“Giữ đầu nó ấy; đúng rồi chàng trai!”
Con ngựa cái đảo tròn mắt, bộ lông thường ngày có màu trắng của nó giờ đã sẫm đi vì mồ hôi. Hoàng Tử Arthas Menethil, con trai duy nhất của Vua Terenas Menethil II, người một ngày nào đó sẽ trị vì vương quốc Lordaeron, đang giữ chắc lấy cương và thì thầm nhẹ nhàng.
Con ngựa giật mạnh đầu và suýt hất bay người cậu bé chín tuổi kia. “Ối, Bờm Trắng,” Arthas nói. “Bình tĩnh nào cô gái, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Không có gì phải lo lắng cả.”
Jorum Balnir lẩm bẩm đầy thích thú. “không biết cậu có bình tĩnh nổi không nếu như có gì đó to cỡ con ngựa con này đang chui ra khỏi người cậu đấy chàng trai à.”
Con trai ông là Jarim đang cúi người bên cạnh cha mình và hoàng tử, cậu và Arthas cười sằng sặc kể cả khi dòng nước bọt nóng hổi từ miệng Bờm Trắng rớt xuống chân mình.
“Rặn một cái nữa đi nào cô bé,” Balnir nói, ông di chuyển từ từ dọc cơ thể con ngựa tới chỗ con ngựa con lúc này đang được bọc trong một lớp màng sáng màu, nó đã đi được một nửa chặng đường tới thế giới này.
Vốn ban đầu Arthas không hề định tới đây. Nhưng khi cậu không phải học bài, cậu thường trốn đến trang trại Balnir để chiêm ngưỡng bầy ngựa nhà Balnir vốn dùng làm ngựa giống và để chơi với bạn mình là Jarim. Cả hai cậu bé đều biết rõ rằng con trai của một chuyên phối giống cho ngựa, cho dù là những con thú thường được mua làm vật cưỡi cho gia đình hoàng gia, không phải là một người bạn “phù hợp” cho một hoàng tử. Nhưng cả hai không để tâm gì đến chuyện đó, và trước giờ không có người lớn nào ngăn cản mối quan hệ này cả. Và vậy là cậu cứ tới đây, xây dựng pháo đài, chơi ném tuyết, và chơi trò Vệ Binh Và Kẻ Cướp với Jarim, và rồi Jorum gọi hai cậu bé tới chứng kiến phép màu của sự sinh nở này.
Arthas đã nghĩ “phép màu của sự sinh nở” thực sự rất ghê tởm. Cậu vốn không ngờ rằng sẽ có nhiều… chất nhờn đến vậy. Bờm Trắng cứ khẽ rít và thở hổn hển, chân nó duỗi thẳng đơ, và rồi với một âm thanh của thứ chất nhầy nhớp nháp con của nó đã bước vào thế giới này.
Cái đầu nặng nề của nó dúi vào đùi Arthas, và nó chợp mắt một lúc. Hai bên sườn nó phập phồng khi nó thở. Cậu bé mỉm cười, cậu vuốt ve cái cổ ẩm ướt, bộ bờm dày rối bù, và nhìn về phía Jarim và cha cậu đang chăm sóc cho con ngựa con. Vào khoảng thời gian này trong năm trong chuồng ngựa rất là lạnh, hơi nước đang bốc lên từ cơ thể nóng và ướt nhẹm của nó. Bằng khăn và cỏ khô, hai cha con lau sạch lớp màng bọc quanh cơ thể con ngựa con, và Arthas nhe răng cười.
Ẩm ướt, sẫm màu, bốn chân dài ngoằng và bằng đôi mắt to, con ngựa con nhìn ra xung quanh, nó nháy mắt trước ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn lồng. Cặp mắt nâu lớn đó nhìn thẳng vào mắt Arthas. Mày thật đẹp, Arthas nghĩ, cậu như ngừng thở, và nhận ra rằng “phép màu của sự sinh nở” này thực sự rất kỳ diệu.
Bờm Trắng bắt đầu gượng đứng dậy. Arthas cũng nhảy dựng lên và lùi lại phía bức tường gỗ của chuồng ngựa để con thú lớn có thể quay vòng mà không va vào cậu. Mẹ và đứa con mới sinh hít ngửi lẫn nhau, rồi Bờm Trắng khịt mũi và bắt đầu liếm láp con trai nó.
“Ê này chàng trai, cậu có hơi bẩn một chút đấy,” Jorum nói.
Arthas nhìn xuống người mình và trái tim cậu chùng xuống. Người cậu đang dính đầy rơm và nước dãi ngựa. Arthas nhún vai. “Có lẽ ta nên nhảy vào một đụn tuyết nào đó dọc đường trở về cung nhỉ,” cậu cười toe toét. Sau khi trấn tĩnh lại một chút, cậu nói, “Đừng lo. Ta đã chín tuổi rồi. Ta không còn là một cậu bé nữa. Ta có thể đi tới bất cứ đâu tôi-”
Có tiếng gà kêu quang quác và giọng nói lớn của một người đàn ông, và mặt Arthas chùng xuống. Cậu chỉnh lại quần áo ngay ngắn, cố gạt bỏ chỗ cỏ khô dính trên người đi nhưng không thành công, rồi cậu bước ra khỏi chuồng ngựa.
“Ngài Uther,” cậu cố nói theo giọng điệu kiểu như là ta là hoàng tử và tốt nhất ông nên ghi nhớ giọng điệu đó. “Những người này rất tử tế với ta. Ta xin ngài đừng quấy rối lũ gà của họ nữa.”
Và luống hoa mõm chó của họ nữa, cậu nghĩ khi nhìn những đụn đất phủ đầy tuyết nơi những bông hoa đẹp đẽ vốn là niềm vui và sự tự hào của Vara Balnir sẽ nhú lên chỉ trong vài tháng nữa. Cậu nghe thấy tiếng Jorum và Jarim đi theo mình ra khỏi chuồng ngựa mà không cần quay lại nhìn, thay vì đó cậu nhìn vị kỵ sĩ đang ngồi trên lưng ngựa, toàn thân mặc kín-
“Giáp ư!” Arthas há hốc miệng. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Thần sẽ giải thích trên đường đi,” Uther nói dứt khoát. “Thần sẽ cử người quay lại tìm ngựa cho người thưa Hoàng Tử Arthas. Kiên Định vẫn có thể chạy nhanh kể cả khi phải chở hai người.” Ông cúi xuống, bàn tay to lớn của ông nắm lấy cánh tay của Arthas, và kéo cậu bé lên ngồi phía trước mình như không vậy. Vara cũng đã ra khỏi nhà khi nghe thấy tiếng ngựa phi nước đại. Bà đang lau tay bằng một cái khăn, và trên mũi bà có dính vết bột mì. Đôi mắt màu xanh dương của bà nở lớn, và bà nhìn chồng mình đầy lo lắng. Uther lịch sự gật đầu với bà.
“Chúng tôi sẽ giải thích chuyện này sau,” Uther nói. “Thưa bà.” Ông lịch sự đưa bàn tay đeo găng sắt ra trước trán chào rồi thúc con ngựa Kiên Định của ông – nó cũng được trang bị kín giáp như ngài kỵ sĩ – và rồi con thú phi thẳng tới trước.
Cánh tay của Uther như một thanh nẹp bằng sắt bó quanh người Arthas. Nỗi sợ hãi dấy lên trong lòng cậu bé nhưng cậu cố nén nó xuống kể cả khi cậu tựa vào tay Uther. “Ta biết cách cưỡi ngựa mà,” cậu nói, tính nóng nảy của cậu che dấu đi nỗi sợ hãi bên trong. “Kể cho ta nghe xem có chuyện gì xảy ra đi.”
“Một kỵ sĩ từ Bờ Nam đã đến. Anh ta mang theo tin xấu. Vài ngày trước, hàng trăm con tàu nhỏ chứa đầy dân tị nạn tới từ Bạo Phong đã đổ bộ vào bờ biển của chúng ta,” Uther nói. Ông không hề bỏ tay mình ra. Arthas từ bỏ cố gắng đó, cậu ngửa cổ lên chú ý lắng nghe, đôi mắt có màu xanh lục của biển cả nở lớn và chăm chú nhìn vào khuôn mặt kiên định của Uther. “Bạo Phong đã thất thủ.”
“Sao cơ? Bạo Phong ư? Bằng cách nào? Do ai? Cái gì-”
“Chúng ta sẽ sớm biết thôi. Những người sống sót, bao gồm cả Hoàng Tử Varian, được dẫn đầu bởi cựu Dũng Sĩ của Bạo Phong là Lãnh Chúa Anduin Lothar. Ông ấy cùng Hoàng Tử Varian và những người khác sẽ tới Thành Đô trong vài ngày nữa. Lothar đã cảnh báo chúng ta rằng ông ấy mang theo tin tức đáng báo động – hiển nhiên là vậy với một thứ đã phá hủy cả Bạo Phong. Thần được cử tới tìm người và đem người về. Người không nên chơi với những người dân thường như vậy vào lúc này.”
Arthas sửng sốt quay đi và nhìn về phía trước, tay cậu nắm chặt bờm Kiên Định. Bạo Phong! Cậu chưa từng đến đấy, nhưng cậu đã từng nghe kể những câu chuyện về nó. Đó là một vùng đất hùng mạnh, với những bức tường thành bằng đá vĩ đại và những tòa nhà đẹp đẽ. Nó đã được xây dựng bằng sự kiên quyết chống lại những luồng gió dữ đội đã tạo nên cái tên cho nó. Không thể ngờ nổi nó lại có thể thất thủ – ai hay cái gì đủ mạnh mẽ để có thể đánh bại một thành phố như vậy chứ?
“Có bao nhiêu người đi cùng họ?” cậu hỏi với giọng lớn hơn hẳn so với dự tính để người kia có thể nghe được với tiếng vó ngựa rầm rập khi họ quay về thành phố.
“Không rõ. Nhưng chắc chắn không phải là ít. Người đưa tin báo rằng đó là tất cả những người còn sống sót.”
Sống sót sau cái gì chứ?
“Và Hoàng Tử Varian?” Dĩ nhiên từ bé đến giờ cậu đã nghe nhiều về Varian, và cậu cũng biết tên của những vị vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa các nước láng giềng. Đột nhiên mắt cậu mở lớn. Uther đã nhắc tới Varian – nhưng không nhắc tới cha của vị hoàng tử là Vua Llane-
“Sẽ sớm trở thành Vua Varian. Vua Llane đã ngã xuống cùng với Bạo Phong rồi.”
Tin tức tồi tệ này khiến Arthas choáng váng hơn cả việc hàng ngàn người đột nhiên mất nhà cửa. Gia đình của Arthas rất gắn bó với nhau – cậu, chị cậu là Calia, mẹ cậu là Hoàng Hậu Lianne, và dĩ nhiên là cả Vua Terenas. Cậu cũng từng thấy cách một số nhà lãnh đạo cư xử với gia đình mình, và biết rằng gia đình mình khăng khít hơn tất thảy. Nghĩ đến chuyện mất đi thành phố của mình, cuộc sống vốn có, và cha mình-
“Tội nghiệp Varian,” cậu nói mà mắt ngân ngấn giọt nước mắt thông cảm.
Uther vụng về vỗ vai cậu. “Đúng vậy,” ông nói. “Đó quả là một ngày đen tối cho cậu ấy.”
Arthas chợt rùng mình, không phải do cái lạnh trong một ngày mùa đông sáng sủa như thế này. Buổi chiều đẹp đẽ, với bầu trời xanh và khung cảnh phủ đầy tuyết quanh co, chợt trở nên đen tối với cậu.
Vài ngày sau, Arthas đang đứng trên tường thành của lâu đài, cậu tới đánh bạn với Falric là một vệ binh và đưa cho anh ta một ca trà nóng bốc khói. Những cuộc viếng thăm như vậy, như những khi Arthas tới thăm gia đình Balnir, thăm những đầy tớ hầu gái phục vụ bếp lâu đài, thăm thợ rèn, và thực ra là thăm tất cả những người đầy tớ phục vụ cho hoàng gia, đều rất đỗi quen thuộc. Terenas lúc nào cũng thở dài, nhưng Arthas biết rằng chẳng ai bị trừng phạt vì tội nói chuyện với cậu cả, và thực sự đôi lúc cậu có tự hỏi liệu có phải là cha mình đã bí mật chấp thuận hay không.
Falric mỉm cười biết ơn và cúi mình đầy kính trọng, rồi anh tháo găng tay ra để cái ca có thể làm ấm những ngón tay lạnh cóng của mình. Tuyết sắp rơi, và bầu trời toàn một màu xám xịt, nhưng thời tiết vẫn còn sáng sủa. Arthas tựa vào tường và tựa cằm vào hai tay đang gấp. Cậu nhìn ra dãy đồi trắng xóa xứ Tirisfal, dọc con đường xuyên qua Rừng Thông Bạc tới Bờ Nam. Con đường mà Anduin Lothar, pháp sư Khadgar, và Hoàng Tử Varian sẽ tới.
“Có thấy dấu hiệu gì của họ không?”
“Không thưa Hoàng Tử,” Falric trả lời và nhấp món đồ uống nóng. “Có thể là hôm nay, ngày mai, hoặc ngày kia. Nếu người muốn nhìn thấy, thưa ngài, người có thể phải đợi ít lâu đấy.”
Arthas cười toe toét với anh ta, mắt nheo lại đầy vui vẻ. “Vẫn vui hơn là học bài,” cậu nói.
“Chà, thưa ngài, người phải biết rõ điều đó hơn tôi mà,” Falric lịch thiệp nói, rõ ràng đang cố cưỡng lại một điệu cười toe toét để đáp lại.
Trong khi người lính canh đang nhấp nháp món trà, Arthas thở dài và lại nhìn xuống con đường như cậu vẫn nhìn hàng tá lần trước. Điều này ban đầu có vẻ rất thú vị, nhưn giờ đây cậu đang dần trở nên buồn chán. Cậu muốn trở lại thăm con ngựa con của Bờm Trắng, và bắt đầu thắc mắc việc lẻn đi trong vài tiếng mà không bị phát hiện sẽ khó khăn đến thế nào. Falric nói đúng. Lothar và Varian có thể phải mất đến vài ngày nữa mới đến nếu-
Arthas nháy mắt. Cậu từ từ nhấc cằm lên khỏi bàn tay và nheo mắt lại.
“Họ tới rồi!” cậu hét lên vào chỉ tay.
Falric ngay lập tức tới bên cậu, bỏ quên cả cái ca. Anh gật đầu.
“Người có con mắt sắc bén đấy thưa Hoàng Tử Arthas! Marwyn!” anh gọi. Một binh sĩ khác chuyển sang tư thế đứng nghiêm. “Đi báo tin cho nhà vua rằng Lothar và Varian sắp tới rồi. Họ sẽ tới đây trong vòng một giờ nữa.”
“Vâng thưa đại úy,” anh chàng nói và chào.
“Để ta làm! Ta sẽ đi!” Arthas vừa nói vừa đi. Marwyn ngập ngừng và ngoái lại nhìn cấp trên của mình, nhưng Arthas quyết vượt anh ta. Cậu lao xuống cầu thang, trượt trên băng và nhảy bước băng qua nốt quãng đường còn lại, rồi chạy ngang qua sân, trượt chân dừng lại ngay khi tới ngai phòng và trấn tĩnh mình lại. Hôm nay là ngày Terenas gặp mặt đại biểu của dân chúng để lắng nghe thỉnh cầu của họ và làm những gì có thể để giúp họ.
Arthas hất mũ trùm của tấm áo choàng màu đỏ được thêu dệt đẹp đẽ ra sau. Cậu hít một hơi, thở ra làn khói trắng, và gật đầu khi cậu tiến về phía hai vệ binh, họ nghiêm nghị chào và quay sang đẩy mở cánh cửa cho cậu.
Ngai phòng rõ ràng là ấm áp hơn hẳn khu sân bên ngoài, dù cho đó là một căn phòng lớn làm bởi đá cảm thạch với trần làm bằng vòm cao. Kể cả là một ngày u ám như thế này, khung cửa sổ bát giác trên đỉnh mái vòm cũng rọi sáng bởi ánh sáng tự nhiên. Những ngọn đuốc đặt trên đế ven tường cháy đều đều, tăng thêm hơi ấm và sắc cam cho căn phòng. Một hình tròn phức tạp bao quanh biểu tượng Lordaeron nằm trên sàn, giờ đang bị che kín bởi một nhóm người đang kính cẩn chờ đến lượt mình hầu.
Ngồi trên ngai vàng khảm ngọc đặt trên bệ cao là Vua Terenas II. Mái tóc ông mới chỉ điểm chút tóc bạc ở thái dương, khuôn mặt chỉ mới có đôi vết nhăn, với nhiều nét vui tươi hơn hẳn với vẻ cau mày hiện trên khuôn mặt lẫn tâm hồn ông. Ông quàng một tấm áo choàng đẹp đẽ có màu lam và tím được thêu những đường vàng lấp lánh trong ánh đuốc và làm nổi bật vương miện của mình. Terenas hơi nghiêng người về phía trước, chăm chú nghe người đàn ông đang đứng trước mặt ông nói – một tiểu quý tộc mà lúc đó Arthas không thể nhớ ra tên là gì. Đôi mắt ông, với màu xanh lục lam, tập trung nghe người đàn ông nói.
Trong chốc lát, dù biết rõ ai là người cậu sắp phải thông báo, Arthas vẫn chỉ đứng đó ngắm nhìn cha mình. Cậu cũng giống như Varian, là con trai của một đức vua, là một hoàng tử. Nhưng giờ Varian không còn cha nữa, và Arthas cảm thấy hơi nghẹn họng trước suy nghĩ phải nhìn thấy ngai vàng đó trống trơn, hay phải nghe những bài ca cổ xưa tại lễ đăng quang của mình.
Khẩn cầu Ánh Sáng, xin hãy để cho ngày đó tới càng muộn càng tốt.
Có lẽ cũng cảm thấy cái nhìn của con trai mình, Terenas nhìn ra phía cửa. Mắt ông nheo lại cười trong chốc lát, rồi ông lại hướng sự chú ý tới người đang thỉnh kiến.
Arthas đằng hắng và bước tới trước. “Xin thứ lỗi vì đã xen ngang. Thưa Phụ Vương, họ đã tới rồi. Con đã nhìn thấy họ! Họ sẽ tới đây trong vòng một giờ nữa.”
Terenas trở nên nghiêm nghị. Ông biết “họ” là ai. Ông gật đầu. “Cảm ơn con trai.”
Đám đông nọ quay sang nhìn nhau; hầu hết bọn họ cũng đều biết về “họ” là ai và họ bắt đầu di chuyển như thể cuộc gặp mặt đã kết thúc. Terenas giơ một tay lên. “Không. Thời tiết vẫn ổn và con đường vẫn thoáng đãng. Họ sẽ sớm tới đây, nhưng chưa tới ngay đâu. Cho tới lúc đó, chúng ta vẫn tiếp tục.” Ông cười buồn. “Ta có cảm giác rằng một khi họ tới, những cuộc diện kiến như thế này có thể sẽ phải hoãn lại. Hãy cứ làm xong việc này trước khi tới chuyện đó.”
Arthas nhìn cha mình với đầy vẻ tự hào. Đó là lý do tại sao người dân lại yêu quý Terenas đến vậy – và lý do tại sao nhà vua luôn lờ đi những “chuyến phiêu lưu” của con trai mình tới gặp những người dân thường. Terenas rất quan tâm tới những người dân mà ông cai trị, và đang truyền tình cảm đó cho con trai mình.
“Con có cần ra đón họ không thưa Phụ Vương?”
Terenas nhìn con trai một chốc, rồi lắc đầu. “Không. Ta nghĩ tốt nhất con không nên tham dự cuộc họp này.”
Arthas cảm thấy sửng sốt. Không tham dự ư? Cậu đã chín tuổi rồi! Có thứ gì đó thực sự rất tồi tệ đã xảy ra tới một đồng minh quan trọng, và một cậu bé không lớn tuổi hơn cậu bao nhiêu đã bị mất cha vì điều đó. Cậu bỗng cảm thấy cơn giận lóe lên. Tại sao cha cậu cứ khăng khăng che chở cho cậu như vậy chứ? Tại sao cậu không được phép tham dự một cuộc họp quan trọng như vậy?
Cậu cố nén lại lời phản đối mà nếu như được ở riêng với Terenas thì cậu đã thốt ra rồi. Không nên tranh cãi với cha mình tại đây, ngay trước mặt nhiều người như vậy. Kể cả khi cậu hoàn toàn đúng về chuyện này. Cậu hít một hơi, cúi chào, rồi lui ra.
Một tiếng sau, Arthas Menethil đã ẩn náu an toàn trên một trong những ban công nhìn xuống ngai phòng. Cậu tự nhe răng cười với chính mình; cậu vẫn còn đủ nhỏ con để nấp dưới ghế nếu có ai đó thò mũi vào kiểm tra. Cậu hơi bồn chồn một chút; thêm một hai năm nữa thì cậu sẽ không thể làm được điều này nữa.
Nhưng trong một hai năm nữa, chắc hẳn Phụ Vương sẽ hiểu rằng mình đã xứng đáng được có mặt tại một sự kiện như vậy, và mình sẽ không phải trốn nữa.
Ý nghĩ đó làm cậu thấy vui. Cậu cuộn áo choàng lại và dùng nó làm gối trong khi chờ đợi. Căm phòng được giữ ấm nhờ những lò sưởi, đuốc, và thân nhiệt của nhiều người tập trung trong một không gian nhỏ. Hơi ấm và tiếng nói lầm rầm dễ chịu trong những cuộc tranh luận thông thường ru ngủ cậu, và cậu đã suýt ngủ quên.
“Tâu Bệ Hạ.”
Giọng nói mạnh mẽ vang dội kéo Arthas tỉnh dậy.
“Thần là Anduin Lothar, một kỵ sĩ xứ Bạo Phong.”
Họ đây rồi! Lãnh Chúa Anduin Lothar, cựu Dũng Sĩ xứ Bạo Phong… Arthas nhoài ra dưới ghế và cẩn thận nhỏm dậy, cố nấp sau bức màn xanh lam che quanh lô ban công, và hé mắt nhìn ra.
Lothar quả đúng là một chiến binh, Arthas nghĩ khi nhìn người đàn ông đó. Dáng người cao ráo mạnh mẽ, ông mặc bộ áo giáp nặng nề với vẻ thoải mái chứng tỏ ông đã quá quen với trọng lượng của nó. Mặc dù môi trên và cằm ông vẫn có một bộ ria dày và một chỏm râu ngắn, đầu ông lại gần như hói trọc; chút tóc ít ỏi còn lại được buộc lại thành một đuôi ngựa nhỏ. Bên cạnh ông là một ông già mặc một bộ áo choàng tím.
Ánh mắt của Arthas hướng tới cậu bé chỉ có thể là Hoàng Tử Varian Wrynn. Cao gầy nhưng lại có bờ vai rộng hứa hẹn một ngày nào đó cơ thể mảnh dẻ này sẽ phổng phao to lớn, trông cậu tái nhợt và kiệt quệ. Arthas co rúm lại khi nhìn cậu bé kia dù chỉ hơn cậu vài tuổi nhưng lại trông cô độc và sợ hãi. Khi được nhắc đến, Varian bình tĩnh lại và trả lời một cách lịch sự. Terenas rất biết cách làm cho người ta cảm thấy thoải mái. Ông nhanh chóng giải tán đám đông chỉ để lại vài cận thần cùng các lính gác và đứng lên khỏi ngai vàng để chào đón những vị khách.
“Xin mời ngồi,” ông nói, quyết định không ngồi trên ngai vàng vinh quang của mình, thay vì đó ông ngồi trên bậc trên cùng của bệ. Ông kéo Varian xuống ngồi cạnh mình bằng một cử chỉ hiền hậu. Arthas mỉm cười.
Vẫn còn ẩn nấp, hoàng tử trẻ xứ Lordaeron ngắm nhìn và lắng nghe cẩn thận, và âm thanh vọng tới phía cậu nghe rất kỳ cục. Nhưng khi cậu nhìn người chiến binh vĩ đại xứ Bạo Phong – và hơn thế nữa, khi cậu nhận thấy đường nét xanh xao của vị vua tương lai của một vùng đất đẹp đẽ như vậy – bằng một cảm giác đáng sợ Arthas nhận ra tất cả những chuyện này không phải là điều tưởng tượng; tất cả những chuyện đó thực tế đến chết chóc, và thật đáng sợ.
Người đàn ông đó nói về loài sinh vật gọi là “orc” mà bằng cách nào đó đã tràn vào được Azeroth. To lớn, nước da màu lục, răng to như ngà và khát máu, chúng tạo thành một “đại tộc” tràn tới như một cơn thủy triều gần như không thể ngăn chặn nổi – “Đủ để phủ kín mặt đất từ bờ biển này tới bờ biển kia,” Lothar nói một cách kinh hoàng. Chính những con quái vật đó đã tấn công Bạo Phong và khiến cho cư dân trở thành những dân tị nạn – hoặc những cái xác, Arthas đã nhận ra điều đó. Mọi thứ trở nên sôi nổi hơn khi có cận thần nào đó rõ ràng không tin Lothar. Lothar nổi giận, nhưng Terenas đã xoa dịu tình hình và kết thúc cuộc gặp mặt đó. “Ta sẽ triệu hồi các vị vua láng giềng,” ông nói. “Những sự kiện này khiến tất cả chúng ta đều phải lo lắng. Thưa Bệ Hạ, ngài có thể ở lại nhà ta và ta sẽ bảo vệ ngài cho tới khi nào ngài không cần nữa.”
Arthas mỉm cười. Varian sẽ ở lại đây, trong cung điện này, cùng với cậu. Sẽ thật vui khi có được một cậu bé quý tộc khác chơi cùng. Cậu cũng có Calia, người hơn cậu hai tuổi, nhưng mà đó là một cô gái, và dù cậu rất quý Jarim, cậu cũng biết rằng cơ hội cho họ chơi cùng nhau là rất giới hạn. Nhưng Varian lại là một hoàng tử cũng như Arthas, và họ có thể chơi đùa với nhau, cưỡi ngựa cùng nhau, và cùng đi phiêu lưu-
“Ngài đang bảo chúng ta phải chuẩn bị cho chiến tranh ư.” Giọng của cha cậu cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu, và Arthas bỗng lại thấy ảm đạm.
“Vâng,” Lothar trả lời. “Một cuộc chiến cho sự tồn vong của chủng tộc chúng ta.”
Arthas nuốt nước bọt, rồi rời khỏi lô ban công một cách im lặng như lúc cậu tới.
Đúng như Arthas dự đoán, một lát sau Hoàng Tử Varian bước vào phòng khách. Chính Terenas hộ tống cậu bé đi, vừa đi vừa nhẹ nhàng đặt một bàn tay trên vai cậu. Nếu ông có ngạc nhiên khi thấy con mình đang chờ tại phòng khách thì ông cũng đã không thể hiện ra.
“Arthas. Đây là Hoàng Tử Varian Wrynn, nhà vua tương lai xứ Bạo Phong.”
Arthas cúi chào hoàng tử kia. “Chào Hoàng Tử,” cậu trang trọng nói, “Ta chào mừng ngài đến với Lordaeron. Ta chỉ mong được ở trong một hoàn cảnh vui vẻ hơn.”
Varian cúi chào lại một cách trang nhã. “Như ta đã nói với Vua Terenas, ta rất cảm kích vì tình hữu nghị và sự trợ giúp của các ngài trong thời khắc khó khăn này.”
Giọng cậu mệt mỏi và có vẻ gượng ép. Arthas cởi giúp cậu tấm áo choàng, áo chẽn, quần túm, tất cả làm từ vải lụa được thêu dệt một cách cầu kỳ đẹp đẽ. Nó bẩn tới nỗi trông như Varian đã mặc chúng cả nửa đời mình rồi. Mặt cậu rõ ràng đã được lau sạch, nhưng vẫn còn vết bẩn trên thái dương và đất dính trong móng tay.
“Ta sẽ cử vài người hầu tới phục vụ ít thức ăn, khăn sạch, nước nóng, và một bồn nước nóng để ngài có thể thư giãn, thưa Hoàng Tử Varian.” Terenas tiếp tục gọi cậu bé bằng danh hiệu; có thể dần dần việc này sẽ giảm bớt, nhưng Arthas hiểu tại sao giờ đây nhà vua lại nhấn mạnh điều đó đến vậy. Varian cần phải biết rằng mình vẫn được tôn trọng, vẫn là vua chúa trong khi cậu gần như đã mất tất cả mọi thứ trừ mạng sống của mình. Varian ngậm môi lại và gật đầu.
“Cảm ơn ngài,” cậu nói.
“Arthas, con chăm sóc cho ngài ấy nhé.” Terenas siết nhẹ vai Varian một cách ấm áp, rồi ông đi ra và đóng cửa lại.
Hai cậu bé cứ nhìn nhau. Tâm trí Arthas hoàn toàn trống rỗng. Sự im lặng cứ kéo dài mãi một cách không thoải mái. Cuối cùng Arthas nói, “Tớ rất tiếc về cha của cậu.”
Varian co rúm lại và quay đi, cậu bước về phía khung cửa sổ cỡ lớn nhìn ra Hồ Lordamere. Cơn mưa tuyết vẫn đe dọa sẽ rơi suốt cả sáng cuối cùng đã đến, nó nhẹ nhàng buông tấm mền êm ái xuống bao phủ khắp vùng đất. Thật là tệ – trong một ngày sáng đẹp, người ta có thể nhìn tới tận Thành Fenris. “Cảm ơn cậu.”
“Tớ chắc rằng ông ấy đã chiến đấu và hi sinh rất dũng mãnh.”
“Ông ấy bị ám sát.” Giọng Varian lờ đờ vô cảm. Arthas quay sang nhìn cậu đầy sửng sốt. Gương mặt cậu khi nhìn ngang từ phía Arthas và được chiếu sáng bởi ánh sáng lạnh lẽo của một ngày mùa đông trông thật bình tĩnh đến bất thường. Chỉ đôi mắt cậu, đôi mắt màu nâu đỏ ngàu chứa đầy nỗi đau là còn có vẻ nhanh nhẹn. “Một người bạn đáng tin cậy đã nói chuyện riêng với ông ấy. Rồi ả ta giết ông ấy. Đâm ngay vào tim.”
Arthas cứ nhìn chòng chọc. Cái chết trong một trận chiến vẻ vang đã là rất khó để chịu đựng được rồi, nhưng mà-
Cậu hấp tấp đặt một tay lên cánh tay của vị hoàng tử kia. “Tớ đã tận mắt thấy một con ngựa con được sinh ra vào hôm qua,” cậu nói. Nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng đây là điều đầu tiên nảy ra trong trí óc cậu và rồi cậu nói một cách nghiêm túc. “Khi thời tiết dịu đi, tớ sẽ đưa cậu tới gặp nó. Nó là thứ đáng ngạc nhiên nhất trên đời này.”
Varian quay sang nhìn cậu một lúc lâu. Trên mặt cậu trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau – tội lỗi, không tin tưởng, biết ơn, khát khao, hiểu biết. Đột nhiên cặp mắt nâu đó tràn đầy nước mắt và Varian quay đi chỗ khác. Cậu gập hai tay và co mình lại, hai vai run lên trong tiếng khóc cậu đang cố gắng chặn lại. Nhưng nước mắt vẫn tuôn ra, tiếng khóc bi ai đau khổ cho một người cha, một vương quốc, một cách sống mà hẳn là cậu không được tỏ ra đau buồn được cho tới tận giây phút này.
“Tớ ghét mùa đông,” Varian thổn thức, và chỉ bằng ba từ đơn giản đó sự đau đớn của cậu đã được truyền tải đầy đủ tới Arthas. Không thể đứng nhìn nỗi đau đớn đến như vậy, nhưng lại bất lực chẳng thể làm được gì, cậu thả tay xuống và quay đi, nhìn ra ngoài cửa sổ.
Ngoài kia, tuyết vẫn tiếp tục rơi.