Lord of Mysteries

luyện bắn súng

Truyện Chữ Hay
Tùy Chỉnh
Truyện Chữ Hay

Translator: Kouji

✫ ✫ ✫

Cộp cộp cộp.

Tiếng bước chân vang vọng khắp hành lang chật hẹp tối tăm, truyền tới khoảng yên tĩnh xa xa, không lẫn chút tạp âm nào.

Klein giữ thẳng lưng, theo sát tốc độ không nhanh không chậm của vị linh mục trung niên. Anh không đặt câu hỏi, không trò chuyện vu vơ, lặng như một hồ nước không gió.

Sau khi vượt qua lối đi được canh gác cẩn mật, người linh mục dùng chìa khóa mở một cánh cửa bí mật và chỉ vào cầu thang đá dẫn xuống bên dưới: “Tới ngã tư rẽ trái là đến Cổng Chianese."

"Nguyện Nữ thần phù hộ cho ông." Klein điểm bốn phía trên ngực, vẽ ra ‘hình dáng’ mặt trăng đỏ thẫm.

Ở đời thường thì dùng lễ tiết đời thường, trong tông giáo thì dùng nghi thức tôn giáo.

“Ngợi ca Nữ thần.” Người linh mục đáp lại bằng một cử chỉ tương tự.

Klein không nói gì thêm. Anh nương theo ánh đèn khí ga tinh xảo được gắn ở hai bên tường mà bước xuống cầu thang, từng bước đi vào trong bóng tối.

Nửa chừng, anh vô thức quay đầu, nhìn thấy vị linh mục trung niên kia vẫn đứng nguyên ở cánh cửa trên đỉnh cầu thang. Ở nơi ánh đèn không thể vươn tới ấy, trông ông chẳng khác nào một bức tượng sáp bất động.

Klein thu hồi tầm mắt, tiếp tục đi xuống. Không lâu sau, anh đặt chân lên mặt đất lát đá lạnh băng, đi thẳng tới ngã tư.

Anh không chuyển hướng qua ‘Cổng Chianese’, bởi Dunn Smith vừa trực luân phiên hôm qua, nên chắc chắn sẽ không có ở đó.

Men theo con đường quen thuộc bên phải, Klein lại đi lên một cầu thang khác, xuất hiện bên trong “Công ty An ninh Blackthorn”.

Thay vì xông vào những cánh cửa đóng kín hoặc khép hờ một cách thô lỗ, anh tiến vào sảnh tiếp tân, trông thấy cô gái tóc xù có nụ cười ngọt ngào đang mải mê đọc một quyển tạp chí.

"Chào, Rozanne." Klein đến bên cạnh cô, cố ý gõ nhẹ xuống bàn.

Loảng xoảng!

Rozanne đột ngột đứng dậy, xô đổ chiếc ghế và bối rối nói, "Chào, hôm nay thời tiết đẹp nhỉ. A...anh... Klein, sao anh lại tới đây?"

Cô vừa vỗ ngực vừa thở hổn hển, tựa như một cô nhóc lười biếng sợ bị cha bắt gặp.

"Tôi có việc cần tìm đội trưởng," Klein trả lời vắn tắt.

“... Làm tôi sợ muốn chết, cứ tưởng đội trưởng ra đây chứ.” Rozanne lườm Klein, "Anh không biết gõ cửa sao! Hừ, may mà tôi là một quý cô rộng lượng, nhân từ đấy. À, tôi thích từ thiếu nữ hơn…

Anh tìm đội trưởng làm gì vậy? Ông ấy đang ở trong phòng đối diện phòng phu nhân Orianna. "

Dẫu cho tinh thần có chút căng thẳng, Klein vẫn bị Rozanne chọc cười. Anh cân nhắc một chút rồi nói, ‘Bí mật."

Mắt Rozanne trợn to. Trong lúc cô còn không thể tin nổi, Klein đã hơi cúi đầu và nhanh chóng chào tạm biệt.

Anh lại đi qua cánh cửa thông với sảnh tiếp tân rồi gõ cửa văn phòng đầu tiên bên tay phải.

"Mời vào." Giọng nói trầm ấm và điềm đạm của Dunn Smith vang lên.

Klein đẩy ra, khép cửa lại, ngả mũ chào, "Chào buổi sáng, đội trưởng."

"Chào buổi sáng, có việc gì à?” Chiếc mũ và áo khoác của Dunn được treo ở cái giá gần đó, để lộ áo sơ mi trắng và gile đen trên người, giúp người có đường chân tóc cao và đôi mắt sâu thẳm như ông trông thoải mái hơn hẳn.

“Có người đang theo dõi tôi." Klein thành thật đáp lại, không hề tô vẽ thêm bất kỳ điều gì.

Dunn ngả người vào ghế tựa và đan hai tay vào nhau. Đôi mắt xám sâu thẳm của ông lặng lẽ nhìn vào mắt Klein.

Ông không tiếp tục chủ đề theo dõi mà hỏi ngược lại, “Cậu đến từ nhà thờ?”

“Vâng.” Klein khẳng định.

Dunn nhẹ nhàng gật đầu, không nói tốt hay xấu, chỉ quay lại đề tài chính, “Có lẽ cha của Welch không tin tưởng báo cáo nguyên nhân tử vong mà chúng ta đưa ra, nên đã thuê một thám tử tư từ thành phố Gió tới điều tra.”

Thành phó Gió là tên khác của thành phố Conston thuộc quận Gian Hải. Đó là một khu vực có ngành công nghiệp khai thác than và sản xuất thép cực kỳ phát triển, cũng là một trong ba thành phố hàng đầu trong vương quốc Loen.

Không đợi Klein phát biểu ý kiến, Dunn tiếp tục, "Hoặc có thể do ngọn nguồn của cuốn sổ kia. Phải rồi. Chúng tôi đang điều tra xem Welch đã nhận cuốn sổ của gia đình Antigonus từ đâu. Đương nhiên, không thể loại trừ trường hợp có cá nhân hoặc tổ chức nào đó cũng đang truy tìm cuốn sổ ấy.”

“Tôi nên làm gì?” Klein trầm giọng hỏi.

Anh chắc chắn ước rằng nó là nguyên nhân đầu tiên.

Dunn không đáp ngay. Ông bưng cốc cà phê lên uống một ngụm, tròng mắt xám không chút dao động khi bảo, “Trở về theo con đường cũ, sau đó làm bất cứ điều gì cậu muốn.”

“Điều gì cũng được?” Klein hỏi ngược lại.

“Bất cứ chuyện gì." Dunn gật đầu khẳng định, "Miễn là đừng vi phạm pháp luật hay khiến đối phương chạy mất.”

"Được." Klein hít một hơi thật sâu rồi cất lời tạm biệt. Anh rời khỏi phòng và xuống lòng đất một lần nữa.

Anh rẽ trái ở ngã tư, đắm mình trong ánh sáng từ những ngọn đèn khí gắn ở hai bên tường khi lặng lẽ đi trên lối đi u ám và lạnh lẽo, trống trải không một bóng người.

Tiếng cộp cộp chồng lên nhau khiến xung quanh càng vắng vẻ, càng khiến người ta sợ hãi hơn.

Klein nhanh chóng tới gần cầu thang kia, bước từng bước đi lên, thấy vị linh mục trung niên đứng trong bóng tối trước cửa. Hai người gặp lại, không ai nói gì. Linh mục trung niên im lặng quay người nhường đường.

Lặng lẽ bước đi, Klein về tới sảnh cầu nguyện. Những ánh sáng từ những lỗ tròn sau đài thánh hình vòm vẫn trong lành như trước, căn phòng bên trong vẫn tối tăm và yên lặng, các quý ông quý bà vẫn đang xếp hàng bên ngoài phòng xưng tội, chỉ là đã vơi đi rất nhiều.

Klein chờ một lúc, rồi cầm gậy chống và tờ báo chậm rãi rời khỏi sảnh cầu nguyện, ra khỏi nhà thờ St. Selena như không có chuyện gì xảy ra.

Khi vừa mới trông thấy ánh mặt trời chói chang, anh lập tức có cảm giác bị theo dõi quen thuộc, hệt như mình là một con mồi đang nằm trong tầm ngắm của diều hâu.

Đột nhiên, một điểm đáng ngờ lóe lên trong đầu anh: Lúc nãy, tại sao kẻ nhìn lén không theo anh vào giáo đường? Tuy rằng nhờ vậy, anh mới có thể dựa vào hoàn cảnh u ám cùng sự giúp đỡ từ linh mục để lừa gạt đối phương và biến mất trong một thời gian ngắn. Chỉ là, chuyện giả vờ đến cầu nguyện nhằm tiếp tục giám sát khó lắm sao? Nếu không làm chuyện gì xấu, đàng hoàng đi vào là được mà.

Trừ phi đối phương từng có tiền án tiền sự, e sợ giáo hội, e sợ giám mục, biết bên giáo hội có thể có năng lực phi phàm…

Như vậy, khả năng kẻ nhìn lén là thám tư tử rất thấp…

“Hô!” Klein thở ra một hơi, không còn căng thẳng như trước nữa. Anh thong thả cất bước, vòng sang phố Zouteland ngay đằng sau.

Klein dừng lại trước một tòa nhà kiểu cũ, nơi có bức tường pha tạp những dấu vết của kiến trúc ngày xưa. Đó là số nhà “3”, có biển hiệu “Câu lạc bộ bắn súng Zouteland”.

Để kiếm thêm kinh phí, một phần trường bắn dưới lòng đất của Sở cảnh sát đã được mở cửa cho công chúng.

Cảm giác bị dòm ngó tức khắc biến mất khi Klein vừa bước vào trong, anh tranh thủ đưa huy hiệu Bộ phận Hành động Đặc biệt cho người phục vụ phụ trách việc tiếp đón.

Sau khi xác minh xong, người phục vụ dẫn anh xuống lòng đất và đưa anh đến một trường bắn nhỏ khép kín.

“Mục tiêu 10m.” Klein báo vắn tắt, rồi rút khẩu súng lục từ túi đựng súng dưới nách và cầm ra hộp đạn màu đồng để trong túi quần áo.

Việc đột nhiên bị ai đó nhìn chăm chú đã giúp khao khát có được năng lực tự bảo vệ bản thân chiến thắng sự trì hoãn, thế nên anh mới nóng lòng đến đây để luyện cách bắn súng.

Bang! Chờ người phục vụ rời đi, anh mới mở ổ xoay, tháo hết các viên đạn săn ma bạc ra, thay vào đó bằng những viên đạn thường.

Lần này, anh không chừa ô trống phòng trường hợp cướp cò, cũng không cởi lễ phục hay bỏ mũ phớt xuống. Bởi anh dự định sẽ luyện tập trong trang phục thường nhật. Dù sao, anh đâu thể hét lên “Đợi chút, để tôi đổi bộ khác thuận tiện hơn” mỗi khi gặp phải kẻ địch hay nguy hiểm được.

Lạch cạch!

Klein đóng ổ xoay và quay nó bằng ngón tay cái.

Anh bất thình lình nắm lấy súng bằng cả hai tay, giơ lên, nhắm thẳng vào bia ngắm cách đó mười mét.

Nhưng anh không vội vàng bắn, mà nghiêm túc hồi tưởng ký ức bắn trượt mục tiêu hồi đi huấn luyện quân sự cùng những kiến thức phổ biến như ba điểm trên một đường thẳng, nổ súng sẽ bị giật ra sau.

Giữa tiếng quần áo loạt xoạt, Klein tập đi tập lại việc ngắm bắn và tư thế cầm súng, nghiêm túc chẳng khác nào một đứa trẻ đang làm bài thi.

Sau nhiều lần luyện tập, anh đến gần góc tường, đặt người trên băng ghế dài mềm mại, đặt khẩu súng lục sang một bên, tự xoa bóp cánh tay và nghỉ ngơi một lúc.

Klein mất vài phút để nhớ lại các động tác vừa rồi. Sau đó, anh lại cầm khẩu súng lục có báng bằng gỗ và ổ xoay ánh đồng tới vị trí bắn, làm tư thế tiêu chuẩn, và bắn.

Pằng! Cánh tay anh rung lên, cơ thể hơi ngả ra sau, viên đạn chệch khỏi bia ngắm.

Pằng pằng pằng!

Klein rút kinh nghiệm, bắn từng phát một, mày mò và cảm nhận từ thực tiễn, mãi cho đến khi bắn hết sáu viên.

Bắt đầu bắn trúng mục tiêu rồi… Klein lùi về, ngồi xuống băng ghế một lần nữa khi hít thở vài hơi.

Xoạch! Anh mở ổ xoay, để sáu vỏ đạn rơi xuống đất, tiếp tục nhét từng viên đạn đồng còn lại vào với nét mặt bất biến.

Trong lúc hoạt động cánh tay và quay về vị trí bắn, Klein tổng kết lại kinh nghiệm xạ kích mình vừa đạt được.

Pằng pằng pằng!

Tiếng súng vang vọng, bia ngắm rung rung. Klein liên tục luyện tập và nghỉ ngơi. Sau khi bắn hết ba mươi viên đạn mới được phát và năm viên đạn thừa, anh bắt đầu bắn trúng bia ngắm, rồi dần dần chuyển sang bắn theo số vòng.

Klein lắc cánh tay đau nhức. Anh cúi đầu, vứt bỏ năm vỏ đạn thường cuối cùng trong ổ xoay, rồi thay bằng những viên đạn săn ma màu bạc có hoa văn phức tạp. Lần này, anh để trống một ô phòng trường hợp cướp cò.

Trả lại khẩu súng về bao đựng, Klein phủi qua lớp bụi trên người, thoải mái bước ra khỏi sân bắn chuyên dụng và quay về đường chính.

Cảm giác bị theo dõi lại rung lên trong tâm trí anh một lần nữa. Song tâm trạng của Klein đã bình tĩnh hơn trước rất nhiều. Anh chậm rãi đi bộ đến phố Champagne, bỏ 4 Penny mua vé xe ngựa công cộng tuyến cố định về phố Chữ Thập Sắt, trở lại căn nhà của mình ở chung cư.

Khi cái cảm giác kia lặng lẽ biến mất, Klein lấy chìa khóa, mở cửa và trông thấy một người đàn ông gần ba mươi tuổi, cắt tóc ngắn, mặc áo sơ mi vải lanh đang ngồi trước bàn học.

Lòng Klein thắt lại trước khi buông lỏng, anh mỉm cười gọi: “Chào buổi sáng, không, buổi trưa tốt lành, Benson.”

Người đàn ông này chính là anh trai của Klein và Melissa, Benson Moretti. Tuy năm nay anh ấy mới 25, nhưng bởi mép tóc cao và gương mặt già trước tuổi nên trông hệt 30.

Benson cũng có mái tóc đen, đôi mắt nâu, nét mặt khá giống Klein, nhưng lại không có phong thái trí thức.

“Chào buổi trưa, Klein, phỏng vấn sao rồi?” Benson đứng dậy, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười.

Chiếc áo khoác đen và mũ chóp nửa cao của Benson đều được treo ở phần gồ ra của chiếc giường tầng.

“Cực kỳ tệ.” Klein đáp bằng giọng đều đều.

Thấy Benson sửng sốt, Klein cười khúc khích và nói tiếp: “Thực tế thì em hoàn toàn không tham gia buổi phỏng vấn chút nào. Bởi em đã tìm được việc rồi. Lương tuần 3 Bảng…”

Anh lặp lại những lời mình đã nói với Melissa.

Vẻ mặt Benson dịu đi, anh ấy lắc đầu cười: “Anh có cảm giác như con mình đã trưởng thành vậy. Công việc đó khá tốt đấy.”

Nói rồi, Benson thở dài một hơi: “Sau bao ngày bôn ba mà nghe được tin tốt như vậy, quả là không tệ chút nào. Tối nay chúng ta phải ăn mừng một chút. Mua ít thịt bò nhé?”

Klein cười đáp: “Em chỉ sợ Melissa tiếc tiền thôi. Chiều anh cùng đi mua đồ ăn với em nhé? Cần ít nhất 3 Saule nhỉ? Thú thực, hệ thống tiền tệ 1 Bảng đổi 20 Saule, 1 Saule đổi 12 Penny, còn 1/2 Penny và 1/4 Penny này quả là phản logic, quá phiền phức. Em nghĩ nó nhất định là một trong những hệ thống tiền tệ ngu xuẩn nhất trên thế giới.”

Klein dứt lời đã thấy vẻ mặt Benson đanh lại, trong lòng lập tức có chút bất an, hoài nghi mình đã nói sai điều gì.

Phải chăng một trong những ký ức mà mình thiếu sót là chuyện Benson theo chủ nghĩa ủng hộ vương quốc cực đoan và thuần túy, không thể chịu đựng được bất kỳ lời chê bai nào?

Benson tiến lên vài bước, nghiêm túc phản bác: “Không, phải là duy nhất mới đúng.”

Klein ngẩn người, nhanh chóng phản ứng lại, mỉm cười cùng Benson.

Quả nhiên Benson rất am hiểu việc trào phúng hài hước.

Benson nhếch miêng, nghiêm nghị bảo: “Em nên hiểu rằng, để đặt ra một hệ thống tiền tệ hợp lý và đơn giản thì cần có một điều kiện tiên quyết, đó là phải biết cách đếm và thành thạo thuật toán. Tiếc thay, trong số các ông nghị tai to mặt lớn kia, lại chẳng có mấy người sở hữu tài năng đó.”

Klein bật cười, bằng kinh nghiệm phong phú của mình trong cuộc sống cũ, anh góp thêm một câu chê bai: “Trên thực tế, không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy các vị ấy có não cả.”

“Hay! Hay lắm!” Benson cất tiếng cười to và giơ ngón cái lên, “Klein, em hài hước hơn nhiều so với trước đây rồi đấy!” Rồi nói tiếp khi thở ra một hơi, “Chiều nay anh còn phải đến bến tàu. Ngày mai mới được nghỉ, đến lúc đó… Chúng ta sẽ cùng nhau đến Công ty Cải thiện Nhà ở thành phố Tingen, xem bọn họ có căn cho thuê nào tốt và rẻ không. Ngoài ra, còn phải đến thăm ông Franky nữa.”

“Ông chủ nhà?” Klein nghi ngờ hỏi.

Chẳng lẽ ông ta còn sở hữu một dãy nhà liền kề có vị trí đẹp ở lô đất này?

Benson liếc nhìn em trai mình, cười bảo: “Đừng bảo là em quên rằng chúng ta đã ký hợp đồng thuê nhà một năm chứ? Đến giờ mới được sáu tháng thôi.”

“A…” Klein chợt rùng mình, anh quả thực đã quên mất chuyện này!

Mặc dù tiền thuê được trả theo từng tuần, nhưng thời hạn cho thuê dài đến một năm. Bây giờ mà chuyển đi thì sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng. Nếu bị kiện lên tòa thì sẽ phải bồi thường một số tiền lớn!

“Em vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm xã hội đấy.” Benson vuốt mép tóc cao, bùi ngùi nói, “Trước đây anh đã phải cố lắm mới giành lấy được điều khoản ấy, bằng không ông Franky chỉ định ký ba tháng một thôi. Với tầng lớp có tiền, chủ thuê nhà thường cho thuê một năm, hai năm, hoặc thậm chí là ba năm cho ổn định. Song với chúng ta… Với chúng ta ngày xưa và hàng xóm xung quanh mà nói, đám chủ nhà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người thuê gặp chuyện, không trả nổi tiền thuê, nên chỉ thích hợp đồng ngắn hạn.”

“Như thế, họ còn có thể thường xuyên tăng giá tùy theo tình hình.” Klein tiếp lời, dựa trên những mảnh vỡ ký ức của nguyên chủ và kinh nghiệm đi thuê phòng của bản thân.

Benson thở dài: “Đây chính là bộ mặt thật tàn nhẫn của xã hội bây giờ. Được rồi, em đừng lo, chuyện hợp đồng ấy dễ giải quyết mà. Thực ra, chúng ta chỉ cần khất nợ tiền thuê nhà một tuần, ông Franky chắc chắn sẽ giữ lại những thứ đáng giá và đuổi chúng ta ra ngoài ngay. Xét cho cùng, trí thông minh của ông ta còn không bằng một con khỉ đầu chó lông xoăn, không cách nào nhận biết được những chuyện quá phức tạp.”

Nghe câu này, Klein đột nhiên nhớ đến chuyện của ngài Humphrey nào đó ở thế giới cũ, liền lắc đầu: “Không, Benson, anh sai rồi.”

“Hả?” Benson bối rối hỏi lại.

“Trí thông minh của ông Franky vẫn cao hơn khỉ đầu chó lông xoăn một chút.” Klein nghiêm túc đáp. Ngay khi Benson nở nụ cười đã hiểu, anh liền bồi thêm một câu, “Nếu ông ấy ở trong trạng thái tốt.”

“Haha.” Benson không kiềm chế chút nào.

Cười xong, Benson chỉ vào Klein, nhưng tạm thời không tìm được từ nào để nói, đành phải quay lại chủ đề chính: “Đương nhiên, là một quý ông, chúng ta không nên dùng những biện pháp vô liêm sỉ như vậy. Ngày mai chúng ta sẽ đến gặp trực tiếp ông Franky để bàn bạc. Cứ tin anh, ông ta dễ bị thuyết phục lắm.”

Đối với điều này, Klein không hề nghi ngờ. Sự tồn tại của ống dẫn khí ga chính là minh chứng hùng hồn nhất.

Hai anh em tán gẫu một hồi, rồi cho ít thị cá rán còn lại từ hôm qua vào nồi hầm rau củ và

dùng hơi nước nghi ngút làm mềm bánh mì lúa mạch đen.

Sau khi phết chút bơ lên bánh mì, Klein và Benson đánh chén một bữa ăn qua loa. Tuy vậy, họ vẫn ăn rất thỏa mãn, rốt cuộc thì mùi sữa và vị ngọt luôn lưu lại hương vị rất lâu trên đầu lưỡi.

Chờ Benson rời khỏi, Klein mới mang theo ba tờ 3 Saule và mấy đồng Penny đến chợ Rau và Thịt, mua một pound thịt bò với giá 6 Penny, một con cá Tasok tươi ít xương 7 Penny. Ngoài ra, anh còn mua thêm khoai tây, đậu hà lan, củ cải trắng, đại hoàng, rau diếp, củ cải và gia vị nấu ăn như hương thảo, húng quế, thì là, dầu.

Suốt quá trình ấy, anh có thể cảm nhận được tầm mắt của ai đó đang đeo bám lấy mình, nhưng vẫn chưa trực tiếp chạm mặt đối phương.

Anh ghé qua tiệm bánh mì Sling trước khi quay về nhà và bắt đầu dùng các vật nặng, như chồng sách vở để rèn luyện lực cánh tay.

Ban đầu, Klein còn định tập thêm mấy động tác quyền thuật của quân đội để tăng cường thân thể. Song anh bây giờ còn không nhớ được cả động tác tập thể dục theo đài, chứ đừng nói đến những thứ chỉ được tiếp xúc khi tham gia huấn luyện quân sự. Bất đắc dĩ, Klein đành sử dụng phương pháp tập luyện đơn giản nhất có thể.

Klein giữ cho bản thân không vận động quá sức bởi điều đó sẽ khiến anh mệt mỏi kéo theo nguy hiểm gia tăng. Dừng lại nghỉ ngơi một cách hợp lý, Klein tranh thủ đọc giáo trình và ghi chép của nguyên chủ nhằm ôn lại kiến thức về Kỷ thứ Tư.

Tối đến, Benson và Melissa ngồi ngay ngắn trên ghế như những đứa trẻ mới vào trường tiểu học, đôi mắt dán vào thức ăn bày biện trên bàn.

Đủ thứ mùi đan với nhau, tạo nên một khúc nhạc dạo đậm đà của đồ ăn. Đó là hương vị quyến rũ của món thịt bò luộc, mùi bền bỉ đầy kích thích và rõ ràng của khoai tây nghiền, là mùi ngọt ngào quấn quít của súp đậu hà lan, sự tinh tế và hương vị trung tính của đại hoàng hầm, hương bơ thanh mát vờn quanh bánh mì lúa mạch đen.

Benson nuốt nước miếng, nghiêng đầu nhìn Klein lúc này đang nhấc con cá chiên giòn vàng ruộm ra đĩa, cảm thấy mùi thơm của món chiên đang xâm nhập vào mũi, vào yết hầu, vào thực quản và dạ dày.

Ùng ục! Bụng Benson kêu lên một tiếng rõ to.

Klein xắn cổ tay áo sơ mi lại, bưng đĩa cá chiên đặt lên giữa bàn sách, rồi lấy hai cốc bia gừng to từ trong tủ bát, đặt trước mặt Benson và chỗ mình ngồi.

Anh cười với Melissa và biến ra một chiếc bánh pudding chanh: “Bọn anh có bia, em có cái này.”

“Cảm ơn anh.” Melissa nhận bánh, nhỏ nhẹ nói.

Thấy thế, Benson nhấc cốc lên, cất tiếng cười: “Nào, chúc mừng Klein đã tìm được một công việc tốt.”

Klein cầm cốc, chạm vào cốc Benson và hộp bánh pudding chanh của Melissa: “Ca ngợi nữ thần!”

Ùng ục. Anh ngửa đầu uống một ngụm. Vị cay như muốn đốt cháy thực quản mang đến một dư vị tuyệt vời.

Bia gừng, tên đầy đủ là bia nước gừng, nhưng thực chất lại không chứa bất kỳ loại cồn nào. Nó là sự pha trộn giữa vị cay của nước gừng và vị chua của chanh, tạo thành một đồ uống tương tự như bia mà phụ nữ hay trẻ em cũng uống được. Có điều, Melissa không thích hương vị ấy cho lắm.

“Ca ngợi nữ thần!” Benson cũng nốc một chút bia. Melissa cắn một miếng pudding chanh nhỏ, nhấm nuốt một lát nhưng không nỡ nuốt vào.

“Hai người ăn thử xem.” Klein đặt cốc xuống, cầm thìa và dĩa, chỉ vào thức ăn bày đầy trên bàn.

Trong số các món ở đây, thứ làm anh không tự tin nhất là món súp đậu hà lan. Rốt cuộc, khi còn ở thế giới cũ, anh cũng chưa bao giờ ăn mấy thứ kỳ quái này, nên chỉ có thể tái tạo nó dựa theo mảnh ký ức của nguyên chủ.

Thân là anh cả, Benson lập tức múc một thìa khoai tây nhét vào miệng mà không chút khách sáo.

Khoai tây được hầm nhừ, vị bùi bùi kết hợp với chút mỡ lợn và vị mặn vừa phải khiến nước miệng Benson liên tục tiết ra, thúc đẩy sự thèm ăn.

“Không… tồi… Không tồi.” Benson vừa nhồm nhoàm nhai vừa mở lời khen ngợi, “Ngon hơn món khoai tây nghiền mà anh từng ăn ở công ty rất nhiều, lần đó có bơ.”

“Đây có thể coi là món sở trường của em…” Klein bình thản đón nhận lời khen, “Tất cả là nhờ công chỉ bảo của ông đầu bếp nhà Welch.”

Melissa lại nhìn bát canh thịt bò. Lá húng quế xanh đậm, rau diếp tươi xanh lơ cùng những miếng củ cải màu trắng như ẩn như hiện giữa bát canh trong, miếng thịt bò đã hầm nhừ lấp ló bên dưới. Màu sắc của bát canh không chỉ tươi mát mà còn tỏa ra mùi thơm nức mũi.

Cô xiên một miếng, bỏ vào miệng nhai. Thịt mềm, song vẫn giữ được một chút độ cứng cho miếng cắn và không bị chín quá. Trong ấy còn có vị mặn của muối, vị ngọt của củ cải, vị cay của húng quế, tất cả chúng đã cùng nhau tôn lên hương vị tuyệt vời của bản thân miếng thịt bò.

Melissa dường như đang ca ngợi điều gì đó, nhưng không thể ngừng miệng.

Klein nếm thử, cảm thấy rất ngon, nhưng vẫn không tránh khỏi có chút tiếc nuối, so với tiêu chuẩn tốt nhất của anh, món này vẫn còn kém xa.

Dù sao ở đây cũng không có đủ gia vị, chỉ có thể thay thế bằng những thứ khác, khiến mùi vị khó tránh khỏi có chút kỳ quái.

Tất nhiên, các món ăn tốt nhất mà anh có thể làm cũng chỉ dừng ở mức độ ăn được.

Klein đột nhiên cảm thấy thương tiếc Benson và Melissa, những người chưa được trải nghiệm nhiều thứ.

Klein nuốt miếng thịt, tiếp tục gắp một miếng cá Tasok chiên giòn rải hương thảo và thì là. Ngoài giòn trong mềm, cháy vàng thơm ngon, vị mặn quyện hòa cùng vị mỡ.

Khẽ gật đầu, Klein thử thêm một miếng đại hoàng hầm, cảm thấy tạm ổn, có thể giúp giảm ngấy cho thịt.

Cuối cùng, anh thu hết can đảm và múc một thìa súp đậu hà lan.

Quá ngọt, quá chua… Klein không khỏi nhíu mày.

Nhưng vẻ hài lòng của Benson và Melissa khi ăn nó đã làm Klein có chút hoài nghi vị giác của bản thân, khiến anh không thể không nhấp một ngụm bia gừng để rửa lưỡi.

Bữa này, ba anh em đã ăn đến khi bụng phồng to, mãi không thể nhấc người khỏi ghế.

“Chúng ta hãy cùng ca ngợi nữ thần một lần nữa!” Benson bưng ngụm bia cuối cùng lên, giọng đầy thỏa mãn.

“Ca ngợi Nữ thần!” Klein uống cạn một hớp cuối cùng.

“Ca ngợi Nữ thần!” Melissa bỏ miếng bánh pudding chanh cuối cùng vào miệng rồi nhấm nháp.

Thấy vậy, Klein nương cảm giác ngà ngà say và cười nói: “Melissa, em cứ vậy thì không tốt đâu. Đồ ăn ngon nhất, thích nhất là phải ăn ngay từ đầu. Như vậy mới có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị tuyệt hảo của nó. Đến khi em no rồi, không còn muốn ăn mà vẫn cố thì sẽ hết ngon đấy.”

“Không, nó vẫn ngon.” Melissa bướng bỉnh đáp bằng câu trả lời chắc nịch.

Ba anh em vừa nói chuyện vừa cười đùa, chờ tiêu thực rồi cùng nhau dọn dẹp bàn ăn, bát đĩa và đổ dầu chiên cá vào bình cũ.

Sau khi dọn dẹp xong xuôi, một người ôn tập chương trình học, một người tự nghiên cứu kiến thức kế toán, một người tiếp tục lật xem giáo trình và sổ ghi chép, cùng trải qua một quãng thời gian trọn vẹn đầy thỏa mãn.

Mười một giờ đêm, ba anh em nhà Klein tắt đèn khí gas, chia nhau đi tắm rồi đi ngủ.

Đương lúc chìm trong cảm giác u mê lú lẫn và thốt lên tiếng thầm thì không lời yếu ớt, Klein bất thình lình trông thấy Dunn Smith mặc áo khoác màu đen dài đến đầu gối, đầu mang một mũ chóp nửa cao.

“Đội trưởng!” Klein lập tức tỉnh táo, biết rõ mình đang ở trong mộng.

Dunn cất lời, đôi mắt xám không chút gợn sóng, như thể đang nói về thời tiết: “Có người đã lẻn vào phòng cậu. Hãy cầm súng, ép hắn chạy ra hành lang. Chúng tôi sẽ lo nốt phần còn lại.”

Có người lẻn vào phòng mình? Kẻ theo dõi rốt cuộc đã ra tay? Klein giật mình, không dám hỏi nhiều, chỉ gật đầu đáp: “Vâng!”

Cảnh tượng trước mắt anh thay đổi trong tức khắc. Những màu sắc trở nên rối loạn, rồi vỡ tan như bọt biển.

Klein mở mắt, cẩn thận nghiêng đầu nhìn về phía cửa sổ, trông thấy một bóng lưng gầy gò và xa lạ đang đứng trước bàn học, lặng lẽ tìm kiếm thứ gì đó.

Thình thịch! Thình thịch! Thình thịch!

Trái tim Klein bắt đầu đập dữ dội. Nó co rút lại thành một nắm trước khi đột ngột phình lên, khiến cơ thể anh cũng hơi run rẩy theo.

Trong tích tắc, anh gần như quên mất mình phải làm gì, nên làm gì. Mãi cho đến khi bóng dáng của kẻ xâm nhập đột nhiên ngừng lại, hơi nghiêng tai, tựa hồ đang lắng nghe bất kỳ sự thay đổi nào.

Máu từ não dồn xuống, giúp Klein giành lại khả năng tư duy cơ bản của mình. Anh liền đưa tay mò xuống gối, cầm lấy báng súng bằng gỗ của khẩu súng lục ổ xoay.

Cảm giác cứng rắn, trơn tuột truyền đến. Cảm xúc của Klein nhanh chóng ổn định trở lại. Anh lặng lẽ rút khẩu súng lục ra, chĩa thẳng vào đầu kẻ đột nhập.

Thành thật mà nói, anh không chắc mình có thể bắn trúng đối phương hay không. Ngay cả khi anh đã quen với việc bắn bia, nhưng một người đang di chuyển và một mục tiêu cố định là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Klein còn chưa tự đại đến mức coi cả hai là một.

Có điều, anh mơ hồ nhớ ra một câu nói trong kiếp trước, đại ý là, uy lực lớn nhất của đạn hạt nhân chỉ tồn tại vào thời điểm trước khi nó được bắn ra.

Trong tình cảnh bây giờ, đạo lý cũng tương tự, đạn mang theo sự uy hiếp lớn nhất là trước lúc rời nòng!

Không bóp cò, không bắn mù quáng, như vậy đối phương sẽ không biết mình chỉ là tân binh. Hắn sẽ phải lo lắng, phải sợ hãi, phải suy xét rất nhiều thứ và tự mua dây buộc mình!

Ý tưởng này đến ý tưởng khác lóe lên trong đầu Klein trong một cái chớp mắt. Anh lập tức đưa ra quyết định. Klein không phải loại người càng đối mặt với nguy hiểm thì càng bình tĩnh, tất cả là nhờ anh đã tưởng tượng trước cảnh chạm trán kẻ theo dõi, tính toán trước việc mình sử dụng sự đe dọa thay vì tấn công.

Bởi Klein từng học được một câu thành ngữ là: Lo trước khỏi họa!

Khi họng súng nhằm vào kẻ đột nhập, người đàn ông gầy gò bỗng cứng người, như thể cảm nhận được một điều gì đó.

Ngay sau đó, hắn nghe thấy một giọng nói ẩn chứa tiếng cười: “Này anh bạn, chào buổi tối.”

Người đàn ông gầy gò khẽ khàng siết chặt hai tay, thân thể có vẻ căng cứng lại. Klein ngồi tầng giường dưới, giơ súng nhắm thẳng đầu hắn ta, cố gắng tỏ ra nhàn nhã và tự nhiên: “Mời anh đây giơ hai tay lên, xoay người lại cho, cố gắng làm chậm chậm thôi. Thú thật, tôi là một kẻ nhát gan, rất dễ khẩn trương. Nếu anh mà làm nhanh quá, tôi sẽ bị giật mình mất. Lúc đó thì tôi khó lòng đảm bảo rằng súng sẽ không bị cướp cò. Đúng rồi, như vậy đấy!”

Người đàn ông gầy gò giơ hai tay ngang đầu, từ từ quay người lại. Ánh vào tầm mắt Klein đầu tiên là bộ đồ bó sát màu đen được cài cúc chỉnh tề, sau đó mới là đôi lông mày màu nâu dày và sắc nét.

Klein không nhìn thấy dấu vết của nỗi sợ trong đôi mắt xanh thẳm của gã, thay vào đó, anh lại có cảm giác như thể mình đang bị một con thú dữ nhìn chòng chọc, chỉ cần anh bất cẩn một chút thôi là sẽ bị đối phương lao đến và xé thành mảnh nhỏ.

Chờ người đàn ông hoàn toàn đối diện với bản thân, Klein mới nâng cằm ra hiệu về phía cửa và nhẹ nhàng nói: “Mời anh ra ngoài nói chuyện nào. Chúng ta không nên quấy nhiễu giấc mộng đẹp của người khác. Động tác chậm một chút, bước chân khẽ khàng thôi. Đây là phép lịch sự cơ bản nhất của một quý ông.”

Con mắt lạnh lùng cay nghiệt của người đàn ông quét qua Klein vài lần. Gã từng bước đi đến cửa trong khi vẫn giơ tay lên.

Trong tầm ngắm của khẩu súng, gã vặn tay nắm, thong thả mở cửa.

Vào thời điểm cánh cửa hé ra một nửa, gã đột nhiên hạ người xuống và lăn về phía trước. Cánh cửa bỗng kêu lên kẽo kẹt trước khi đóng sầm lại, cứ như thể nó vừa bị một cơn gió dữ dội kéo đi.

“Ưm…” Bị tiếng động cực lớn kích thích, Benson ngủ ở giường trên có vẻ mơ màng sắp tỉnh.

Đúng lúc này, một giai điệu du dương từ bên ngoài truyền đến, một giọng ca ung dung và lắng đọng vang lên.

“Ôi

Đe doạ đầy kinh sợ

Ước mong hừng sắc đỏ

Vẫn có một sự thật

Đời trôi qua rất nhanh

Ôi sự thật duy nhất

Còn lại toàn dối trá

Sau một lần hoa nở

Xin vĩnh biệt đời này…” (1)

Dường như bài thơ này sở hữu một thứ sức mạnh có thể trấn an người khác, Benson ngủ ở giường trên và Melissa ở phòng trong đều mơ màng ngủ thiếp đi.

Lòng Klein cũng trở lên tĩnh lặng, còn suýt ngáp một cái.

Động tác vừa rồi của người đàn ông gầy gò rất nhanh nhẹn, đến mức anh không kịp phản ứng.

Nhìn cánh cửa đóng chặt, anh mỉm cười và tự nhủ: “Nói chắc anh cũng không tin, kỳ thực, tôi có bắn cũng không ra đạn.”

Bởi đây là ổ đạn trống phòng khi bị cướp cò!

Kế đó, Klein lắng nghe bài thơ lúc nửa đêm và kiên nhẫn đợi trận chiến bên ngoài kết thúc.

Không quá một phút đồng hồ sau, giai điệu an bình như mặt hồ dưới ánh trăng đã chấm dứt, đêm đen lấy lại sự tĩnh lặng sâu thẳm nhất của mình.

Klein lặng lẽ trượt ổ xoay, di chuyển vị trí đạn trống trong lúc chờ đợi kết quả.

Sự chờ đợi ấy kéo dài suốt mười phút. Ngay khi anh đang lo lắng bất an, do dự có nên ra ngoài điều tra hay không, thì ngoài cửa vang lên giọng nói trầm ổn và ôn hòa của Dunn Smith: “Đã giải quyết.”

“Phù.” Klein thở phào một hơi, cầm khẩu súng và chìa khóa, đi chân trần, rón rén đến gần cửa, mở ra mà không gây tiếng động. Anh thấy Dunn Smith với đôi mắt xám tĩnh mịch, mặc chiếc áo gió màu đen dài đến đầu gối, đội chiếc mũ chóp nửa cao hoàn hảo xuất hiện trước mặt mình.

Anh trở tay đóng cửa lại, đi theo Dunn đến cuối hàng lang, đứng dưới ánh trăng đỏ thẫm mờ ảo.

“Mất chút thời gian để tiến vào giấc mơ của hắn.” Dunn bình tĩnh nói khi nhìn mặt trăng đỏ bên ngoài cửa sổ.

“Ông biết lai lịch của hắn chưa?” Klein thả lỏng không ít.

Dunn hơi gật đầu và nói: “Hắn đến từ một tổ chức cổ xưa có tên là Hội Mật Tu, được thành lập vào Kỷ thứ Tư, có liên quan đến đế quốc Solomon cùng một bộ phận quý tộc sa đọa thời ấy. Cuốn bút ký của gia tộc Antigonus xuất phát từ chúng. Do sự sơ suất của một thành viên, cuốn sổ đã lọt vào thị trường đồ cổ rồi rơi vào tay Welch. Vì thế, chúng không còn cách nào khác ngoài việc cử người truy tìm nó khắp nơi.”

Không chờ Klein đặt câu hỏi, Dunn chỉ dừng một chút rồi nói tiếp: “Chúng tôi sẽ dựa vào manh mối để vây bắt ngược một số thành viên của chúng. Kết quả chưa chắc đã khả quan, đám người này trốn giỏi như lũ chuột cống vậy. Nhưng ít ra, chúng sẽ biết khả năng chúng tôi đã lấy được, hoặc có được manh mối mấu chốt về cuốn sổ. Như vậy thì trừ phi đây là một món đồ vô cùng trọng yếu, vô cùng quan trọng, bằng không chúng sẽ hoàn toàn từ bỏ hành động lần này. Đây là triết lý sinh tồn của chúng.”

“Nếu cuốn bút kỳ vô cùng quan trọng, vô cùng trọng yếu thì sao?” Klein lo lắng hỏi.

Thay vì trả lời, Dunn mỉm cười trước khi chuyển sang chủ đề khác: “Chúng tôi biết rất ít về Hội Mật Tu. Lần này có thể thành công là nhờ sự cơ trí của cậu. Một phần công lao đó

thuộc về cậu. Xét tới khả năng tiềm ẩn mối nguy hiểm cùng việc linh cảm được cải thiện sẽ cung cấp trợ giúp để cậu tìm kiếm cuốn sổ. Cậu có một cơ hội chọn lựa.”

“Cơ hội chọn lựa?” Klein mơ hồ đoán được điều gì đó, hô hấp bất giác trở nên nặng nề.

Nụ cười trên mặt Dunn vụt tắt. Ông trang trọng và nghiêm túc nói: “Cậu có muốn trở thành một Kẻ Phi Thường không? Chỉ có thể chọn khởi đầu trong các Danh Sách không hoàn chỉnh.

“Đương nhiên, cậu cũng có thể từ bỏ cơ hội này và chọn phương án tích góp công lao cho đến khi đủ mức để trở thành “Kẻ Không Ngủ”, cũng chính cấp đầu tiên mà Nữ thần ban cho các thủ vệ bóng đêm, khởi đầu của Danh Sách hoàn chỉnh mà giáo hội nắm giữ.”

Quả nhiên…

Klein vui mừng không thôi, anh dứt khoát hỏi mà không chút do dự: “Tôi có thể chọn những Danh Sách 9 nào?”

Phải có thông tin kỹ càng hơn thì anh mới có thể quyết định từ bỏ hay tiếp nhận, cũng như chọn cái nào được!

Dunn xoay lại, phủ lên người tấm ‘lụa mỏng’ đỏ thẫm vẩy xuống từ bầu trời đêm, nhìn vào mắt Klein và chậm rãi nói: “Ngoài ‘Kẻ Không Ngủ’, giáo hội còn có ba phương pháp phối chế ma dược của Danh Sách 9. Một loại tên là ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’, chính là khả năng mà lão Neil nắm giữ. Rozanne hẳn đã nói với cậu rồi. Nhóc ấy không bao giờ biết giữ mồm giữ miệng cả!”

Klein lúng túng cười, không biết nên nói sao cho phải. Cũng may, Dunn thèm không để ý: “Phương pháp phối chế ma dược của Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ và các cấp độ không liền mạch mà chúng ta nắm giữ đến từ Hội Khổ Tu Morse. Nghe nói lúc đó họ còn chưa sa đọa, vẫn giữ vững đạo đức và giới luật, kiên trì theo đuổi tri thức và nghiêm túc giữ bí mật. Tất cả những người tham gia Hội đều bị cấm nói trong năm năm, học cách im lặng để rèn luyện và cải thiện sự tập trung. Câu châm ngôn “Làm gì thì làm, nhưng chớ tổn thương ai’ xuất phát từ họ.”

“ ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ có hiểu biết toàn diện nhưng thô sơ về ma pháp, thuật phù thủy, thuật chiêm tinh, các kiến thức thần bí. Đồng thời họ cũng biết rất nhiều nghi lễ ma thuật. Bởi dễ dàng cảm nhận được một số sự tồn tại ẩn tàng phía sau sự vật, họ phải luôn cẩn thận, luôn kính sợ sức mạnh phi thường.

Chúng ta không có đủ các Danh Sách, nên không thể tạo thành Chuỗi. Ví dụ như Danh Sách 8 chẳng hạn. Tất nhiên, Thánh Đường có thể có.”

Điều này gần như đáp ứng mọi yêu cầu của anh… Klein khẽ gật đầu, có xúc động muốn chọn ngay lập tức.

May thay, anh còn nhớ những cái khác: “Hai loại còn lại thì sao?”

“Loại thứ hai gọi là ‘Người Nhặt Xác’. Có không ít tín đồ tà giáo sùng bái Tử Thần ở Lục địa Nam chọn con đường này. Những người sử dụng ma dược thường bị những vong linh không có trí tuệ thường ngộ nhận là đồng loại, nên không bị tấn công. Họ có thể chịu được sự ăn mòn của rét lạnh, hư thối và tử vong, có thể nhìn thấy một số ác linh, hiểu rõ đặc điểm và nhược điểm của nhiều sinh vật bất tử, thể chất cũng được cải thiện đôi phần. Chúng tôi có Danh Sách 8 và Danh Sách 7 sau đó. Chắc cậu cũng đoán được Danh Sách 7 là gì. ‘Người Thông Linh’! Đây chính là lựa chọn ban đầu của Daly.” Dunn miêu tả khá chi tiết.

“Người Thông Linh” có vẻ vừa bí ẩn lại vừa ngầu. Song, điều anh muốn nhất là khả năng nắm giữ kiến thức thần bí… Klein không xen lời, chỉ lẳng lặng lắng nghe.

Dunn Smith nghiêng đầu nhìn ánh trăng đỏ thẫm và nói: “Loại thứ ba thì chỉ có Danh Sách 9. Tôi không biết liệu Thánh đường có cất giữ phần khác hay không. Tên nó là ‘Nhà Bói Toán’.”

Nhà Bói Toán?

Đồng tử của Klein co lại, anh nghĩ đến những lời tiếc nuối mà Roselle Đại đế đã lưu lại trong nhật ký: Ông ta hối hận vì lúc trước không chọn “Người Học Việc”, “Ăn Trộm” hoặc “Nhà Bói Toán”!

Klein cố gắng hết sức để bản thân không lộ ra vẻ khác lạ, anh ôm lòng hiếu kỳ hỏi: “ ‘Nhà Bói Toán’ có năng lực gì?”

“Vấn đề của cậu chưa chính xác. Phải là sử dụng ma dược Nhà Bói Toán xong sẽ thu được khả năng gì mới đúng?” Dunn lắc đầu cười khi đưa lưng về phía mặt trăng đỏ, giấu mình trong bóng tối, “Thuật bói toán, bói thẻ bài, quả lắc thiêng, linh thị và rất nhiều thứ tương tự như vậy. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là cậu sẽ lập tức hiểu và thông thạo chúng sau khi uống ma dược. Nó chỉ cho cậu tư cách và khả năng học những thứ này mà thôi.

“Và nó cũng thiếu khả năng chiến đấu trực tiếp với kẻ thù. Cậu có thể hình dung rằng nghi lễ ma thuật đòi hỏi rất nhiều sự chuẩn bị, hoàn toàn không thích hợp cho các cuộc chạm trán. Đổi lại, Nhà Bói Toán sẽ hiểu chuyên sâu về các kiến kiến thức thần bí học hơn cả ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’.”

Nghe có vẻ khá phù hợp với yêu cầu của mình… Có điều, việc thiếu phương pháp đối địch trực tiếp khiến người ta có chút do dự… Hơn nữa, giáo hội Nữ thần Đêm Đen rất có thể không có các Danh Sách kế tiếp… Hẳn Thánh đường ở đây là chỉ nhà thờ Serenity, tổng bộ của giáo hội rồi… Thủ đoạn đối phó kẻ thù của Danh Sách thấp chưa chắc đã hơn được súng ống… Klein lâm vào trầm mặc, phân vân giữa “Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn” và “Nhà Bói Toán”. Riêng “Người Nhặt Xác” thì anh hoàn toàn không suy xét.

Dunn Smith thấy vậy bèn cười bảo: “Cậu không cần phải chọn ngay. Hãy cho tôi câu trả lời vào sáng thứ Hai là được. Dù cậu muốn chọn cái nào, hay trực tiếp từ bỏ chăng nữa, thì nội bộ Kẻ Gác Đêm chúng tôi cũng không có ý kiến gì với nó.”

“Hãy bình tĩnh lại và tự hỏi trái tim mình.” Dứt lời, ông cởi mũ, hơi cúi đầu rồi lướt qua Klein để đi đến cầu thang.

Klein không nói lời nào, cũng không lập tức đưa ra đáp án, chỉ âm thầm chào lại, lẳng lặng nhìn theo bóng Dunn khuất dần.

Dẫu anh luôn mong muốn trở thành Kẻ Phi Thường, nhưng khi cơ hội đặt ra trước mặt thì lại do dự không thôi: Danh Sách không đầy đủ, nguy cơ Kẻ Phi Thường mất kiểm soát, độ đáng tin của cuốn nhật ký Roselle Đại đế, những tiếng thì thầm hư ảo khiến người ta điên cuồng và sa đoạ đã tạo nên đầm lầy cản trở anh tiến bước.

Anh hít vào một hơi thật sâu, lại từ từ thở ra.

“Điều này có thể so với việc một học sinh trung bình phải viết phiếu nguyện vọng đại học đấy..." Klein tự giễu. Anh gói gọn những suy nghĩ lung tung, nhẹ nhàng mở cửa, quay về chiếc giường thân quen.

Anh nằm đó, hai mắt mở to, yên lặng quan sát phần đáy tầng giường trên nhuốm màu đỏ thẫm nhàn nhạt.

Âm thanh của một gã say xỉn loạng choạng đi ngang qua vang lên từ bên ngoài cửa sổ. Đằng xa có tiếng xe ngựa đang phóng nhanh trên con phố vắng vẻ. Những âm thanh đó không hề gây ảnh hưởng tới sự yên tĩnh của màn đêm, trái lại còn giúp nó trở nên sâu thẳm và thâm trầm hơn.

Lòng Klein chợt lắng xuống khi nhớ về những tháng ngày trước đây ở Trái Đất. Anh nhớ người cha thích rèn luyện thân thể cùng cái giọng oang oang của ông; nhớ người mẹ mắc bệnh mãn tính luôn đôn đáo lo lắng cho mình; nhớ đám bạn thân thiết từ hồi bé tí, đã luôn cùng nhau đá banh, đánh cầu, chiến game hay chơi mạt chược; nhớ về mối tình đầu đã trở lên mơ hồ cùng lời tỏ tình thất bại. Nỗi nhớ ấy hệt như một dòng nước yên ả, không mấy gợn sóng hay gây tổn thương sâu sắc, nhưng lại đủ để khiến trái tim anh phải trĩu nặng.

Có lẽ chỉ khi mất đi rồi thì con người mới nhận ra nó quan trọng đến nhường nào. Khi màu đỏ thẫm dần biến mất, nhường chỗ cho màu vàng óng của mặt trời mới mọc, Klein đã đưa ra lựa chọn.

#Chú Thích:

1) Cải biên từ bài thơ trong “Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam” bản dịch Edward FitzGerald.

Truyện Chữ Hay