Translator: Kouji
✫ ✫ ✫
Đang phấn khởi sải bước trên phố Zouteland và tận hưởng làn gió nóng ẩm, Klein chợt nhớ ra một điều: Trên người anh chỉ còn 3 đồng Penny lẻ, mà đi xe ngựa công cộng về phố Chữ Thập Sắt lại mất 4 Penny. Nếu đưa một tờ tiền giấy 1 Kim Bảng cho đối phương thối lại tiền thừa thì chẳng khác nào việc mình cầm 100 tệ mua một chai nước khoáng rẻ tiền ở thế giới cũ cả. Anh thực sự không thể trơ mặt ra làm thế được.
“Hay là dùng 3 Penny ngồi 3 cây số, sau đó cuốc bộ về?” Klein đút tay vào túi quần, giảm dần tốc độ và suy nghĩ biện pháp khác.
“Không được!” Anh nhanh chóng bác bỏ ý nghĩ này.
Sẽ tốn nhiều thời gian để đi bộ nốt quãng đường còn lại, trong khi người đang mang món tiền lớn tới 12 Bảng như thế này thì không an toàn chút nào!
Hơn nữa, vì lo rằng khẩu súng lục sẽ bị Kẻ Gác Đêm tịch thu mất nên hôm nay Klein cố ý không mang nó theo. Nhỡ thật sự gặp phải nguy hiểm đã gây ra cái chết cho Welch, anh sẽ hoàn toàn không có sức chống cự!
“Tìm ngân hàng nào gần đây rồi đổi tiền lẻ? Không, không được, phí đổi 0,5% là quá đắt!” Klein lắc đầu. Chỉ cần nghĩ tới việc phải trả phí đổi tiền cũng khiến anh đau lòng không thôi!
Vào thời điểm hết biện pháp này đến biện pháp khác bị gạt bỏ, mắt Klein đột nhiên sáng lên khi nhìn thấy một cửa hiệu quần áo!
Phải rồi, cách thông thường nhất chính là mua một thứ gì đó có giá hợp lý để nhận lại tiền thừa mà?
Lễ phục, áo gile, áo sơ mi, quần, ủng da và một cây gậy chống đều là những khoản cần chi, sớm hay muộn cũng phải mua!
“Ừm, mấy chuyện thử quần thử áo phiền lắm. Benson lại hiểu rõ hơn mình, cũng biết cách mặc cả hơn, chờ anh ấy về rồi tính sau… Hay là mua gậy chống nhỉ?” Klein tự lẩm bẩm.
Đúng thế! Thế giới này có một câu ngạn ngữ rất hay, gậy chống chính là vũ khí tự vệ tốt nhất của một quý ông, cũng có thể dùng nó như xà beng. Một tay cầm súng, một cây cầm gậy mới là cách chiến đấu của người văn minh!
Klein hạ quyết tâm, xoay người rẽ vào cửa hiệu ‘Mũ và Áo Wilker’ kia.
Cách bài trí của cửa hiệu áo mũ này giống hệt tiệm quần áo ở thế giới cũ. Bức tường bên trái là một dãy lễ phục, chính giữa là các loại áo sơ mi, quần tây, áo gile và cà vạt, bên phải là những đôi giày, ủng da đặt trong tủ kính.
“Thưa ông, ông muốn mua gì?” Một nhân viên nam mặc áo sơ mi trắng phối gile đỏ lịch sự chào hỏi.
Ở vương quốc Loen, các quý ông có địa vị, quyền thế và giàu có thường thích mặc áo sơ mi trắng, gile đen, quần đen và lễ phục đen và màu sắc khá đơn điệu. Vì vậy, người hầu, nhân viên cửa hàng và người phục nam sẽ phải mặc những bộ trang phục lộng lẫy hoặc sặc sỡ để phân biệt chủ tớ, sang hèn.
Trái lại, các quý bà quý cô hay mặc váy áo nhiều màu và diêm dúa, còn hầu gái chỉ được mặc đồ đen phối trắng và trắng phối đen.
Klein suy nghĩ một chút rồi đáp lại câu hỏi của nhân viên nam: “Một cây gậy chống, nặng và cứng hơn một chút.”
Loại có thể đánh vỡ đầu người khác thì càng tốt!
Nhân viên áo gile đỏ len lén nhìn Klein một lát trước khi dẫn anh vào trong cửa hàng rồi, rồi chỉ một hàng gậy được xếp trong góc: “Cây gậy dát vàng kia được làm từ gỗ Thiết Tâm. Nó rất nặng và cứng, giá 11 Saule 7 Penny. Ngài muốn thử một lần không?”
11 Saule 7 Penny? Sao mấy người không đi cướp? Bộ mạ tí vàng là ghê gớm lắm sao? Klein giật nảy mình vì giá cả.
Anh ngoài mặt vẫn rất bình tĩnh, chỉ gật nhẹ đầu và nói: “Được.”
Nhân viên gile đỏ gỡ cây gậy chống gỗ Thiết Tâm xuống, cẩn thận đưa cho Klein, bộ dạng như sợ anh sẽ làm vỡ đồ.
Vừa cầm lấy cây gậy, Klein đã cảm thấy sức nặng của nó. Khi thử di chuyển, anh nhận ra mình rất khó để vung vẩy nó một cách dễ dàng.
“Nặng quá.” Klein lắc đầu nhẹ nhõm.
Đây không phải là lấy cớ!
Người nhân viên đặt cây gậy về chỗ cũ rồi tiếp tục giới thiệu ba cây còn lại: “Cây này được làm bằng gỗ óc chó, do ông Hayes, thợ thủ công nổi tiếng nhất Tingen chế tác, có giá 10 Saule 3 Penny… Đây là gỗ Thủy Trầm, dát bạc, cứng như sắt, giá 7 Saule 6 Penny.. Cái này được làm từ lõi cây Boyle trắng, cũng được dát bạc, 7 Saule 10 Penny…”
Klein thử lần lượt từng cây và nhận thấy chúng đều có trọng lượng phù hợp. Sau đó, anh dùng ngón tay gõ thử để hiểu sơ qua độ cứng của mỗi cây. Cuối cùng, anh chọn cái rẻ nhất.
“Lấy cây Thủy Trầm đi.” Klein chỉ vào cây gậy chống có phần đầu dát bạc mà người nhân viên đang cầm.
“Vâng, thưa ngài, xin hãy theo tôi qua bên kia để thanh toán. Nếu sau này cây gậy có bị trầy xước hoặc ố màu thì ngài sẽ được bảo dưỡng miễn phí ở chỗ chúng tôi.” Nhân viên áo gile đỏ dẫn Klein đến quầy.
Nhân đó, Klein mở lòng bàn tay đang nắm chặt lấy bốn tờ Kim Bảng và lấy ra một tờ 1 Bảng.
“Chào ngài, của ngài hết 7 Saule 6 Penny.” Nhân viên sau quầy mỉm cười chào hỏi.
Klein vốn định duy trì phẩm giá của một quý ông, song lúc chìa tờ 1 Kim Bảng trên tay trái ra, anh vẫn buột miệng hỏi, “Có thể bớt một chút không?”
“Thưa ngài, đây đều là đồ thủ công nên chi phí của chúng rất cao.” Nhân viên mặc gile đỏ đứng cạnh trả lời, “Vả lại, chủ cửa hàng đang không có ở đây, chúng tôi không đủ tư cách giảm giá thay ông ấy.”
Nhân viên đứng sau quầy phụ họa theo, “Rất xin lỗi ông.”
“Thôi được rồi.” Klein đưa tiền, nhận lấy cây gậy đen đầu dát bạc từ tay nhân viên mặc gile đỏ. Trong lúc chờ bên kia trả tiền thừa, anh lùi ra sau vài bước, kéo giãn khoảng cách, hơi thử hiệu quả vung vẩy của ‘vũ khí tay trái’.
Vù vù vù!
Tiếng gió nặng nề và cảm giác xuyên thủng không khí làm Klein gật đầu hài lòng.
Anh quăng ánh mắt về phía trước, lại ngạc nhiên phát hiện người nhân viên áo gile đỏ đã lùi ra xa, còn nhân viên sau quầy thì rúc trong góc, tựa sát vào khẩu súng săn hai nòng treo trên tường.
Vương quốc Loen có chính sách bán kiểm soát vũ khí nóng. Để sở hữu một khẩu súng, bạn cần xin “Chứng nhận sử dụng đa vũ khí” hoặc “Giấy phép săn bắn”. Tất nhiên, cả hai loại này không bao gồm các loại súng quân dụng như súng trường tự động, súng hơi nước áp lực cao và súng máy sáu nòng.
“Chứng nhân sử dụng đa vũ khí” cho phép người ta có thể tùy ý mua sắm hoặc giữ bất kỳ loại súng dân dụng nào. Nhưng để kiếm được nó thì vô cùng rắc rối. Ngay cả những doanh nhân có địa vị cũng chưa chắc đã được thông qua xét duyệt. “Giấy phép săn bắn” thì dễ dàng hơn, cho dù nông dân ở vùng ngoại ô cũng có thể lấy được. Song nó chỉ được cấp riêng cho súng săn và bị hạn chế về số lượng. Không ít người có tài sản sẽ xin một cái để tự vệ trong tình huống khẩn cấp, chẳng hạn như bây giờ…
Trước hai người nhân viên đầy cảnh giác, khóe miệng Klein hơi co giật, anh cất tiếng cười khan: “Không tồi, cây gậy này rất dễ vung vẩy, tôi rất vừa lòng.”
Thấy Klein không định tấn công, người nhân viên thu ngân thả lỏng người và trả lại số tiền lẻ bằng cả hai tay.
Klein liếc qua, khẽ gật đầu khi thấy hai tờ 5 Saule, một đồng 5 Penny, một đồng 1 Penny.
Sau hai giây, anh phớt lờ ánh nhìn của nhân viên bán hàng, giơ bốn tờ tiền về phía ánh sáng để xác nhận hình mờ cùng hoa văn chống làm giả là chính xác.
Xong việc, Klein đặt riêng tiền giấy và tiền xu vào hai nơi, vừa cầm gậy chống, vừa đẩy mũ phớt rồi bước ra khỏi cửa tiệm Mũ và Áo Wilker như một đức ông. Anh phung phí một chút bằng cách leo lên chiếc xe ngựa công cộng không theo tuyến cố định gần đó. Qua một lần đổi xe, tiêu tốn tổng cộng 6 Penny, anh đã thuận lợi về đến nhà.
Sau khi đóng chặt cửa, anh đếm đi đếm lại 11 Kim Bảng và 12 Saule tới ba lần rồi mới cất chúng vào ngăn bàn học. Tiếp đó, anh cầm khẩu súng lục ổ xoay màu đồng có báng gỗ lên.
Đinh đinh đang đang!
Năm viên đạn đồng lần lượt rơi xuống bàn. Thế chỗ chúng là những viên đạn săn ma màu bạc được khắc hoa văn phức tạp và hắc ám thánh huy.
Lần này, Klein cũng đặt đúng năm viên và để trống một ô để phòng trường hợp bị cướp cò. Những viên đạn còn lại được cất trong một hộp sắt nhỏ cùng năm viên bình thường vừa được lấy ra.
Cách! Ổ xoay khép lại. Klein bỗng cảm thấy an toàn hơn hẳn.
Anh hào hứng nhét khẩu súng vào bao đeo dưới nách, cài móc lại rồi liên tục lặp đi lặp lại hành động tháo lắp và rút súng. Mỗi khi cánh tay đau nhức, anh sẽ nghỉ một lát rồi lại tiếp tục. Mãi cho đến khi trời nhá nhem tối và âm thanh của những người thuê trọ xuất hiện trên hành lang, anh mới dừng lại.
“Phù!” Klein thở ra một hơi, đặt súng về bao.
Đến lúc này, anh bắt đầu cởi bộ lễ phục và gile ra, đổi sang chiếc áo khoác màu nâu nhạt thường mặc và thực hiện các bài thả lỏng cơ bắp.
Cộp cộp cộp. Có tiếng bước chân đến gần. Tiếng chìa vặn khóa vang lên.
Melissa có mái tóc đen mềm mại bước vào, cái mũi xinh xắn hơi chun lại. Khi thấy bếp lò không được nhóm lửa, ánh sáng trong mắt cô bỗng trở nên mờ hơn một chút.
“Klein, em sẽ nấu hết những nguyên liệu thức ăn còn thừa từ tối qua nhé. Có lẽ ngày mai Benson mới về.” Melissa quay đầu nhìn anh trai.
Klein đút tay túi quần, tựa người vào thành bàn và mỉm cười bảo, “Không, chúng ta sẽ ra ngoài ăn.”
“Ăn ngoài?” Melissa ngạc nhiên hỏi.
“Đến nhà hàng Silver Crown ở phố Hoa Thủy Tiên nhé? Anh nghe bảo đồ ăn ở đó rất ngon.” Klein đề nghị.
“Nhưng… nhưng…” Melissa không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa.
Klein mỉm cười: “Để ăn mừng anh đã tìm được việc.”
“Anh tìm được việc rồi?” Melissa bất giác lớn giọng, “Nhưng… Nhưng buổi phỏng vấn ở Đại học Tingen là vào ngày mai mà?”
“Việc khác.” Klein nở nụ cười trước khi lấy ra xấp tiền từ ngăn kéo, “Họ còn tạm ứng trước cho anh lương bốn tuần.”
Melissa nhìn những tờ Kim Bảng và Saule với đôi mắt mở to: “Nữ thần ơi! Anh... bọn họ... anh tìm việc gì vậy?”
Chuyện này… Klein cứng người khi cân nhắc nói: “Đó là một công ty an ninh chuyên tìm kiếm, thu thập và bảo vệ cổ vật. Họ đang cần cố vấn chuyên nghiệp. Hợp đồng năm năm, mỗi tuần 3 Bảng.”
“Đó chính là chuyện khiến anh phiền nhiễu suốt tối qua?” Melissa lặng đi một lát mới hỏi.
Klein nhân đó gật đầu: “Ừ. Tuy làm giảng viên ở Đại học Tingen sẽ vẻ vang hơn. Nhưng anh càng thích công việc này hơn.”
“Thực ra thì nó cũng tốt.” Melissa nở nụ cười khích lệ. Cô nửa nghi ngờ nửa tò mò hỏi, “Làm sao mà họ chịu trả trước cho anh cả bốn tuần lương vậy?”
“Bởi vì chúng ta cần chuyển nhà, cần nhiều phòng hơn, cần phòng tắm riêng.” Klein khoanh tay, nhếch miệng nói.
Anh cảm thấy nụ cười của mình không chê vào đâu được, chỉ thiếu hỏi câu “Ngạc nhiên chưa?”
Melissa ngẩn ra trong giây lát. Với giọng hơi bối rối, cô dồn dập nói: “Klein, kỳ thực chỗ này cũng khá tốt mà. Em thỉnh thoảng lại phàn nàn chuyện không có phòng tắm riêng chỉ là do quen miệng thôi. Anh nhớ Jenny không? Hàng xóm trước đây của chúng ta ấy. Từ khi cha bạn ấy bị thương và mất việc, họ đành phải chuyển xuống Đường Dưới. Cả nhà năm người ở chung một phòng, ba người ngủ giường tầng, hai người ngủ dưới đất. Họ còn định cho người khác thuê chỗ ổ rơm không dùng…”
“So với bạn ấy thì chúng ta đã rất tốt, rất may mắn rồi. Đừng lãng phí tiền lương của anh vào việc này. Với cả, em cũng thích tiệm bánh của bà Sling.”
“Em à, phản ứng của em không giống với kịch bản anh dự đoán chút nào…” Klein thừ người nghĩ.
Trong căn phòng tắm trong ánh chiều tà, Klein nhìn Melissa, tạm thời không biết nên nói thế nào cho phải. Tất cả lời kịch anh chuẩn bị sẵn đều không dùng được.
Anh ho nhẹ hai tiếng và vắt óc nói: “Melissa, nó không hề lãng phí tiền lương. Về sau đồng nghiệp của anh hay của Benson tới chơi, chẳng lẽ chúng ta sẽ tiếp đãi họ ở nơi như thế này? Sau này anh và Benson kết hôn, cưới vợ, nhẽ nào vẫn cứ ngủ giường tầng sao?”
“Hai người đã có vị hôn thê nào đâu? Có thể chờ thêm một thời gian nữa, tích cóp thêm chút tiền mà.” Melissa nói một cách hợp lý.
“Không được, Melissa. Đây là quy tắc xã hội.” Klein đau đầu, đành phải dùng đạo lý lớn để giảng giải, “Đã lấy lương 3 Bảng một tuần thì phải có thân phận xứng đôi với số lương ấy.”
Thành thật mà nói, người từng ở ghép chung với người khác như anh không lạ gì điều kiện ăn ở hiện tại, hoàn toàn thích ứng là đằng khác. Nhưng chính vì đã trải qua nó nên anh càng thấu hiểu hoàn cảnh này bất tiện với con gái ra sao. Chưa kể, mục tiêu của anh là trở thành một Kẻ Phi Thường, nghiên cứu Thần bí học để tìm đường về. Trong tương lai, anh chắc chắn sẽ phải thực hành không ít nghi lễ ma thuật ở nhà. Mà chung cư lắm người nhiều miệng thì rất dễ xảy ra vấn đề.
Thấy Melissa định tiếp tục tranh luận, Klein vội nói thêm, “Yên tâm, anh không định thuê nhà đơn lập, chỉ tính xem nhà liền kề mà thôi. Tóm lại là phải có phòng tắm riêng. Còn nữa, anh rất thích bánh mì, bánh quy Tingen và bánh bông lan chanh của bà Sling. Chúng ta có thể cân nhắc mấy chỗ gần phố Chữ Thập Sắt và phố Hoa Thủy Tiên trước.”
Melissa mím môi, im lặng một lát rồi chậm rãi gật đầu.
“Vả lại, anh đâu định chuyển ngay. Phải chờ Benson về đã,” Klein cười khúc khích, “Bằng không, anh ấy quay về thì sẽ kinh hãi thốt lên “Đồ đạc nhà tôi đâu? Em trai và em gái của tôi đâu? Nhà tôi đâu? Đây có phải nhà tôi không vậy? Tôi nhầm chỗ sao? Nữ thần ơi, mau nói cho tôi biết rằng đây có phải một giấc mộng không? Tại sao tôi mới đi có vài ngày mà đã không còn nhà nữa vậy!” mất.”
Thấy Klein bắt chước giọng điệu của Benson, Melissa bất giác cong mắt, lộ ra má lúm đồng tiền.
“Không, ông Franky chắc chắn sẽ chờ ở cổng để bắt Benson giao chìa khóa ra. Anh ấy hoàn toàn không được lên lầu ấy chứ.” Cô gái cất lời chê bai người chủ nhà keo kiệt tham lam.
Nhà Moretti thường lấy ông chủ nhà Franky ra làm nhân vật chính cho mọi trò cười trong mọi trường hợp. Tất cả là do anh trai Benson đã khởi xướng thói quen này.
“Đúng thế, ông ta còn lâu mới chịu đổi khóa cho khách thuê sau,” Klein mỉm cười phụ họa. Anh chỉ tay ra ngoài cửa và nói, “Thưa quý cô Melissa, cô sẽ đến nhà hàng Silver Crown để ăn mừng cùng tôi chứ?”
Melissa khẽ thở dài: “Klein, anh biết Selena không? Bạn học, cũng là bạn tốt của em ấy.”
Selena?
Một cô gái có mái tóc dài màu rượu đỏ và mắt màu nâu sẫm lập tức hiện ra trong đầu Klein. Cha mẹ cô bé đều là tín đồ Nữ thần Đêm Đen. Tên cô được đặt theo Thánh Selena như một sự chúc phúc. Cô bé còn chưa tròn mười sáu, nhỏ hơn Melissa nửa tuổi, là một người vui vẻ, sáng sủa và cởi mở.
“Anh nhớ.” Klein gật đầu tỏ vẻ nhớ Selena Wood.
“Anh trai Chris của bạn ấy là một luật sư, hiện có mức lương hàng tuần gần 3 Bảng. Hôn thê của anh ấy có làm việc bán thời gian như đánh máy.” Melissa trước tiên mô tả tình huống rồi nói tiếp, “Họ đã đính hôn được hơn bốn năm. Nhưng để ổn định cuộc sống sau khi kết hôn mà cho đến nay họ vẫn còn đang trong giai đoạn tiết kiệm tiền. Ấy vậy mà họ vẫn chưa vào nhà thờ ngay mà còn định chờ thêm một năm nữa. Selena nói có rất nhiều người giống anh trai bạn ấy, bình thường phải sau 28 tuổi mới kết hôn. Anh nên chuẩn bị tiết kiệm trước đi, đừng phung phí.”
Klein dở khóc dở cười bảo: “Melissa, lương hiện tại của anh là 3 Bảng một tuần. Sau này còn được tăng lương hàng năm. Em không cần lo thế đâu.”
“Nhưng chúng ta phải chuẩn bị sẵn tiền phòng trường hợp ngoài ý muốn chứ. Nhỡ công ty an ninh đó đột nhiên đóng cửa thì sao? Em có một người bạn, bởi chỗ cha bạn ấy làm việc đột nhiên bị phá sản, khiến tình hình trong nhà lập tức trở nên gay go, nên mới phải nghỉ học ra bến tàu tìm việc tạm thời.” Melissa nghiêm túc khuyên lơn anh trai mình.
Klein đưa tay che mặt: “Nhà kia… Công ty an ninh kia và chính phủ, ừm, có chút liên quan. Nó không dễ dàng đóng cửa thế đâu.”
“Nhưng chính phủ đâu có ổn định. Sau mỗi lần bầu cử, nếu đảng nắm quyền thay đổi thì hầu hết chức vụ sẽ bị thay người, trở thành một mớ lộn xộn đó thôi.” Melissa tiếp tục phản bác.
Em hiểu nhiều thật đấy…
Klein vừa bực mình vừa buồn cười lắc đầu: “Tốt thôi.”
“Vậy anh sẽ hầm canh bằng nguyên liệu thừa từ hôm qua. Em xuống phố mua một lát cá chiên, một miếng thịt bò sốt tiêu đen, một chai bơ nhỏ và một cốc bia gừng cho anh nhé. Dù sao vẫn phải ăn mừng một chút.”
Đây đều là những món ăn thường được các tiểu thương ở phố Chữ Thập Sắt chào bán. Một lát cá chiên có giá từ 6 đến 8 Penny, một miếng bò sốt tiêu đen cỡ vừa khoảng 5 Penny, một cốc bia gừng 1 Penny, một chai bơ nhỏ nặng khoảng ¼ pound tầm 4 Penny, nếu mua cả cân thì chỉ mất 1 Saule 3 Penny.
Mỗi lần đến ngày nghỉ, nguyên chủ sẽ phụ trách việc mua sắm đồ ăn thức uống cho gia đình nên không lạ gì giá cả. Trong vài giây, Klein đã tính nhẩm ra số tiền phải chi khoảng 1 Saule 6 Penny, bèn rút ra hai tờ 1 Saule.
“Vâng.” Melissa không phản đối đề xuất này. Cô đặt túi xách đựng đồ dùng học tập xuống và nhận lấy tiền mặt.
Khi nhìn em gái cầm chai đựng bơ nhỏ và giỏ đựng thức ăn, bước chân nhẹ nhàng đi đến cửa, Klein nghĩ một chút rồi gọi với theo: “Melissa, dùng tiền thừa mua ít hoa quả nhé.”
Có không ít người bán hàng rong trên phố Chữ Thập Sắt hay mua những hoa quả kém chất lượng hoặc để quá lâu từ nơi khác mang về đây bán. Song do giá của chúng cực kỳ rẻ nên những cư dân ở đây không hề tức giận. Chỉ cần mua về, cắt bỏ chỗ thối là họ có thể thưởng thức những hương vị tuyệt vời rồi. Vì lẽ đó mà nó thường được coi là một thú vui rẻ tiền.
Nói xong, Klein sải bước tới, móc mấy đồng Penny còn lại trong túi quần ra rồi dúi chúng vào lòng bàn tay em gái.
“A?” Melissa nhìn anh trai bằng đôi mắt nâu tràn đầy sự nghi hoặc và mờ mịt.
Klein lùi lại vài bước, mỉm cười bảo: “Nhớ đến chỗ bà Sling, tự thưởng cho mình một miếng bánh bông lan chanh nhé.”
Melissa có vẻ ngập ngừng như muốn nói, lông mi cô chớp chớp vài lần, mãi mới thốt ra một từ đơn: “Vâng.”
Cô nhanh chóng quay người, mở cửa và chạy bình bịch về phía cầu thang.
.
Trước mắt anh là dòng sông vắt qua khuôn viên trường với những hàng cây bách và cây phong trải dọc hai bên bờ, cùng bầu không khí trong lành đến mức khiến người đắm say.
Klein đã đến nơi này để giải quyết buổi phỏng vấn. Anh giấu khẩu súng lục ổ xoay trong người, cầm gậy chống bước xuống chiếc xe ngựa công cộng có chi phí 6 Penny. Dọc theo con đường lát xi măng, anh đi đến tòa nhà ba tầng bằng đá thấp thoáng giữa tán cây xanh mát. Đó chính là khu hành chính của đại học Tingen.
“Không hổ là một trong hai trường Đại học nổi tiếng nhất vương quốc Loen…”
Klein “lần đầu” tới đây vừa đi vừa cảm thán. So với trường này, đại học Hoy ở bên kia sông trông kém hơn rất nhiều.
“Hây dô!”
“Hây dô!”
Những tiếng hô truyền đến khi hai chiếc thuyền đua vọt tới từ thượng lưu sông Hoy. Những mái chèo gỗ quấy nước một cách trật tự và nhịp nhàng.
Hoạt động đua thuyền này rất phổ biến trong tất cả các trường đại học ở vương quốc Loen. Ngay cả người phải dựa vào học bổng mới học hết đại học như Klein cũng tham gia câu lạc bộ đua thuyền cùng đám Welch và trở thành một tay đua khá giỏi.
“Đúng là tuổi trẻ…” Klein hướng tầm mắt ra xa rồi than thở một tiếng.
Sau một tuần nữa, cảnh tượng ấy sẽ biến mất, bởi trường sắp được nghỉ hè.
Anh bước trên con đường râm mát rợp bóng cây xanh, đến gần tòa nhà ba tầng đá xám. Sau khi báo tên, anh thuận lợi đi vào trong, quen chân tìm đến văn phòng đã tiếp mình bữa trước.
Cốc cốc cốc!
Nắm tay anh gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ.
“Mời vào.” Một giọng nam vang lên từ sau cửa.
Thấy Klein đẩy cửa vào, người giáo viên trung niên mặc sơ mi trắng, khoác vest đuôi tôm đen hơi nhíu mày: “Còn một tiếng nữa mới phỏng vấn.”
“Chào thầy Stone, thầy còn nhớ tôi chứ? Tôi là học trò của Phó giáo sư thâm niên Cohen, Klein Moretti. Thầy từng đọc thư đề cử của tôi rồi.” Klein mỉm cười, ngả mũ chào.
Harvin Stone vuốt bộ râu quai nón đen, nghi ngờ hỏi: “Có chuyện gì sao? Tôi không phụ trách việc phỏng vấn.”
“Là thế này, tôi đã tìm được một công việc khác, nên hôm nay sẽ không tham gia phỏng vấn nữa.” Klein thẳng thắn nói rõ ý định của mình.
“Ra vậy…” Harvin Sonte nghe thế bèn đứng dậy, chìa tay phải ra, “Chúc mừng cậu. Quả là một chàng trai lễ phép. Tôi sẽ báo điều đó cho ngài giáo sư và các phó giáo sư thâm niên.”
Klein bắt tay đối phương, định hàn huyên vài câu trước khi nói lời tạm biệt. Đột nhiên, anh nghe thấy một giọng nói quen thuộc vang lên từ sau lưng: “Moretti, em tìm được việc rồi?”
Klein quay đầu. Anh trông thấy một ông già có mái tóc bạc trắng, gương mặt sắc sảo không mấy nếp nhăn, hốc mắt trũng sâu, mắt xanh đậm, mặc bộ lễ phục đen phẳng phiu.
“Chào buổi sáng, thầy hướng dẫn, thầy Azik.” Anh vội chào hỏi, “Sao hai thầy lại đến đây?”
Ông già này chính là quý ngài Quentin Cohen, phó giáo sư thâm niên của khoa Lịch sử đại học Hoy, kiêm thầy hướng dẫn cho anh. Bên cạnh Cohen là một người đàn ông trung niên có nước da màu đồng, dáng người vừa phải, đang cầm một tờ báo. Ông ta không để râu, đội mũ chóp cao, tóc đen mắt nâu, nét mặt mềm mại, đôi mắt toát lên vẻ tang thương khó tả thành lời, bên dưới tai phải có một nốt ruồi đen phải nhìn kỹ mới có thể thấy được.
Đây cũng là người quen của Klein, thầy Azik, giảng viên khoa Lịch sử đại học Hoyle. Một người thường xuyên nâng đỡ Klein cũ. Sở thích của ông là tranh luận cùng phó giáo sư thâm niên Cohen, do cả hai thường có quan điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra thì mối quan hệ cá nhân giữa hai người rất tốt. Bằng không họ sẽ không thích gặp gỡ, tán gẫu với nhau nhiều đến thế.
Cohen gật đầu, ung dung bảo: “Thầy và Azik đến đây để tham gia một hội nghị học thuật. Em đã nhận được việc gì vậy?”
“Nhân viên cố vấn chuyên nghiệp ở một công ty an ninh cung cấp dịch vụ tìm kiếm, thu thập và bảo vệ cổ vật ạ. Lương mỗi tuần là 3 Bảng.” Klein lặp lại những gì mình đã nói với em gái hôm qua rồi giải thích tiếp, “Thầy biết mà, em thích khám phá lịch sử hơn là tổng kết lịch sử.”
Cohen gật nhẹ: “Mỗi người đều có lựa chọn riêng. Em còn nhớ đến đại học Tingen để thông báo cho họ một tiếng thay vì bỏ luôn là thầy thấy vui rồi.”
Lúc này, Azik xen vào, “Klein, em có biết chuyện gì đã xảy ra với Welch và Naya không? Trên báo nói các trò ấy đã bị trộm cướp đột nhập vào nhà sát hại.”
Vụ án chuyển thành một vụ đột nhập cướp bóc rồi sao? Còn lên báo nhanh như vậy?
Klein sửng sốt trong giây lát rồi châm chước trả lời: “Cụ thể như thế nào thì em không rõ lắm. Lúc trước, Welch có nhận được một cuốn sổ tay thuộc về gia tộc Antigonus của đế quốc Solomon ở Kỷ thứ Tư và nhờ em giải mã cùng. Em chỉ qua được mấy ngày đầu. Sau bận tìm việc nên không đi nữa. Hai ngày trước cảnh sát mới tìm đến em.”
Anh cố ý tiết lộ thông tin về đế quốc Solomon và gia tộc Antigonus, để xem hai giáo viên khoa Lịch sử có biết gì không.
“Kỷ thứ Tư…” Cohen nhíu mày lẩm bẩm.
Azik có làn da màu đồng và đôi mắt tang thương ngây người. Ông hít vào một hơi, dùng tay trái cầm báo day huyệt thái dương và bảo: “Antigonus… Cảm giác rất quen… Nhưng tôi nghĩ mãi mà không ra là nghe được từ chỗ nào…”
Trong lúc lầu bầu, Azik vô thức nhìn sang Quentin Cohen, như thể muốn tìm kiếm gợi ý để lấy được linh cảm.
Cohen có đôi mắt xanh đậm và hốc mắt trũng sâu lắc đầu không chút do dự: “Tôi không có ấn tượng nào về nó.”
“... Chà, có lẽ chỉ là gốc từ giống nhau.” Azik hạ tay trái xuống và cười giễu một tiếng.
Dù khá thất vọng với kết quả, Klein vẫn gắng bồi thêm một câu: “Thầy hướng dẫn, thầy Azik. Hai thầy biết đó, em rất có hứng thú với việc khám phá và khôi phục lịch sử của Kỷ thứ Tư. Nếu các thầy có nhớ ra điều gì, hoặc tìm được tư liệu liên quan thì có thể viết thư cho em được không ạ?”
“Không thành vấn đề.” Vì chuyện hôm nay, phó giáo sư thâm niên Cohen có mái tóc bạc trắng khá hài lòng về Klein.
Azik cũng gật đầu bảo, “Địa chỉ của em vẫn như cũ chứ?”
“Hiện giờ thôi ạ, em sắp chuyển nhà rồi. Đến lúc đó, em sẽ viết thư báo các thầy.” Klein cung kính đáp.
Cohen lắc cây gậy đen của mình và nói: “Đúng là cũng đến lúc phải chuyển sang hoàn cảnh tốt hơn.”
Lúc này, Klein đưa mắt sang tờ báo trên tay Azik và đắn đo nói: “Thưa hai thầy, báo chí nói thế nào về chuyện Welch và Naya vậy ạ? Trước đó, em chỉ biết đôi chút từ mấy người cảnh sát phụ trách điều tra.”
Azik đang định đáp lời, phó giáo sư thâm niên Cohen đột nhiên kéo dây chuyền vàng trên áo vest đuôi tôm, lôi ra một chiếc đồng hồ bỏ túi.
Lạch cạch!
Ông ấy mở nắp xem giờ và chống cây gậy lên phía trước: “Hội nghị sắp bắt đầu. Azik, chúng ta không thể trì hoãn thêm được nữa. Anh hãy đưa tờ báo cho Moretti đi.”
“Tốt thôi,” Azik đưa tờ báo đã đọc cho Klein, “Các thầy phải lên lầu đây. Nhớ viết thư đấy. Địa chỉ của thầy và Cohen không thay đổi, vẫn là văn phòng khoa Lịch sử đại học Hoy. Haha.”
Ông cất tiếng cười khi quay người, rời phòng cùng Cohen.
Klein cởi mũ chào. Chờ bóng hai quý ông khuất hẳn, anh mới tạm biệt Harvin, chủ nhân văn phòng này. Sau đó, anh xuôi theo hành lang, chậm rãi rời khỏi tòa nhà ba tầng màu xám.
Dưới ánh nắng mặt trời, anh nhấc gậy, giở tờ báo có tiêu đề
« Báo Tin Tức Buổi Sáng Tingen ».
Tingen đúng là có đủ loại báo chí và tạp chí! Từ « Báo Sáng », « Báo Chiều », « Báo Người Trung Thực », « Nhật Báo Backlund », « Báo Tasok », « Tạp chí Gia Đình » đến « Bình luận Chuyện Xưa »…
Klein chỉ cần hồi tưởng một cái. Bảy, tám cái tên đã hiện lên trong đầu anh. Đương nhiên, một phần trong số đó không phải báo địa phương.
Khi công nghệ làm giấy và in ấn được công nghiệp hóa và phát triển tiên tiến, giá một tờ báo đã giảm xuống còn 1 Penny, giúp đông đảo người dân có thể tiếp cận nó hơn.
Klein không đọc kỹ những nội dung khác, mà lật nhanh sang bài “Đột nhập trộm cắp, ra tay giết người” trong mục “Tin thời sự”.
“... Theo những gì sở cảnh sát cung cấp, hiện trường tại nhà ông Welch thực là một cảnh tượng khủng khiếp. Tiền vàng, trang sức hay bất cứ thứ gì có giá trị đều đã không cánh mà bay. Thậm chí một xu cũng chẳng còn. Cảnh sát có lý do để xác nhận rằng đây là hành động của một băng cướp tàn bạo. Chúng sẵn sàng xuống tay với những người vô tội như ông Welch và bà Naya, một khi bị bắt gặp.
Đây rõ ràng là hành vi khinh nhờn luật pháp vương quốc! Là lời thách thức đến an ninh cộng đồng! Không một ai mong muốn chuyện tương tự xảy đến với mình cả. May mắn thay, sở cảnh sát đã tìm ra kẻ sát nhân và bắt được thủ phạm chính. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục cập nhật tin tức trong thời gian sớm nhất.”
Người đưa tin: John Browning."
Bài đưa tin về vụ việc đã xử lý và che đậy… Klein cất bước trên con đường rợp bóng và hơi gật đầu.
Anh tiện tay lật trang, vừa đi vừa đọc tin tức cùng các câu chuyện dài kỳ khác.
Đột nhiên, anh cảm thấy tóc gáy mình dựng đứng, tựa như bị vô số cái kim nhỏ bé chọc vào.
“Có người đang nhìn chòng chọc mình? Quan sát mình? Theo dõi mình?”
Khi những ý nghĩ này nảy sinh, Klein mơ hồ hiểu ra một điều gì đó.
Khi còn ở thế giới cũ, anh cũng từng cảm nhận được một ánh mắt chăm chú vô hình, mãi mới phát hiện ra nguồn gốc của nó đến từ đâu, song chưa bao giờ, anh có phản ứng rõ ràng và kết luận chính xác như bây giờ!
Mảnh ký ức của nguyên chủ cũng có những chuyện tương tự!
Nhờ xuyên không hay do nghi lễ đổi vận kỳ quái kia đã giúp nâng cao giác quan thứ sáu của anh?
Klein cố gắng kiềm chế thôi thúc tìm kiếm kiếm kẻ quan sát. Anh học theo những gì mình đã thấy trong tiểu thuyết và phim ảnh, chậm rãi giảm tốc độ, gấp tờ báo lại rồi phóng mắt về phía sông Hoy.
Sau đó, anh làm bộ ngắm cảnh, từ từ quay đầu một cách tự nhiên và cố gắng thu hết tình hình xung quanh vào đáy mắt.
Ngoại trừ cây cối, đồng cỏ và đám học sinh đang đi bộ ở đằng xa, nơi đây không có bất kỳ ai khác.
Tuy vậy, Klein vẫn chắc chắn rằng có người đang dõi theo mình!
Nhịp tim của Klein tăng nhanh, máu chảy nhanh theo tiếng thình thịch dữ dội ấy.
Anh mở tờ báo đủ to để che nửa gương mặt, sợ có người sẽ phát hiện ra nét mặt mình không ổn.
Đồng thời, anh nắm chặt cây gậy chống và sẵn sàng rút súng.
Một bước, hai bước, ba bước, Klein thong thả tiến về phía trước, như ban nãy.
Cảm giác bị theo dõi, bị dòm ngó vẫn tồn tại, nhưng chưa có nguy hiểm nào bất thình lình xuất hiện.
Với dáng vẻ hơi cứng nhắc, anh rời khỏi đường rừng, đến điểm chờ xe ngựa công cộng. May mắn thay, đúng lúc này có một cỗ xe đang đến gần.
“Chữ… Zoute… Không, phố Champagne.”
Klein liên tục gạt bỏ suy nghĩ trong đầu.
Ban đầu, anh định về thẳng nhà, nhưng lại sợ sẽ dẫn kẻ xấu đang rình rập với mục đích không xác định đến chung cư. Kế đó, anh nghĩ đến việc tìm kiếm sự giúp đỡ của Kẻ Gác Đêm hoặc đồng nghiệp ở phố Zouteland. Có điều, anh lo rằng đối phương đang định rút dây động rừng, khiến mình chủ động bại lộ. Vì vậy, anh đành chọn bừa một địa điểm khác.
“6 Penny.” Người thu phí trả lời một cách thuần thục.
Hôm nay Klein không mang theo Kim Bảng, anh đã cất chúng vào chỗ giấy tiền quen thuộc và chỉ cầm theo hai tờ 2 Saule. Ban nãy, anh đã trả một khoản tiền tương tự để tới đây, nên trên người còn đúng 1 Saule 6 Penny. Vậy là anh lấy hết tiền lẻ ra, đưa cho nhân viên thu phí.
Anh lên xe, tìm chỗ ngồi xuống. Khi cửa xe đóng lại, nỗi bất an do bị nhìn chằm chằm cuối cùng đã biến mất!
Anh chậm rãi thở một hơi, cảm thấy tay chân mình hơi run rẩy.
Nên làm gì bây giờ?
Phải làm gì tiếp theo đây?
Klein nhìn ra ngoài cửa sổ và cật lực suy xét biện pháp.
Khi chưa biết mục đích của kẻ rình rập là gì, thì cứ coi là có ác ý đã!
Hết suy nghĩ này đến suy nghĩ khác hiện lên, lại bị Klein gạt phắt. Vì chưa bao giờ trải qua điều gì như thế này, anh phải mất vài phút mới tìm được ý tưởng.
Mình nhất định phải thông báo cho Kẻ Gác Đêm, chỉ có họ mới thực sự giải quyết được rắc rối này!
Nhưng mình không thể trực tiếp đến đó, nó sẽ phơi bày vị trí của họ, đây có thể chính là mục đích của đối phương…
Theo dòng suy nghĩ này, Klein chế định từng phương án thô sơ và dần định hình được ý tưởng.
Phù! Sau khi thở dài một hơi, phần nào lấy lại sự bình tĩnh, anh đưa mắt dõi theo khung cảnh đang nhanh chóng tụt lại phía sau ở bên ngoài cửa sổ.
Mãi đến khi xe ngựa dừng lại ở phố Champagne, chuyện ngoài ý muốn xảy ra vẫn chưa xảy ra. Nhưng vào lúc đặt chân xuống đường, anh lập tức lại có cảm giác bất an một lần nữa!
Anh giả vờ như không phát hiện điều đó. Với tờ báo và gậy chống trong tay, anh lững thững đi bộ đến phố Zouteland.
Thay vì rẽ vào con phố kia, anh vòng qua phố Ánh Trăng Đỏ, nơi có một quảng trường màu trắng tuyệt đẹp cùng một nhà thờ lớn mái nhọn!
Đó chính là nhà thờ St. Selena!
Trụ sở chính của Giáo hội Nữ thần Đêm Đen ở Tingen!
Là một tín đồ, chuyện anh tới tham dự lễ Mi-sa và cầu nguyện vào ngày nghỉ là rất bình thường.
Chính tòa có phong cách tương tự như phong cách Gothic ở thế giới cũ, toàn bộ được sơn đen. Ở đằng trước là một tháp chuông chọc trời, loang lổ dấu vết thời gian, gắn liền với bức tường khổng lồ, nơi có những ô vuông cửa sổ đỏ và lam.
Klein bước vào nhà thờ, dọc theo hành lang dẫn đến sảnh cầu nguyện. Từng mảnh nắng rọi lên những ô cửa sổ hẹp khảm hoa văn xanh và đỏ ở hai bên, làm chúng nhiễm lên những sắc màu khác, khiến màu lam gần như đen, đỏ như trăng, biến xung quanh trở nên u ám dị thường.
Cảm giác bị theo dõi lại biến mất. Klein vẫn ung dung như thường lệ, chậm rãi tiến đến sảnh cầu nguyện rộng mở.
Ở đây không có cửa sổ cao, bóng tối sâu thẳm trở thành nhân vật chính. Nhưng ở phía sau đài thánh hình vòm, trên bức tường đối diện cửa ra vào, có hàng chục lỗ tròn to bằng nắm tay thông với bên ngoài để đón lấy ánh sáng mặt trời rực rỡ và tinh khiết.
Cảm giác giống như một người đi đường trong đêm tối, bất chợt ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đầy sao, trông thấy ánh sáng, thật cao cả, thật trong sáng, thật thiêng liêng.
Dẫu luôn tin rằng thần thánh có thể bị phân tích và lý giải, Klein vẫn không khỏi cúi đầu.
Giữa âm thanh giảng đạo nhẹ nhàng và trầm thấp của người linh mục chủ tế, Klein lặng lẽ đi trên con đường ngăn cách hai hàng ghế, tìm một chỗ trống sát lối đi và chậm rãi ngồi xuống.
Gác cây gậy chống vào phần lưng ghế trước, Klein cởi mũ, đặt cùng tờ báo trên đùi, đan hai tay với nhau, để nó chống phần trán cúi xuống.
Toàn bộ quá trình được thực hiện theo một cách thong thả và có trật tự, giống như anh thực sự đến đây để cầu nguyện.
Klein nhắm mắt, lặng lẽ lắng nghe giọng nói của người linh mục chủ tế trong bóng tối.
“Bọn họ mình trần không áo mặc, trời lạnh giá mà chẳng có gì che thân.”
“Mưa bão làm họ ướt đẫm, họ phải bám vào đá, vì không chỗ trú thân.”
“Họ là những đứa trẻ bị cướp mất bầu sữa mẹ, là những trẻ mồ côi đã đánh mất hy vọng, là những kẻ nghèo khổ bị buộc rời khỏi đường ngay.”
“Đêm Đen không hề từ bỏ họ, mà vẫn quan tâm tới họ.” (1)
…
Tiếng vọng trùng trùng điệp điệp vươn tới tai Klein. Với tầm mắt tối om, anh có thể cảm thấy tâm linh của mình đang được gột rửa.
Anh yên lặng trải nghiệm điều đó, mãi đến khi người linh mục chủ tế hoàn thành bài giảng, kết thúc lễ Mi-sa.
Khi linh mục chủ tế mở cửa tòa giải tội bên cạnh, các quý ông và quý bà lần lượt rời đi.
Klein bước vào tòa giải tội, đưa tay đóng cánh cửa sau lưng, khiến tầm mắt tối sầm một lần nữa.
“Con ta, con muốn nói điều gì?” Tiếng cha ngồi tòa vang lên từ phía sau tấm chắn bằng gỗ.
Klein lấy trong túi ra huy hiệu của Đơn vị thứ bảy, Bộ phận Hành động Đặc biệt rồi đẩy nó qua khe hở.
“Con muốn tìm Dunn Smith. Có người đang theo dõi con.”
Tựa như bị ảnh hưởng bởi bóng tối, giọng anh cũng trở nên nhẹ nhàng.
Cha ngồi tòa nhận lấy huy hiệu và cất lời sau vài giây im lặng: “Con hãy dọc theo bên phải tòa giải tội, đi đến cuối đường sẽ thấy một cánh cửa bí mật ở bên cạnh. Bên trong sẽ có người dẫn đường.”
Trong lúc nói chuyện, ông đưa tay kéo một sợi dây thừng trong tòa giải tội để cho một vị mục sư nào đó có thể nghe thấy tiếng chuông.
Klein lấy lại huy hiệu, cởi mũ, áp vào ngực, hơi cúi đầu trước khi xoay người đẩy cửa bước ra ngoài.
Sau khi xác nhận rằng cảm giác bị theo dõi không còn xuất hiện nữa, Klein mới đội mũ chóp đen lên đầu. Gương mặt anh không chút biểu cảm khi chống gậy, quẹo sang bên phải, đi đến đài thánh hình vòm.
Khi tìm thấy cánh cửa bí mật ở bức tường bên cạnh, anh lặng lẽ mở cửa và bước vào.
Cánh cửa bí mật lẳng lặng khép lại. Trong ánh sáng của chiếc đèn khí, một người đàn ông luống tuổi mặc áo chùng thâm xuất hiện trước mắt Klein.
“Chuyện gì?” Linh mục trung niên hỏi ngắn gọn.
Klein đưa huy hiệu và lặp lại những gì mình đã nói với cha ngồi tòa.
Người linh mục trung niên không hỏi gì nữa. Ông xoay người, lặng im tiến về phía trước.
Klein gật đầu, vuốt mũ dạ, cầm gậy, im lặng theo sau.
Rozanne từng nói rằng, phía bên trái của ngã tư đến Cổng Chianese là nhà thờ St.Selena.
#Chú Thích:
1) Cải Biên từ Cựu ước - Sách của Gióp - Chương 24.