây bao giờ, dù vậy dĩ nhiên cậu đã từng nghe rất nhiều về nó. Các pháp sư là những người rất bí ẩn và khó hiểu – dù rất mạnh mẽ, nhưng họ vẫn thường hay ít liên hệ với người ngoài trừ những lúc cần thiết. Arthas nhớ lại khi Khadgar cùng với Anduin Lothar và Hoàng Tử – giờ đã là Vua Varian Wrynn đến nói chuyện với Terenas, để cảnh báo họ về mối nguy của loài orc. Sự có mặt của ông ta đã khiến lời phát biểu của Anduin trở nên đáng tin hơn, thật may là như thế. Các pháp sư Kirin Tor thường không dính líu gì đến chuyện chính trị thông thường.
Và họ cũng không có những hành động kiểm soát tình hình chính trị thông thường như việc mời các hoàng tộc tới thăm họ. Chỉ nhờ việc Jaina tới đây học tập nên Arthas và tùy tùng mới được vào đấy. Dalaran thật là tuyệt đẹp, thậm chí còn lộng lẫy hơn cả Thành Đô. Trông nó sạch sẽ sáng sủa không thể tin nổi với một thành phố dựa quá nhiều vào ma thuật như vậy. Có vài tòa tháp thanh nhã chĩa thẳng lên trời, chân tháp là đá trắng và phần đỉnh màu tím được bọc vàng. Nhiều tháp có những viên đá sáng rực bay lơ lửng xung quanh chúng. Số khác lại có những khung cửa sổ làm bằng kính sẫm màu loang loáng ánh sáng mặt trời. Những khu vườn nở đầy những loài hoa dại kỳ lạ tỏa mùi thơm nồng nặc khiến Arthas hoa cả mắt. Hoặc có thể là do tác động của ma thuật trong không khí đã gây ra cảm giác đó.
Cậu cảm thấy mình thật bẩn thỉu và tầm thường khi họ bước vào thành phố, và còn ước gì họ đã không ngủ ngoài trời tối hôm qua. Nếu họ ở lại Cối Hổ Phách, ít nhất họ cũng đã có thể được tắm. Nhưng nếu vậy thì cậu và Jaina đã không có cơ hội được theo dõi khu trại giam.
Cậu nhìn bạn mình. Đôi mắt xanh biếc của cô nở lớn đầy kinh sợ xen lẫn kích động, đôi môi cô mở he hé. Cô quay sang Arthas, đôi môi ấy nhoẻn cười.
“Tớ có may mắn khi được học tập tại đây không nhỉ?”
“Chắc rồi,” cậu nói và cười lại với cô. Cô trầm trồ thích thú như thể một người được cho nước uống sau cả tuần lang thang trên sa mạc, nhưng cậu lại cảm thấy… không muốn. Rõ ràng cậu không thích thú gì chuyện kiểm soát ma thuật như cô.
“Tớ được bảo là những người ngoại lai thường không được chào đón,” cô nói. “Tớ nghĩ điều đó thật đáng tiếc. Sẽ thật tốt nếu được gặp lại cậu.”
Cô đỏ ửng mặt, và trong khoảnh khắc, Arthas quên hết tất cả mọi sự đe dọa gây ra bởi thành phố, và vui vẻ đồng ý rằng cậu cũng sẽ rất vui nếu được gặp lại Công Nương Jaina Proudmoore.
Cực kỳ vui là đằng khác.
“Lại một lần nữa, đồ ẽo lã lùn tịt còi cọc nầy! Đừng đễ ta giật tóc cậu, đồ – Ốiii!”
Ông lùn đang nói dở lời chế nhạo thì nguyên quả đầu đang đội mũ trụ bị ăn ngay một cái khiên, và ông vấp chân lùi lại một hai bước. Arthas vung qua vung lại thanh kiếm, cậu cười toe toét bên dưới lớp mũ giáp cứng cáp. Rồi đột nhiên cậu bị hất tung lên không trung và ngã ngửa ra nền đất. Trước mắt chỉ thấy hình ảnh một khuôn mặt to lù lù với bộ râu dài, và cậu chỉ kịp thời nhấc kiếm lên đỡ đòn. Cậu gầm gừ gập chân lên trước ngực và đạp mạnh vào bụng Muradin. Lần này chính ông lùn bị đá ngã ngửa ra. Arthas bật người đứng dậy một cách uyển chuyển, rồi cậu lao về phía ông thầy giáo lúc này vẫn còn đang nằm trên mặt đất và đập túi bụi vào người ông tới khi Muradin phải thốt lên những lời thành thực mà nói thì Arthas chưa từng nghĩ mình sẽ được nghe:
“Ta chịu thua!”
Phải khó khăn lắm Arthas mới dừng đón tấn công lại được, và cậu gượng dậy đột ngột tới nỗi cậu mất thăng bằng và ngã lăn ra. Muradin vẫn nằm yên tại chỗ, ngực ông phập phồng.
Nỗi sợ hãi bóp nghẹt trái tim Arthas. “Muradin à? Muradin!”
Một tiếng cười khùng khục khoái trá thốt lên từ sau bộ râu rậm màu vàng. “Làm tốt lắm chèng trai, thực xự là góa tốt!” Ông gượng ngồi dậy và Arthas đi lại đưa tay ra kéo ông lùn đứng lên. Muradin vẩy vẩy tay vẻ rất vui. “Zậy là cậu cóa đễ ý khi ta dạy cậu tiệt chiêu của ta nhĩ.”
Yên tâm và vui vẻ trước lời khen đó, Arthas toe toét cười. Những thứ Muradin dạy cậu sẽ được tập đi tập lại, được rèn dũa, và tăng cường bởi những bài huấn luyện làm hiệp sĩ của cậu. Nhưng còn những thứ khác – chà, cậu không nghĩ Uther Người Mang Ánh Sáng sẽ biết tới trò đạp chân vào bụng, hay những trò kiểu như việc sử dụng chai rượu vỡ chẳng hạn. Đây là chiến đấu và kia cũng là chiến đấu, và Muradin Bronzebeard có vẻ nhất quyết rằng Arthas Menethil sẽ hiểu tất cả mọi khía cạnh của nó.
Giờ Arthas đã mười bốn tuổi, và tập luyện cùng Muradin mỗi tuần vài lần, trừ những lúc ông lùn bận đi làm việc ngoại giao. Ban đầu mọi chuyện đã diễn ra như cả hai dự tính – khá là tệ hại. Arthas có cả tá vết bầm tím, chảy máu, và bước đi thì tập tễnh. Cậu cứng đầu từ chối mọi yêu cầu chữa bệnh, cứ khăng khăng rằng cơn đau đó là một phần của tiến trình. Muradin chấp thuận, và ông ta thể hiện điều đó bằng cách càng trở nên nghiêm khắc hơn. Arthas chưa bao giờ than phiền, kể cả khi cậu muốn, kể cả khi Muradin la rầy cậu hay vẫn còn liên tiếp tấn công sau khi Arthas đã quá kiệt sức đến độ còn không nhấc nổi khiên lên nữa.
Và với việc khăng khăng từ chối chuyện than vãn hay bỏ cuộc, cậu đã đạt được thành quả gấp đôi: cậu học hành rất giỏi giang, và cậu có được sự tôn trọng của Muradin Bronzebeard.
“À vâng thưa ngài, ta đã có chú ý.” Arthas cười khúc khích.
“Giõi lắm, giõi lắm.” Muradin giơ tay lên vỗ vào vai cậu. “Giờ ngừng đã. Bữa ni cậu đã đánh đấm đũ zồi; cậu xứng đáng được nghĩ đôi chút.”
Mắt cậu sáng rực khi ông nói như vậy và Arthas gật đầu đồng ý ngay tắp tự. Ngày hôm nay Muradin mới là người ăn đòn. Và ông ấy trông vui vẻ không kém gì Arthas với chuyện đó. Trái tim vị hoàng tử đột nhiên chan chứa đầy cảm xúc dành cho ông lùn. Dù là một người huấn luyện nghiêm khắc, Muradin lại là người khiến cho Arthas yêu mến quá đỗi.
Cậu khẽ huýt sáo khi rải bước về phía phòng mình, nhưng rồi đột nhiên có tiếng kêu lớn khiến cậu đứng sững lại.
“Không, Phụ Vương ơi! Con không chấp nhận!”
“Calia, ta thấy mệt mỏi với cuộc nói chuyện này rồi đấy. Con không được quyền nói về chuyện này.”
“Papa à, làm ơn đi mà, không được!”
Arthas tiến lại gần phòng Calia. Cánh cửa để hé mở và cậu chú ý lắng nghe, có phần hơi lo lắng. Terenas đang nói chuyện với Calia. Có việc gì trên đời này ông đang yêu cầu cô mà khiến cô phải cầu xin ông và dùng cả từ ngữ âu yếm mà cô và Arthas từ lâu đã không còn dùng nữa khi cả hai lớn lên chứ?
Calia khóc thổn thức. Arthas không thể chịu được hơn nữa. Cậu mở cửa ra. “Con xin lỗi, con vừa mới nghe lén, nhưng mà – có chuyện gì vậy?”
Gần đây Terenas cư xử có vẻ lạ lùng, và giờ ông đang điên tiết với người chị gái mười sáu tuổi của cậu. “Con không liên quan gì tới chuyện này đâu Arthas,” Terenas quát lớn. “Ta vừa bảo Calia làm một việc ta muốn nó làm. Nó sẽ nghe lời ta.”
Calia nằm lăn ra giường khóc thổn thức. Arthas hết nhìn cha mình tới chị mình một cách hoàn toàn ngạc nhiên. Terenas lẩm bẩm nói gì đó rồi lao ra ngoài. Arthas nhìn Calia rồi đi theo cha mình.
“Phụ Vương à, làm ơn nói cho con biết có chuyện gì vậy ạ?”
“Đừng có chất vấn ta. Bổn phận của Calia là nghe theo lời cha nó.” Terenas bước qua một cánh cửa tới phòng tiếp đón. Arthas nhận ra sự có mặt của Lãnh Chúa Daval Prestor, một quý tộc trẻ mà Terenas đánh giá rất cao, và hai phù thủy Dalaran mà cậu không biết đang tới thăm.
“Chạy về với chị con đi Arthas, và cố làm nó bình tĩnh lại. Ta sẽ tới chỗ hai con ngay khi có thể, ta hứa.”
Arthas nhìn ba vị khách rồi gật đầu và quay về phòng Calia. Chị gái cậu vẫn chưa hề thay đổi tư thế, mặc dù bằng cách nào đó cô đã thôi thổn thức. Hoàn toàn thất bại, Arthas chỉ ngồi trên giường bên cạnh cô, cảm thấy rất lúng túng.
Calia ngồi dậy trên giường, mặt cô ướt đẫm. “Chị xin lỗi khi để em p-phải thấy điều này, Arthas à, nhưng c-có lẽ đó là điều cần làm.”
“Phụ Vương muốn chị làm gì vậy?”
“Ông ấy muốn chị cưới một người mà chị không muốn.”
Arthas chớp mắt. “Calie à, chị chỉ mới mười sáu tuổi thôi mà, chị còn chưa đủ tuổi để cưới xin.”
Cô với tay lấy cái khăn mùi xoa và chấm nhẹ đôi mắt đang sưng lên. “Chị cũng nói thế. Nhưng Phụ Vương bảo không thành vấn đề; họ sẽ chính thức hóa việc hứa hôn và vào sinh nhật chị sẽ phải cưới Lãnh Chúa Prestor.”
Đôi mắt màu xanh lục nước biển của Arthas nở lớn khi đã hiểu mọi chuyện. Vậy đó là lý do tại sao Prestor ở đấy…
“Chà,” cậu nói một cách lúng túng, “ông ta có quan hệ với mọi người rất tốt, và – em cho rằng ông ấy cũng rất điển trai. Ai cũng nói thế. Ít nhất ông ta cũng không phải ông già nào đó.”
“Em không hiểu đâu, Arthas à. Chị không quan tâm ông ta quan hệ tốt hay đẹp trai hay tử tế đến thế nào. Chỉ là chị không hề được quyền quyết định. Chị – chị giống như con ngựa của em vậy. Chị là một thứ đồ vật, không phải người nữa. Để rồi chị sẽ bị đem cho đi khi Phụ Vương thấy cần – để đánh dấu cho một thỏa thuận chính trị.”
“Chị – chị không yêu Prestor ư?”
“Yêu ông ta ư?” Đôi mắt xanh lam đỏ ngầu của cô nheo lại tức giận. “Chị chỉ mới biết ông ta! Ông ta chưa từng giành được chút… ôi, để làm gì nhỉ? Chị biết chuyện này rất thường gặp trong các gia đình hoàng gia và quý tộc. Rằng chúng ta chỉ là những con cờ. Nhưng chị không bao giờ ngờ nổi Phụ Vương-”
Cả Arthas cũng vậy. Thành thực mà nói cậu chưa từng nghĩ nhiều đến chuyện cưới xin của cậu hay chị cậu. Cậu thấy thích việc tập luyện với Muradin và cưỡi Bất Bại hơn. Nhưng Calia nói đúng. Chuyện môn đăng hộ đối hết sức thường gặp trong các gia đình quý tộc nhằm giữ vị thế chính trị của họ.
Cậu chỉ chưa từng nghĩ rằng cha mình sẽ bán con gái mình đi như – như một con ngựa giống.
“Calie, em thật sự rất tiếc,” cậu nói, và thực sự có ý đó. “Còn ai nữa không nhỉ? Có lẽ chị vẫn có thể thuyết phục Phụ Vương rằng có một đám nào khác chứ – một đám mà chị cũng thấy vui vẻ.”
Calia lắc đầu cay đắng. “Không có tác dụng đâu. Em cũng nghe thấy ông ấy nói rồi đấy. Ông ấy còn chẳng thèm hỏi chị, không hề đề nghị về Lãnh Chúa Prestor – ông ấy đã ra lệnh cho chị.” Cô nhìn cậu vẻ cầu xin. “Arthas à, khi em lên làm vua, hứa với chị – hứa với chị đừng làm thế với con cái của em nhé.”
Con cái ư? Arthas chưa từng nghĩ tới chuyện đó. Cậu thậm chí còn chưa có – à thực ra thì cũng có rồi, nhưng cậu chưa từng nghĩ cậu và cô ấy sẽ-
“Và khi em cưới – Papa không thể ra lệnh cho em như lúc ông ấy làm với chị được. Em hãy quan tâm tới cô gái đó và – và rằng cô ấy quan tâm tới em. Hoặc ít nhất là hỏi về chuyện cô ấy có muốn chia vai sẻ gánh, g-góp gạo thổi cơm chung cùng em hay không.”
Cô lại tiếp tục khóc, nhưng Arthas vẫn còn quá sửng sốt về chuyện mà cậu vừa mới nghĩ đến. Hiện giờ cậu mới chỉ có mười bốn tuổi, nhưng chỉ trong bốn năm nữa, cậu sẽ đến tuổi cưới xin. Cậu đột nhiên nhớ lại những mẩu chuyện cậu từng nghe đây đó về tương lai của dòng dõi Menethil. Vợ của cậu sẽ trở thành mẹ của vị vua mới. Cậu phải chọn lựa rất cẩn thận, nhưng cũng như Calia đã yêu cầu là phải thật tử tế. Cha mẹ cậu rõ ràng là rất quan tâm đến nhau. Điều đó được thể hiện bằng nụ cười và cử chỉ của họ, mặc dù họ đã cưới nhau từ rất lâu rồi. Arthas cũng muốn như thế. Cậu cũng muốn một người đồng hành, một người bạn, một-
Cậu cau mày. Nhưng nếu cậu không lựa chọn được thì sao? “Em xin lỗi, Calie à, nhưng có khi chị là người may mắn đấy. Chuyện được tự do lựa chọn có khi lại rất tệ, và có thể người ta sẽ không nhận được thứ mà mình muốn.”
“Chị thà đổi nó để được có được một – một nhịp đập đồng cảm của trái tim.”
“Em cho rằng chúng ta đều có bổn phận riêng của mình,” Arthas khẽ nói, vẻ ủ rũ. “Chị cưới người mà Phụ Vương muốn, và em thì phải cưới vì cả vương quốc này.” Cậu bỗng đứng dậy. “Em xin lỗi, Calie à.”
“Arthas à – em đi đâu đấy?”
Cậu không trả lời, và thật sự đang chạy băng qua cung điện để tới chuồng ngựa và, không hề chờ đợi người giữ ngựa, cậu nhanh chóng đóng yên cho Bất Bại. Arthas biết rằng đó chỉ là một giải pháp tạm thời, nhưng cậu mới chỉ mười bốn tuổi, và giải pháp tạm thời cũng chỉ là một giải pháp mà thôi.
Cậu cúi người trên lưng Bất Bại, bộ bờm trắng của nó quét lên mặt cậu khi con ngựa phi nước đại bằng tất cả cơ bắp và sự duyên dáng của mình. Arthas cười toe toét. Chưa bao giờ cậu thấy cưỡi ngựa lại vui vẻ đến như thế này, hai bọn họ như nhập làm một thể đầy lộng lẫy. Cậu đã chờ đợi, sự kiên nhẫn của cậu đã bị thử thách dữ dội, phải chờ đợi rất lâu để có thể cưỡi lên lưng con vật mà cậu đã hằng mong ngóng để đến với thế giới này, nhưng thật sự rất xứng đáng. Họ là một đội hoàn hảo. Bất Bại chẳng muốn gì từ cậu, chẳng đòi hỏi gì từ cầu, có vẻ nó chỉ muốn được cho phép thoát khỏi ranh giới chuồng ngựa như Arthas muốn thoát khỏi ranh giới hoàng gia của mình. Họ làm cùng với nhau.
Họ đã chuẩn bị nhảy cú nhảy mà Arthas rất yêu thích. Phía đông Thành Đô và gần với trang trại nhà Balnir là một cụm đồi nhỏ. Bất Bại leo lên đó, mặt đất bị dẫm nát dưới vó của nó, kéo cậu lên phía trên tới phía vách núi nhanh gần như lúc họ đang chạy trên đường bằng. Cậu bẻ hướng và chạy theo con đường mòn chật hẹp, khiến đá bay tung tóe dưới vó ngựa, trái tim con ngựa và Arthas đập dồn dập đầy kích động. Rồi Arthas dẫn con ngựa giống đi về hướng trái dọc theo một bờ đê – lối tắt tới đất nhà Balnir. Bất Bại không hề ngập ngừng, chưa hề ngập ngừng cho dù đó là lần đầu tiên Arthas muốn nó nhảy. Nó lao về phía trước lấy đà, rồi trong một khoảng khắc huy hoàng, tim dường như ngừng đập, người và ngựa bay lên không trung. Rồi họ đáp an toàn xuống lớp cỏ mềm mại và chạy tiếp.
Bất Bại.