Arthas đang nản chí.
Cậu cứ nghĩ khi tin tức về lũ orc kia tới thì rồi cậu sẽ bắt đầu một khóa huấn luyện thật nghiêm túc, có thể là cùng với cả người bạn thân nhất của cậu là Varian. Thực tế chuyện ngược lại đã xảy ra. Cuộc chiến với Đại Tộc dẫn đến một việc là bất cứ ai có thể cầm kiếm đều đã tham gia vào đội quân vũ trang, ngay cả với thầy thợ rèn. Varian cảm thấy tiếc cho vị hoàng tử trẻ tuổi hơn mình và đã làm mọi thứ có thể, cuối cùng cậu thở dài và thông cảm với Arthas.
“Arthas à, tớ không định tỏ ra hẹp hòi đâu, nhưng…”
“Nhưng tớ thật tệ.”
Varian nhăn mặt. Hai cậu bé đang ở trong kho vũ khí chất đầy mũ trụ, áo giáp, và kiếm tập luyện bằng gỗ. Varian bước tới giá và treo thanh kiếm gỗ lên, rồi bỏ mụ trụ ra và nói. “Tớ chỉ rất ngạc nhiên, vì cậu rất khỏe mạnh và nhanh nhẹn.”
Arthas hờn dỗi; cậu hiểu Varian đủ rõ để biết rằng vị hoàng tử lớn tuổi hơn đang cố xoa dịu điều tệ hại đó. Cậu buồn bã đi theo, treo kiếm của mình lên và tháo bộ đồ bảo hộ ra.
“Ở Bạo Phong, bọn tớ bắt đầu tập luyện từ khi còn rất nhỏ. Lúc tớ bằng tuổi cậu tớ đã có một bộ áo giáp được thiết kế cho riêng tớ rồi.”
“Đừng có xát muối nữa,” Arthas càu nhàu.
“Xin lỗi.” Varian nhe răng cười với cậu, và Arthas miễn cưỡng cười đáp lại. Mặc dù cuộc gặp đầu tiên của họ chỉ toàn nỗi đau buồn và sự lúng túng, Arthas đã nhận ra trong Varian có một tâm hồn mạnh mẽ và một vẻ ngoài lạc quan. “Tớ chỉ thắc mắc tại sao cha cậu lại không làm thế với cậu.”
Arthas biết điều đó. “Ông ấy đang cố bảo vệ tớ.”
Varian trấn tĩnh lại khi cậu treo tấm giáp ngực bằng da lên. “Cha tớ cũng cố bảo vệ tớ. Không có tác dụng. Thực tế của cuộc sống luôn có cách làm hại người ta.” Cậu nhìn Arthas. “Tớ được huấn luyện để chiến đấu. Tớ không được huấn luyện để dạy người ta chiến đấu. Có thể tớ sẽ làm cậu bị thương.”
Arthas đỏ bừng mặt. Hiển nhiên là Arthas không thể làm cậu ta bị thương được rồi. Varian có vẻ đã nhận ra rằng mình chỉ đang xát thêm muối vào lòng cậu bé nhỏ hơn, cậu đặt tay lên vai Arthas. “Biết nói gì với cậu đây. Khi cuộc chiến này kết thúc, và rồi có một huấn luyện viên đúng nghĩa nào đó được ngơi tay, tớ sẽ cùng cậu tới gặp Vua Terenas. Tớ chắc rằng cậu sẽ bắt kịp tớ ngay thôi.”
Cuộc chiến cuối cùng đã kết thúc, và Liên Minh đã chiến thắng khải hoàn. Thủ lĩnh của Đại Tộc là Orgrim Doomhammer hùng mạnh đã bị áp giải về Thành Đô. Cả Arthas và Varian đã cực kỳ ấn tượng khi thấy tên orc to khỏe đó bị diễu quanh Lordaeron. Turalyon, vĩ hiệp sĩ phó tướng trẻ là người đã đánh bại Doomhammer sau khi tên orc này hạ sát Anduin Lothar cao quý, anh đã thể hiện lòng khoan dung khi tha chết cho tên thú vật này; Terenas, một người đặc biệt tử tế, đã tiếp tục đường lối đó bằng cách cấm tấn công sinh vật đó. Những lời chế nhạo, những tiếng la ó khi nhận thấy tên orc từng khủng bố họ lâu nay giờ đây đã trở nên bất lực, là mục tiêu cho người ta khinh miệt và chế nhạo, đã cổ vũ cho nhuệ khí của toàn quân. Nhưng Orgrim Doomhammer vẫn sẽ không bị làm hại chừng nào còn được ông bảo vệ.
Đó là lần duy nhất Arthas nhìn thấy khuôn mặt của Varian trở nên xấu xí bởi sự thù hận, và cậu cho rằng cậu không thể trách cậu bé kia được. Nếu lũ orc giết Terenas và Uther, cậu cho rằng cậu cũng sẽ muốn phỉ nhổ vào mặt cái thứ xanh lè xấu xa đó. “Hắn đáng bị xử tử,” Varian gầm gừ, mắt cậu giận dữ khi họ đứng nhìn từ trên tường thành khi Doomhammer bị giải về cung điện. “Và tớ ước gì tớ là người làm việc đó.”
“Hắn sẽ bị giải tới Hạ Thành,” Arthas nói. Hầm mộ, ngục tối, cống nước của hoàng gia cổ xưa, và đường hầm quanh co bên dưới cung điện bằng cách nào đó đã được gọi bằng cái tên đó, như thể nơi đó chỉ là một đích đến khác vậy. Tối tăm, ẩm ướt, bẩn thỉu, Hạ Thành chỉ được sử dụng cho những tù nhân hoặc người chết, nhưng những kẻ nghèo nhất trong những kẻ nghèo khổ tại nơi đây bằng cách nào đó vẫn tìm được lối vào. Với một người vô gia cư, ở đó vẫn tốt hơn việc bị chết cóng với cái thời tiết này, và nếu ai đó cần thứ gì… không hoàn toàn hợp pháp, kể cả Arthas cũng hiểu rằng đó là nơi người ta có thể có được nó. Và giờ đây các vệ binh sẽ xuống nơi đó để cố gắng dọn sạch nó dù là vô vọng.
“Chẳng ai có thể thoát khỏi Hạ Thành được,” Arthas cam đoan với bạn mình. “Hắn sẽ chết trong ngục tù.”
“Quá tốt cho hắn,” Varian nói. “Đáng ra Turalyon nên giết hắn ngay khi có thể.”
Những lời của Varian đã nói trước nhiều điều. Tên thủ lĩnh orc to lớn tỏ ra thấp hèn trước sự khinh bỉ và căm ghét đổ lên đầu hắn. Có vẻ như hắn đã tuyệt vọng. Chủ quan trước sự mất tinh thần của hắn, hoặc bởi nguyên nhân gì đó mà Arthas lượm lặt được bằng cách nghe trộm, vệ binh đã lơ là trong việc canh gác hắn. Không ai biết chính xác làm thế nào Orgrim Doomhammer trốn thoát được, bởi vì chẳng còn ai còn sống để báo cáo lại cả – tất cả vệ binh hắn gặp được đã bị bẻ gãy cổ. Nhưng vẫn có dấu vết được tạo ra bởi những xác chết của vệ binh, người nghèo, và tội phạm – Doomhammer không hề phân biệt họ ra – dẫn từ xà lim mở tung băng qua Hạ Thành theo con đường trốn thoát duy nhất – đường ống cống bốc mùi hôi thối. Doomhammer sau đó đã nhanh chóng bị bắt lại, và lần này hắn được giam trong một khu trại giam. Khi hắn lại trốn thoát một lần nữa, toàn bộ Liên Minh nín thở chờ đợi một cuộc tấn công mới. Nhưng không có. Hoặc Doomhammer cuối cùng cũng đã chết, hoặc là họ đã đập tan tinh thần chiến đấu của hắn rồi.
Hai năm đến và đi, giờ có vẻ như Cánh Cổng Bóng Tối mà nhờ đó lần đầu tiên Đại Tộc tới Azeroth – chính cánh cổng mà Liên Minh đã đập tan vào cuối Đệ Nhị Chiến Tranh – sắp được mở trở lại. Hoặc là thực sự đã được mở rồi, Arthas không biết chính xác lắm, bởi vì có vẻ như chẳng có ai thèm bận tậm kể cho cậu biết. Dù cho một ngày nào đó cậu sẽ trở thành vua.
Đó là một ngày đẹp đẽ, trong xanh ấm áp và đầy nắng. Một phần trong cậu muốn được ra ngoài kia cùng con ngựa mới của mình, cậu đã đặt tên nó là Bất Bại – chính là con ngựa con mà cậu đã chứng kiến lúc nó sinh ra vào mùa đông đau khổ hai năm trước. Có thể cậu sẽ làm điều ấy sau. Nhưng bây giờ, cậu đang đi tới kho vũ khí, nơi cậu và Varian đã đấu với nhau và Varian đã khiến cậu xấu hổ. Chắc hẳn sự coi thường lần đó là không có chủ đích, nhưng nó vẫn thật là nhức nhối.
Hai năm rồi.
Arthas bước tới giá để kiếm gỗ tập luyện và lấy một chiếc ra. Vào tuổi mười một, cậu đã được vú nuôi bảo là cậu đã “nhổ giò” – ít nhất bà ấy đã gọi như thế vào lần gặp cậu gần đây nhất, khi bà vừa ôm cậu vừa khóc lóc và tuyên bố cậu “giờ đã là một người đàn ông thực sự” và không còn cần vú nuôi nữa. Thanh kiếm bé xíu cậu tập luyện hồi chín tuổi chỉ là thanh kiếm của con nít. Thực sự cậu đã trở thành một anh chàng đích thực, cao năm bộ tám và hẳn sẽ còn cao hơn nữa theo như di truyền. Cậu cầm kiếm lên vung vẩy, và đột nhiên cười toe toét.
Cậu tiến tới trước một bộ giáp cũ, cầm chặt thanh kiếm. “Hây!” cậu kêu lên, ước gì đó là một con quái vật da xanh ghê tởm đã từng gây rất nhiều khó khăn cho cha cậu. Cậu ưỡn người, rồi chĩa mũi kiếm vào vị trí cổ họng của bộ giáp.
“Ngươi nghĩ sẽ qua được đây sao hả tên orc hèn hạ kia? Ngươi đang ở đất của Liên Minh! Ta sẽ khoan dung cho ngươi một lần này thôi. Cút đi và đừng bao giờ trở lại!”
À nhưng mà loài orc đâu có hiểu về việc đầu hàng hay danh dự đâu. Chúng chỉ là lũ súc vật thôi mà. Vậy nên nó sẽ không chịu quỳ gối kính trọng cậu đâu.
“Sao cơ? Ngươi không đi đi sao? Ta đã cho ngươi cơ hội, nhưng giờ thì phải chiến đâu thôi!”
Và cậu vung kiếm tới, như lúc cậu nhìn Varian làm. Nhưng không đánh trực tiếp vào bộ giáp, thứ đó đã rất cổ rồi và rất có giá trị, cậu đánh vào ngay bên cạnh. Đánh, đỡ, cúi xuống tránh đòn, dùng kiếm chém ngang người, rồi xoay người và-
Cậu há hốc miệng khi thanh kiếm bỗng bay tuốt tới cuối phòng. Với một tiếng động lớn, nó rơi xuống nền đá cẩm thạch rồi trượt một đoạn trên sàn trước khi từ từ xoay tròn và dừng lại.
Khốn thật! Cậu nhìn thẳng ra cửa – và ngay thẳng mặt Muradin Bronzebeard.
Muradin là đại sứ người lùn được cử tới Lordaeron, là em trai của Vua Magni Bronzebeard và rất được sủng ái tại cung điện vì sự vui tính của mình, thường tham dự vào mọi thứ từ ăn uống rượu chè tới chuyện chính sự. Ông cũng có tiếng là một chiến binh tài giỏi, khôn ngoan, và dữ dội trong chiến đấu.
Và ông vừa trông thấy nhà vua tương lai xứ Lordaeron giả đò chiến đấu với lũ orc và rồi lại ném thanh kiếm của mình bay khắp phòng. Arthas cảm thấy người mình đang đổ mồ hôi nhễ nhại, và cậu cũng biết má mình đang đỏ ửng. Cậu cố bình tĩnh lại.
“Ừm… Đại sứ à… Ta chỉ đang…”
Ông lùn ho và nhìn đi chỗ khác. “Ta đang tầm cha cậu, cậu nhóc à. Cậu có thễ chĩ chỗ cho ta hông? Cái chỗ gủy goái nì có nhìu ngã rẽ quớ.”
Arthas im lặng chỉ tới một cầu thang bên trái cậu. Cậu đứng nhìn ông lùn rời đi. Cả hai không nói thêm lời gì nữa.
Từ bé đến giờ Arthas chưa từng cảm thấy xấu hổ đến vậy. Trên mắt cậu ngân ngấn giọt nước mắt hổ thẹn, và cậu chớp mắt liên tục để gạt nó đi. Không thèm đặt lại thanh kiếm gỗ về lại vị trí cũ nữa, cậu rời khỏi phòng.
Mười phút sau, cậu đã được tự do phi ngựa ra khỏi chuồng và hướng về phía đông tới dãy đồi ở khu Trảng Tirisfal. Cậu đem theo hai con ngựa cùng mình: một con ngựa thiến lông lốm đốm xám đã già tên là Thực Tâm mà cậu đang cưỡi, một tay cậu nắm cương con ngựa con Bất Bại mới hai tuổi.
Cậu đã cảm thấy mối liên kết giữa hai họ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên họ nhìn nhau, khoảnh khắc ra đời của con ngựa con. Arthas đã biết ngay đó sẽ là chiến mã của mình, người bạn của mình, một con ngựa vĩ đại với một trái tim vĩ đại cũng chính là một phần của cậu cũng như bộ giáp hay vũ khí của cậu – không, thậm chí còn hơn nữa. Ngựa giống tốt như thế này có thể sống tới hai mươi năm hoặc hơn nếu được chăm sóc cẩn thận; đây chính là con ngựa sẽ chở Arthas đi trong kiêu hãnh trong những nghi thức và là người bạn trung thành trong những chuyến đi hằng ngày. Nó không phải là ngựa chiến. Đó là một giống khác, chỉ sử dụng trong những mục đích nhất định vào những lúc nhất định. Khi tham chiến cậu sẽ có một con như thế. Nhưng Bất Bại sẽ, và thực sự đã trở thành một phần trong cuộc đời cậu.
Con ngựa giống với lông, bờm, và đuôi có màu xám lúc mới sinh, giờ đã chuyển sang màu trắng tuyết trùng màu với thứ đang phủ khắp mặt đất vào ngày hôm đó. Đó là một màu lông hiếm kể cả với những con ngựa nòi của nhà Balnir, mà kể cả màu lông “trắng” của những con đó cũng chủ yếu là xám sáng mà thôi. Arthas đã từng định nghĩ về những cái tên như “Tuyết Rơi” hoặc “Ánh Sao,” nhưng cuối cùng cậu theo truyền thống của các kỵ sĩ Lordaeron và đặt cho con ngựa của mình một cái tên đầy phẩm giá. Ngựa của Uther tên là “Kiên Định,” ngựa của Terenas thì tên là “Dũng Cảm.”
Còn của cậu là “Bất Bại.”
Arthas cực kỳ muốn cưỡi Bất Bại, nhưng người huấn luyện ngựa đã cảnh báo rằng với một con ngựa hai tuổi thì cần ít nhất một năm nữa mới cưỡi được. “Hai tuổi mới chỉ là đứa bé thôi,” ông ấy nói. “Chúng vẫn sẽ lớn tiếp; xương của chúng vẫn đang thành hình. Hãy kiên nhẫn, thưa Hoàng Tử. Thêm một năm nữa không phải là dài để chờ đợi một con ngựa sẽ phụng sự người cả hai thập kỷ đâu.”
Nhưng đó là một khoảng thời gian chờ đợi dài. Quá dài. Arthas liếc qua vài nhìn con ngựa, cậu dần trở nên mất kiên nhẫn với kiểu chạy nước kiệu nặng nề có vẻ như là tất cả khả năng Thực Tâm có thể sử dụng. Đối lập với con ngựa thiến già, con ngựa hai tuổi này lại đang di chuyển nhẹ nhàng như bay không chút mệt mỏi. Đôi tai của nó chĩa về trước, mũi nó nở ra khi nó ngửi thấy mùi hương từ khu trảng. Mắt nó sáng rực và dường như nó đang muốn nói, Thôi nào, Arthas… tôi sinh ra để làm việc này mà.
Có lẽ là một lần cưỡi sẽ không ảnh hưởng gì cả. Chỉ là chạy nước kiệu đôi chút thôi mà, và rồi sẽ quay trở lại chuồng ngựa như không có chuyện gì xảy ra.
Cậu hãm Thực Tâm đi chậm lại rồi buộc dây cương vào một cành cây trễ xuống thấp. Bất Bại khịt mũi khi Arthas bước tới bên nó. Vị hoàng tử cười toe toét khi cái mõm cọ nhẹ vào tay cậu khi cậu cho con ngựa ăn một miếng táo. Bất Bại đã được đóng yên cương; đó là một quá trình từ từ chậm rãi nhằm giúp con ngựa quen với việc phải đeo cái gì đó trên lưng. Nhưng một yên ngựa trống không khác hẳn với việc có một người ngồi trên đó. Dù vậy cậu đã dành rất nhiều thời gian với con vật. Arthas thầm cầu nguyện rồi trước khi Bất Bại kịp tránh ra, cậu nhanh chóng nhảy lên lưng con ngựa.
Bất Bại chồm lên và hít điên cuồng. Arthas nắm lấy bộ bờm cứng và bám chặt thấy thân mình nó. Con ngựa nhảy chồm lên, nhưng Arthas vẫn cố bám trụ. Cậu thét lên khi Bất Bại cố kéo cậu ra bằng cách chạy ngay bên dưới một cành cây, nhưng cậu vẫn không chịu bỏ ra.
Và rồi Bất Bại phi nước đại.
Hoặc đúng hơn là nó đang bay. Hoặc ít nhất là vị hoàng tử trẻ cảm thấy vậy trong cơn chóng mặt, cậu cúi người xuống sát cổ con ngựa và cười toe toét. Cậu chưa từng cưỡi con thú nào nhanh đến thế này trước đây, và trái tim cậu đập rộn ràng đầy kích thích. Cậu thậm chí còn không thèm cố kiểm soát Bất Bại; chỉ riêng việc cố bám trụ đã là rất vất vả với cậu rồi. Thật là lộng lẫy, hoang dại, xinh đẹp, mọi thứ cậu hằng mơ ước. Tất cả sẽ-
Trước khi cậu kịp nhận ra chuyện gì vừa xảy ra, Arthas đã bay lên cao và rơi xuống mặt đất đầy cỏ. Mất một lúc lâu cậu không thể thở nổi do cú va chạm đó. Cậu từ từ đứng dậy. Cơ thể cậu đau đớn, nhưng có vẻ không có cái xương nào bị gãy.
Nhưng Bất Bại đã nhanh chóng biết mất ở tít xa. Arthas chửi rủa, đá một mô đất và nắm chặt tay lại. Đáng ra cậu nên biết chuyện này có thể xảy ra chứ.
Ngài Uther Người Mang Ánh Sáng đang chờ cậu khi cậu về. Arthas cau mặt khi cậu tuột khỏi lăng Thực Tâm và đưa cương ngựa cho một người coi ngựa.
“Bất Bại vừa tự trở về cách đây không lâu. Nó bị một vết cắt nơi chân, nhưng thần chắc rằng người sẽ mừng khi biết người huấn luyện ngựa bảo rằng nó sẽ ổn.”
Arthas định nói dối với Uther về chuyện họ bỗng hoảng sợ và Bất Bại đã bỏ chạy. Nhưng rõ ràng với vết cỏ dính trên quần áo khi cậu ngã, và rằng Uther sẽ không bao giờ tin rằng hoàng tử lại không thể yên vị trên lưng con Thực Tâm già cả hiền lành được, dù nói hay không.
“Người biết người chưa nên cưỡi nó mà,” Uther dứt khoát nói tiếp.
Arthas thở dài. “Ta biết.”
“Arthas, người không hiểu sao? Nếu người đặt quá nhiều áp lực vào nó với tuổi của nó, nó-”
“Ta hiểu rồi mà được chưa? Ta có thể khiến nó bị tàn tật. Chỉ một lần thôi mà.”
“Chỉ một lần thôi phải không?”
“Vâng thưa ngài,” Arthas ủ rũ nói.
“Người lại quên bài học rồi.”
Arthas im lặng và không nhìn Uther nữa. Cậu đang tức giận, xấu hổ, và đau, và chỉ muốn được tắm nước nóng cùng chút trà thạch nam để xoa dịu cơn đau. Đầu gối phải của cậu đã bắt đầu sưng rồi.
“Ít nhất người cũng về kịp buổi cầu nguyện chiều nay.” Uther nhìn cậu từ đầu đến chân. “Thần nghĩ người nên đi tắm rửa.” Thực sự Arthas đang ướt đẫm mồ hôi và biết mình đang bốc mùi của ngựa. Mùi này thật dễ chịu, cậu nghĩ một cách thành thật. “Nhanh lên. Chúng ta sẽ gặp nhau ở nhà thờ.”
Arthas không rõ buổi cầu nguyện hôm nay là về vấn đề gì. Cậu cảm thấy ngờ ngợ về điều đó; Ánh Sáng quan trọng với cả cha cậu và Uther, và cậu biết rằng họ cực kỳ muốn cậu sẽ sùng đạo y như họ. Nhưng dù cậu thể phủ nhận được những gì hiển hiện ngay trước mắt mình – Ánh Sáng thực sự là có thực; cậu đã từng thấy các tư tế và hội hiệp sĩ mới thành lập đã thực sự tạo ra phép màu bằng cách chữa thương hoặc bảo vệ – cậu vẫn không thể cảm thấy muốn được ngồi xuống cầu nguyện hàng giờ đồng hồ liền như Uther, hoặc cầu xin ý kiến bằng giọng cung kính như cha mình được. Chỉ là… không thích mà thôi.
Một tiếng sau, sau khi tắm rửa và đã thay một bộ y phục đơn giản mà thanh nhã, Arthas vội đi tới nhà thờ của gia đình trong khu nhà ở cho hoàng gia.
Nó không phải là một căn phòng lớn, nhưng nó thật đẹp. Đó là là phiên bản thu nhỏ của một nhà thờ truyền thống có thể thấy ở mọi thành thị con người, và có lẽ là hơi xa hoa hơn so với bình thường. Cốc rượu lễ được viền bằng vàng và khảm ngọc, đặt trên một cái bàn cổ. Kể cả những hàng ghế dài cũng được bọc đệm ấm áp, trong khi dần thường phải dùng ghế gỗ phẳng.
Khi khẽ bước vào cậu nhận ra mình là người cuối cùng – và cậu co rúm lại khi nhận ra có vài nhân vật quan trọng tới thăm cha mình. Ngoài những người tham dự thông thường – gia đình cậu, Uther, và Muradin – Vua Trollbane cũng có mặt, dù cho ông ta có vẻ còn không vui vẻ bằng Arthas khi phải tới đây. Và… một người nữa. Một cô gái mảnh dẻ với mái tóc dài màu vàng đang quay lưng lại phía cậu. Arthas nhìn cô đầy hiếu kỳ, và rồi cậu đâm sầm vào một hàng ghế.
Rõ ràng cậu đã gây sự chú ý về phía mình. Hoàng Hậu Lianne nghe thấy tiếng động và quay lại mỉm cười âu yếm với con trai, ở tuổi ngũ tuần bà vẫn thật xinh đẹp. Bộ áo của bà được thêu dệt một cách hoàn hảo, mái tóc được quấn kín trong một chiếc mũ ni không để lộ ra bất cứ sợi tóc nào. Calia lúc này đã mười bốn tuổi và trông nhút nhát và ngây thơ y như Bất Bại lúc vừa mới sinh, cô quắc mắc nhìn cậu. Hẳn là tin về trò nghịch dại của cậu đã được lan ra – hoặc chỉ là cô đang tức giận vì cậu tới trễ. Terenas gật đầu với cậu, rồi hướng mắt lên nhìn vị giám mục chủ trì. Arthas cảm thấy khúm núm trước sự không hài lòng ẩn trong cái nhìn đó. Trollbane chẳng thèm để ý gì đến cậu, và Muradin cũng chẳng thèm quay sang.
Arthas đi tới hàng ghế cuối cùng sát tường. Vị giám mục bắt đầu nói và giơ tay mình lên, bàn tay tỏa ra thứ ánh sáng trắng nhẹ nhàng. Arthas ước gì cô gái chỉ cần nghiêng đầu một chút để cậu có thể thoáng nhìn được gương mặt cô. Cô ấy là ai? Rõ ràng là con gái của một quý tộc hoặc ai đó có cấp bậc cao, nếu không cô đã không được mời tham dự buổi cầu nguyện của gia đình này. Cậu nghĩ về việc cô có thể là ai, việc tìm hiểu danh tính của cô thú vị hơn hẳn những lời giáo huấn kia.
“…và Hoàng Tử Arthas Menethil,” vị giám mục ngân nga. Arthas giật mình tỉnh trí, cậu thắc mắc không biết mình có bỏ lỡ điều gì quan trọng không. “Cầu cho Ánh Sáng ban phước cho cậu trong mọi suy nghĩ, lời nói, và việc làm, để cậu lớn lên và khi trưởng thành sẽ phụng sự nó dưới danh nghĩa là một hiệp sĩ.” Arthas bỗng cảm thấy hơi ấm dễ chịu chạy dọc cơ thể khi lời ban phước được dành cho cậu. Sự bướng bỉnh và nỗi đau khổ biến mất, khiến cho cậu cảm thấy khỏe khoắn và thanh thản. Vị giám mục quay về phía hoàng hậu và công chúa. “Cầu cho Ánh Sáng tỏa rạng trên đầu Hoàng Hậu Lianne Menethil, rằng bà ấy-”
Arthas cười toe toét và chờ đợi vị giám mục ban phước xong cho từng người. Khi đó cậu sẽ biết tên cô gái kia. Arthas ngả người ra sau và tựa vào tường.
“Và chúng tôi nhún nhường thỉnh cầu Ánh Sáng ban phước cho Công Nương Jaina Proudmoore. Cầu cho cô ấy được ban phước bằng trí tuệ và việc chữa lành vết thương, rằng cô-”
A ha! Cô gái bí ẩn đó không còn nằm trong vòng bí ẩn nữa. Jaina Proudmoore, ít hơn cậu một tuổi, là con gái của Đô Đốc Daelin Proudmoore, người hùng chiến tranh hải quân và người cai trị Kul Tiras. Điều khiến cậu tò mò là tại sao cô lại ở đây và-
“-và rằng việc học tập của cô tại Dalaran được tốt đẹp. Chúng tôi cầu cho cô trở thành một biểu tượng của Ánh Sáng, và rằng trong vai trò một pháp sư, cô ấy sẽ phụng sự chu đáo cho dân tộc mình.”
Điều đó đã được giải đáp. Cô đang trên đường tới Dalaran, thành phố đẹp đẽ của các pháp sư nằm không xa Thành Đô. Với luật lệ xã giao cứng nhắc và lòng mến khách của hoàng gia và các quý tộc, cô sẽ ở đây vài ngày trước khi lên đường.
Chuyện này sẽ vui đây, cậu nghĩ.
Vào cuối buổi cầu nguyện. Arthas lúc này đã ở ngay cạnh cửa, bước ra ngoài đầu tiên. Muradin và Trollbane ra ngay sau đó, cả hai đều có vẻ thoải mái hơn khi cuối cùng buổi cầu nguyện đã kết thúc. Terenas, Uther, Lianne, Calia, và Jaina đi theo phía sau.
Cả chị gái của cậu và cô gái họ Proudmoore đều mảnh dẻ và có mái tóc vàng. Ngoài ra không còn gì giống nhau. Calia hơi còi hơn, khuôn mặt trông như một bức tranh cổ với nước da mịn màng và hơi tái. Còn Jaina lại có đôi mắt sáng và một nụ cười vui tươi, và cô bước đi giống với một người đã quen với việc đi bộ và cưỡi ngựa. Dễ thấy là cô đã dành rất nhiều thời gian ở bên ngoài trời, khuôn mặt cô rám nắng với chút tàn nhang trên mũi.
Điều này khiến Arthas cho rằng cô là một cô gái thường hay bị ném bóng tuyết vào mặt, hoặc đi bơi vào mùa hè. Không như chị gái cậu, cô là một người cậu có thể chơi cùng.
“Arthas – có chiện muốn nói zới cậu,” một giọng nói thô lỗ phát ra. Arthas quay sang nhìn vị đại sứ đang nhìn cậu.
“Dĩ nhiên rồi thưa ngài,” Arthas nói, trái tim cậu chùng xuống. Tất cả những gì cậu muốn làm là nói chuyện với người bạn mới của mình – cậu đã rất chắc chắn là họ sẽ hòa thuận với nhau – và Muradin hẳn đang muốn la rầy cậu vì hành động xấu hộ lúc ở kho vũ khí. Ít nhất ông lùn này cũng đủ tinh tế khi dẫn cậu đi thêm vài bước ra xa khỏi mọi người.
Ông quay sang nhìn vị hoàng tử, hai ngón tay cái núng nính móc vào thắt lưng, khuôn mặt cộc cằn nhăn lại suy nghĩ. “Chèng trai à,” ông nói, “Ta xẽ nói thẵng zô zấn đề lun. Cách chiến đấu của cậu rứt tệ.”
Một lần nữa Arthas cảm thấy máu dồn hết lên mặt. “Ta biết,” cậu nói, “nhưng Phụ Vương-”
“Cha cậu bận rất nhìu ziệc. Chắc cậu hông dám nói với ông ý.”
Chà không biết ông ấy định nói gì đây? “À ta tự luyện tập không được tốt cho lắm. Ngài đã thấy lúc tôi tập rồi đấy.”
“Ta cóa thễ đấy. Ta cóa thễ dạy cậu nếu cậu thích.”
“Ngài-ngài dạy ta ư?” Ban đầu Arthas tỏ ra hoài nghi, rồi chuyển sang vui mừng. Trong tất cả mọi việc người lùn có tiếng tăm với năng lực chiến đấu của họ. Một phần trong Arthas thắc mắc liệu Muradin có định dạy cậu cả việc uống rượu không, đó là một thứ luôn đi liền với người lùn, nhưng cậu quyết định không hỏi về điều đó.
“Ầy, ta đã nói zậy phãi hông? Ta đã nói chiện zới cha cậu rùi, zà ông ấy hoàn toàn đồng ý. Chiện nì đã trì hoãn khá lâu rùi. Nhưng nói thẵng nè. Ta xẽ hông nhẹ tay đâu. Và ta xẽ dạy cậu rứt vứt vả đó. Và nếu có lúc nào ta mãi nghĩ ngơi, ‘Ê Muradin, chúng ta đang lãng phí thời gian đóa,’ ta xẽ ngưng. Đồng ý hông cậu nhóc?”
Arthas cố nén một tiếng cười rúc rích trước suy nghĩ có người còn thấp hơn cả cậu mà lại gọi cậu là “cậu nhóc.” “Vâng thưa ngài,” cậu nhiệt tình nói. Muradin gật đầu và đưa một bàn tay to bè chai sạn ra. Arthas bắt lấy nó. Cậu cười toe toét và nhìn cha cậu, ông đang mải nói chuyện với Uther. Họ cùng lúc quay sang nhìn cậu, hai cặp mắt nhíu lại suy xét, và trong thâm tâm Arthas thở dài. Cậu biết cái nhìn đó. Chưa kể tới chuyện chơi với Jaina – có khi cậu còn chẳng có thời gian để gặp cô trước khi cô rời đi ấy chứ.
Cậu quay sang nhìn khi Calia đặt tay lên vai cô gái trẻ tuổi hơn và dẫn Jaina ra khỏi phòng. Nhưng ngay trước khi cô biến mất sau cánh cửa, con gái của Đô Đốc Proudmoore quay đầu lại nhìn thẳng vào mắt Arthas rồi mỉm cười.