Nguyên Tiêu...
Sáng Nguyên Tiêu cả cung cứ nháo nhào, Ngự Thiện phòng cũng tất bật làm bánh trái, hoàng hậu cho làm rất nhiều bánh đậu xanh để nửa đêm đem ban cho tất cả cung nữ thái giám.
Cũng may mà Vương Uyển cũng biết làm bánh đậu xanh nên cũng xoắn tay áo làm chung với Ngự Thiện phòng.
Vì lí do đó Tống Ngạn đi tìm nàng mà không thấy.
Cả ngày loay hoay nhiều việc nên nàng quên cả ăn uống, đến tận tối, khi sứ đoàn từ Hung Nô tới thì cũng vừa lúc kinh thành mở cổng cho người dân vào tham gia Nguyên Tiêu.
Trong cung là lễ đón tiếp sứ đoàn Hung Nô náo nhiệt, sau sự cung phụng của hai bên, bắt đầu tổ chức ăn uống.
Các món ăn được bày lên đều đặn, Vương Uyển ở bên trong chuẩn bị cho phần mình phụ trách, mấy tiết mục trước đều đã rất thành công, tuy nhiên đến cuối cùng lại không tìm thấy Diệu Đan đâu cả, mà trong cả mấy mươi người chẳng ai biết điệu múa kia cả.
Vương Uyển mấy lần trò chuyện với Diệu Đan mới học được một phần trong bài múa, có ý định nhưng sợ bản thân lại làm hỏng việc nên im lặng.
Ngọc Thưởng Thượng quan cứ đi qua đi lại lo lắng, hoàng hậu biết tin cũng cấp tốc mà đi tới, gấp gáp hỏi:
“Có người thay thế chưa?”
Ngọc Thưởng lắc đầu.
Hoàng hậu quay sang phía Vương Uyển, nói nhỏ:
“Muội hằng ngày vẫn cùng Diệu Đan trao đổi qua lại về đoạn múa này, hôm nay Mỹ Mỹ biến mất, muội thay thế lên múa, có được không?”
Nàng vừa lo vừa sợ, đừng nói là múa, đứng trước nhiều đàn ông như vậy, thật bất tiện.
Nhưng hoàng hậu đã đích thân lên tiếng, nàng không nên nhất nhất cãi lời.
Nàng đành phải tự mình đồng ý.
Thay xong y phục nàng mới nhận ra y phục này có chút không tiện vì cổ áo hơi rộng, vai áo hơi trễ ra, thật là rất khó chịu. Vừa định đề nghị với hoàng hậu thay bộ khác thì Ngọc Thưởng đã vội buộc khăn che mặt lên cho nàng rồi nói:
“Dù sao vẫn không nên để hoàng thượng nhận ra.”
Nàng bước ra tới nơi, ai cũng dán mắt vào nàng, đặc biệt là hắn.
May thay tấm khăn vuông vức kia vừa che đi gương mặt nhỏ nhắn của nàng nên hắn không thể nhận ra.
Còn một người khác vẫn nhìn nàng chăm chăm, khi nhìn vào mắt hắn khiến nàng có cảm giác thân quen.
Điệu múa mà Chi Mỹ định múa tên là Xuân Trác Hiên, có đời vua Thuần Vũ, chính là điệu múa của Xuân quý nhân múa chờ hoàng thượng dưới Trác Hiên. Điệu múa này rất dài nhưng lưu truyền trong nhân gian chỉ là một đoạn ngắn.
Đoạn múa rất uyển chuyển lại chất chứa bi thương, tiếng nhạc lại càng não nề.
Chỉ có di chuyển nhanh nhẹn của nàng trên tấm thảm kia mới là kiệt tác vì sau mỗi bước đi đều để lại một đóa điệp tử.
Thì ra những người khác không lên múa không phải là không biết múa, mà là kẻ không danh phận khi đứng trên tấm thảm này bàn chân sẽ có cảm giác như muôn vàn cây kim đâm vào, đau đớn tột cùng. Còn Chi Mỹ từ sớm đã là đệ nhất ca kỉ của kinh thành, thân phận cũng xem như là có chút tiếng tăm.
Đang chìm vào suy nghĩ của bản thân thì nàng mới nhớ ra. Dấu tích kia chắc chắn khiến Tống Ngạn nhận ra nàng.
Nàng thật sự là không ngờ tới điều này.
Hình như hắn đã nhận ra rồi, ánh mắt nhìn nàng có chút khó chịu. Nhưng sau đó lại đảo mắt, nhìn sang phía khác.
Nàng liền thở hắt ra.
Không ngờ, gió thổi qua, khăn bay mất, dung nhan ngay lập tức lộ ra.
Nàng vẫn cố giữ bình tĩnh cho tới khi tấm khăn rơi vào tay Tống Ngạn.
Hắn lại quét ánh mắt lạnh lẽo qua những tên háo sắc kia, khiến cho bọn họ mất đi một nửa mạng, sau đó mới cất giọng:
“Quý phi, lại đây!”
Trác Nhiên từ dưới chép miệng giễu cợt:
“Hóa ra là quý phi của hoàng đế Trung Nguyên, ta vẫn cho là có thể bế về làm tiểu thiếp.”
Nàng đi về phía hắn, hắn ngồi lơ đãng trên thảm, dáng ngồi ung dung bệ vệ, thoát tục vô cùng.
Nàng vừa đến gần đã bị hắn kéo vào lòng, bàn tay siết mạnh khiến nàng không khỏi đau đớn.
Chưa kịp hoàn hồn đã nghe hắn nói:
“Được thôi! Hậu cung ta không nói hậu cung ta đông đúc, nhưng lại toàn là mỹ nữ. Nhường một người cho ngươi cũng không hề gì. Có điều...” Nói rồi hắn quay sang phía nàng, bàn tay khẽ vuốt cằm Vương Uyển, đôi mắt thâm tình nói:
“Tiểu Quý phi của ta xưa nay rất khó nuông chiều, chỉ sợ đại tướng quân không lo nổi.”
“Ngươi...”
Trác Nhiên định đứng lên thì bị người bên cạnh giữ lại. Hắn vô cùng tức giận, quý phi gì chứ, thật ra nàng là ai hắn đều hiểu rõ, có điều vẫn nên giữ kín.
Tống Ngạn vẫn giữ yên nàng ngồi trong lòng, còn cố tình dùng áo của mình khoác lên người nàng che đi mấy phần lộ liễu.
Hắn cứ mãi trò trò chuyện chuyện, đêm xuống trời lại trở lạnh, nàng nhìn quanh vẫn không thấy có thứ gì ấm ngoài hắn, trà cũng đã nguội, bên cạnh còn có một ly gì đó rất giống sữa liền bưng lên uống hết. Uống vào rồi lại thấy càng ấm bụng bèn rót thêm ly nữa. Chừng ba bốn ly nàng bỗng thấy đầu choáng, nhìn một thấy hai.
Đúng lúc cung nữ bưng lên một đĩa hạt hạnh nhân, nàng thấy tò mò liền lấy một hạt đem lên miệng mà cắn. Khổ nỗi cắn thế nào nó vẫn không chịu tách vỏ.
Hắn đột nhiên chú ý thấy nàng đang loay hoay, mặt mũi nhăn nhăn nhó nhó liền tò mò hỏi:
“Tiểu Hoạ Tử, đang nghiên cứu cái gì vậy?”
Nàng liền ngước lên nhìn hắn, tay nắm hạt hạnh nhân,nhíu mày chu môi nói:
“Cái này...nó đóng cứng miệng, không cắn ra được!”
Hắn nhìn hạt hạnh nhân trên tay nàng mà bật cười, sau đó mới nói:
“Tất nhiên là cắn không vỡ rồi.”
Nói rồi thuận tay lấy một hạt, nhẹ nhàng bóc ra, đưa cho nàng.
Nàng lại cho là đây là thứ hạt quái gở, lém lỉnh nói:
“Cái hạt xấu xí này mà cũng biết phân biệt nam tử nữ tử. Cái hạt người vừa cắn chắc chắn là nữ, thấy người liền động lòng nên mới dễ dàng bóc vỏ như vậy.”
Sau đó giơ hạt trong tay mình lên, nói:
“Còn hạt này cũng là nữ, thấy ta là mỹ nữ nó liền ganh ghét, không cho ta bóc nó ra!”
Nàng vừa nói vừa gãi đầu, lại ngáp ngáp, má hây hây đỏ, có đôi chút giống...say.
Hắn xem lại bình rượu, đúng là cạn thật. Đây là rượu của Hung Nô mang tới, rượu rất nặng.
Nàng mà uống thật chắc chắn không biết nàng sẽ còn quậy phá đến mức nào.
Ai cũng tập trung cao độ vào việc của mình.
Hắn đang thở dài nhìn Vương Uyển đang nghiên cứu hoàng bào của hắn, xem chừng rất tỉ mỉ, quan sát đến gấu tay áo nữa kia mà.
Nàng bỗng dưng lại hít một hơi rồi thở ra, sau đó liền nhào tới ôm lấy thắt lưng hắn, nũng nịu hỏi:
“Sao lúc Tiểu Họa Tử bị bệnh người không đến thăm?”
Hắn giật mình.
Hóa ra nàng vẫn còn giận hắn việc này.
Nàng không nghe thấy câu trả lời của hắn, nháy mắt vài cái sau đó dựa vào lòng hắn ngủ thiếp đi.
Hắn vẫn ngỡ nàng còn thức nên vỗ nhè nhẹ lên lưng, sau đó mới đau lòng nói:
“Quên đi!”
Nhưng vừa nói xong thì biết nàng đã ngủ mất rồi.
Hắn gỡ hai tay nàng ra, bế lên.
Bế về đến Nhật Lệ cung thì Vĩ Nương chạy ra, thấy tình trạng của Vương Uyển liền chạy đi mang chậu nước ấm tới, lau người cho nàng.
Nhưng mà đến cuối cùng vẫn đỡ nàng đi tắm.
Hắn vừa quay định rời đi thì nàng đã la hét đòi giữ hắn lại, hắn đành đứng lại một chút xem lát nữa tỉnh rượu rồi sẽ nói gì.
Ít lâu sau nàng từ trong lao ra, vội nói:
“Xong rồi!”
Nhưng mà dường như vẫn chưa tỉnh rượu như đứa trẻ chạy khắp phòng.
Hắn quay sang phía Vĩ Nương:
“Ta ở lại đây!”
Thay xong y phục vừa trở về phòng đã thấy nàng ngủ trên bàn, nhất thời lắc đầu, cười nhẹ. Sau đó bế nàng lên.
Vừa đi được hai bước thì nàng đã mở mắt, cười nói:
“Ta đang bay đúng không?”
Hắn siết tay chặt hơn, không nói gì đi về phía giường, vừa đặt nàng xuống định đứng lên đã bị nàng kéo lại, nói:
“Hoàng thượng, người nói xem, Tiểu Họa Tử phải làm gì thì người mới không nghiêm khắc với ta nữa?”
Nói xong nàng lại ôm thắt lưng hắn mà rưng rức khóc.
Câu hỏi của nàng bỗng khiến cho hắn chột dạ.
Hắn đối với nàng có quá nghiêm khắc sao? Nhưng lát sau nàng đã ngủ mất, hắn để nàng xuống giường, đắp chăn lại, mau chóng tắt đèn, chìm vào giấc mộng.
Đến nửa đêm cả hai bị đánh thức.
Thì ra là đã đến giờ hoàng thượng phải xuất cung.
Hắn vội vã xuống giường.
Hắn đi một lúc đột nhiên nàng thức dậy.
Nàng mở cửa ra, khung cảnh đèn lồng lộng lẫy, ánh sáng chiếu xuống rực rỡ, ánh trăng sáng như ban ngày đẹp đẽ vô cùng.
Nàng và Tử Luân đi đến cuối phố dịu dàng ánh sáng, xung quanh người qua lại tấp nập, giai nhân qua lại mặt hoa da phấn, ai ai mặt mày đều hớn hở.
Tử Luân đảo mắt nhìn quanh, sau đó quay ra nói với nàng:
“Nương nương, tiểu nữ định...”
Nàng hiểu ý gật đầu nói:
“Muội đi đâu thì cứ đi, ta tự lo được mà!”
Tử Luân gật đầu, sau đó lại nói:
“Muội đi tìm cha muội.”
Nàng đi thêm vài bước nữa thì tới bờ sông Ngu Tình.
Lầu Ngưng Bích thật ra chỉ là một căn nhà nổi trên mặt nước, chỉ có một con đường gỗ để ra đến lầu. Tuy nhiên con đường này lại hỏng rất lâu mà không tu sửa, duy nhất muốn qua tới lầu chỉ có một cách là đi thuyền qua mà thôi.
Đứng chờ trên bờ hồi lâu mới có một ngư phủ chèo thuyền đi tới, nhìn nàng rồi hỏi:
“Tiểu thư đi đâu?”
Nàng lễ phép thưa:
“Nhờ ông chở cháu tới lầu kia!”
Ngư phủ gật đầu, sau đó giúp nàng lên thuyền.
Trăng tròn lên tới đỉnh, vùng trời bị một sắc bạc sáng, sao bắc đẩu cũng không thấy.
Nàng thoáng trông xuống mặt nước, sau đó ngắm vòm trời. Cảnh sắc như hòa điệu, trên có vầng trăng tao nhã, dưới có mặt sông sáng như gương, đúng là mỹ cảnh.
Gió hiu hiu thổi, mặt nước lăn tăn, tầm mắt xa không thấy bờ bên kia, xa xa ánh trăng được nước phản chiếu như vô vàn vì tinh tú.
Ánh trăng bạc đổ xuống mạn thuyền, phủ một lớp trắng ngà xuống người ngồi trên thuyền, mờ ảo và mê hoặc.
Ngư phủ vừa chèo thuyền vừa ngâm nga hát, tiếng hát như lời thì thầm của ánh trăng, hoa, cỏ:
“Tình ý nào đâu lỡ đêm hẹn.
Một mình đóa Tử Lăng yên thâm.
Nào ngờ đâu đêm rằm trăng sáng tỏa, soi bóng nước giọt lệ yên chi.
Cỏ nào xanh, hoa nào nở?
Bẽ bàng nhận ra điều tình ý.
Tình ý cô đơn tựa dáng hình.
Đèn lồng bay bổng muôn màu sáng.
Soi khắp nhân gian vạn cổ sầu.
Bọt sóng dội ngang.
Mặt trăng mỉm cười.
Trăng trong mắt soi khắp nhân gian
Chỉ chờ người, ta bên bến Ngu Tình.
Chờ đến khi...
Trăng tàn, hoa rơi, người lỡ hẹn.”
Lời hát vừa ai oán, vừa thê lương lại vừa giống như một lời tâm tình buồn bã.
Không khỏi tò mò, nàng hỏi:
“Ông ơi, bài hát từ đâu mà có, ca từ nghe rất hàm xúc?”
Lão ngư phủ đáp:
“Chắc là tiểu thư ở xa đến nên không biết thôi, ở chỗ chúng tôi có một điển tích rất hay. Năm xưa, có một tiên nữ hạ phàm đã phải lòng một tướng quân tài giỏi. Trước đây trên bờ sông có rất nhiều hoa Tử Lăng và Điệp Tử nên lúc nào bờ sông cũng thoảng hương thơm.
Trước trận chiến ở Tân Cương, tướng quân hứa lấy nàng tiên làm thê tử, hẹn gặp nhau bên sông vào ngày lập xuân.
Đúng hẹn, nàng tiên ra bến sông chờ tướng quân tương phùng. Chờ rất lâu, đến Nguyên Tiêu, nàng đột ngột nghe tin báo tướng quân đã tử trận, nàng quá bàng hoàng, ngã quỵ xuống thảm hoa điệp tử mà chết, thân xác tan biến thành muôn vàn cánh hoa điệp tử.
Chỉ là sau đó hoa điệp tử không mọc ở đây nữa.
Sông Ngu Tình chảy dài từ bắc xuống nam, thượng hà ở Mông Cổ, hạ hà ở Nam Kinh. Dòng nước cũng vì thế mà mặn ngọt() khác nhau.”
(): Ý nói dòng sông đi qua bao hỉ nộ ái ố, cho nên tùy tâm trạng lại nếm thấy nước sông có vị khác nhau.
Nàng gật đầu, thuận tay vịn vào mạn thuyền.
Hoa đăng nàng cũng có, đèn lồng nàng cũng có nhưng người cũ vật cũ đã biến mất từ lâu.
Nguyên Tiêu đèn giăng khắp lối, trên tháp Lưu Ly, cầu Lâu Mộng hay tiểu miếu Ưu Ưu đều dày người. Người lễ vái, người cầu an, người thả Đào Hoa đăng hình hoa đào lấp lánh.
Có nhóm người đứng trên bờ sông Ngu Tình thả hoa đăng, thả đèn lồng màu sắc.
Lão ngư phủ lại hỏi nàng:
“Tiểu thư ra đây có một mình thôi sao?”
Nàng gật đầu rồi nói:
“Lão thấy không, người mua người bán trên phố đông không thấy lối. Chẳng qua là ta muốn yên tĩnh một lát mà thôi.”
Ngư phủ gật đầu.
Đưa nàng ra tới lầu lão lại quay về, nói một lát quay lại đưa nàng về, còn đặc biệt tặng cho nàng một bình rượu Nhị Oa.
Nàng ngồi xuống mặt nền, có ai đó trồng một loại hoa leo trong một chậu cây sau đó đặt ở đây. Thời gian trôi qua, cây leo lớn dần, bò quanh bắt lên mái lầu, lăn lê bò trên mặt nền cứng nhắc quấn vào nhau như một tấm lưới.
Nàng mở nắp bình rượu, phóng tầm mắt về nơi náo nhiệt kia, người đứng trên cao, dưới có hai con voi kéo đi chầm chậm. Dân chúng quỳ rạp tung hô: “Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.
Nàng nhếch môi, hớp một ngụm rượu, rồi lại dõi theo bóng hắn.
Hôm nay nàng rất buồn, nàng múa, hắn chướng mắt, đến nhìn nàng hắn cũng không thèm.
Mùi vị rượu nóng rát rót vào cổ họng, càn quấy tâm can.
Từ ngày đặt chân vào cung, ngoài lần đến Binh Huyền phủ ra, được mấy lần nàng vui vẻ.
Không giống như ở nhà, lúc nào cũng vui vẻ.
Nàng đánh mất chính mình rồi, con người nàng vốn không nhút nhát như vậy, làm việc gì cũng lo nghĩ trước sau, sợ người kia lại sợ người khác.
Bên cạnh hắn còn có hoàng hậu và Hiền phi, đi cùng như vậy, xứng tầm như vậy, người có thân phận như nàng sao có thể với tới?
Nàng lại tu một ngụm rượu.
Lấy hoa đăng ra, thắp nến, thả xuống dòng nước.
Lại nói đến chiếc đèn lồng màu trắng kia nàng mua từ một tiểu cô nương gần tháp Lưu Ly, lúc viết lên đèn lại không biết nên viết gì, sau đó viết duy nhất một câu: “Ngu Tình Điệp Tử đóa.”
Bây giờ thắp đèn lên rồi, dòng chữ kia cũng hiện ra. Đèn lồng của nàng bay lơ lửng trên nền trời xanh đen, sáng nhưng càng lên cao thì càng nhỏ như một vì tinh tú.
Không biết uống bao nhiêu rượu, nàng thấy đầu choáng mắt hoa, rồi trước mắt xuất hiện một người, hắn ta rất quen, nhưng nàng không nhớ tên hắn ta, miệng không khỏi bật ra câu hỏi:
“Ngươi là ai?”
Hắn ta mỉm cười, nói:
“Mới đó đã quên, chẳng phải chúng ta đã gặp nhau lúc nãy sao? Ta và muội là bằng hữu rất lâu rồi mà, muội ta rồi sao?”
Nàng nhìn kĩ hắn, sau đó mới thốt lên:
“Người Hung Nô!”
Hắn lắc đầu, ngồi xuống bên cạnh nàng, giật lấy bình rượu trên tay nàng rồi uống một ngụm, phát tiết:
“Ta tim muội hai năm nay lại không thấy tung tích muội đâu, muội lại ở đây làm quý phi chuyên sủng!”
Nàng nhăn mày:
“Trả rượu lại cho ta! Mà ta nói cho ngươi biết, ta không quen biết gì ngươi cả.”
Hắn lại cười hả hê:
“Muội đùa ta đấy hả?”
Nàng lại nghiêm mặt:
“Không quen!”
Trác Nhiên như không tin vào tai mình, lắc lắc đầu:
“Không thể nào! Muội đang đùa, chúng ta mới xa nhau hai năm, muội thật sự không biết huynh?”
Nàng gật đầu:
“Thật sự ta không quen!”
Hắn nói tiếp:
“Chắc chắn là muội vô tình quên thôi! Vậy chúng ta làm quen lại, ta họ Trác, tên Nhiên, không phải là người Hung Nô.”
Hắn đặt bình rượu xuống.
Nàng đáp:
“Ta nhớ ra rồi, ngươi là tướng quân Hung Nô lúc đại tiệc tiếp đón diễn ra.”
“Còn muội là quý phi đó, người múa đoạn cuối cùng!”
Nàng lúc này đã ngà ngà say, lúc tỉnh lúc mơ, đôi khi còn nói chuyện mông lung.
Nhưng đến khi ngư phủ tới thì nàng phát hiện ra hắn không còn ở đây nữa.
Trên phố đã thưa thớt người, người bán thì ngồi lại bán hết số hoa đăng còn lại, hai bên đường giăng đèn lồng khắp lối nhưng không khí lại yên ắng hẳn đi.
Không biết Tử Luân đã về chưa, nhưng nàng vẫn cứ theo lối cũ mà đi vào cung.
Ngày hôm nay người trong cung ra vào rất đông, hiện giờ đã tới nửa đêm vậy mà còn rất nhiều người qua lại, lẻn vào trong vô cùng dễ dàng.
Đi một lát thì vừa tới Liên cung, ở trong văng vẳng tiếng đàn thê lương, nhất thời giữ nàng đứng lại.
Hậu cung này tám phần buồn tẻ, hai phần còn lại là lễ tiết câu nệ.
Chỉ là một chút yếu lòng, nàng tiếp tục đi về Nhật Lệ cung.
Mấy ngày tiếp theo không có việc gì cả, nàng chỉ yên vị chăm sóc tiểu hồ ly Đô Đô. Hắn tuy không có đến thăm nhưng thấy nàng yên vị thì rất vừa ý.
Hôm nay lại tới thăm nàng.
Nàng đang ngồi luyện chữ trong thư phòng, cứ luyện qua luyện mà chữ vẫn không đẹp được.
Hắn vừa vào tới cửa thì tiếng thông báo của thái giám đã vang lên:
“Hoàng thượng giá lâm.”
Nàng nghe xong giật mình đứng dậy, hắn vừa vào đã vội hành lễ.
Dường như tâm trạng hắn hôm nay vô cùng vui vẻ, thấy nàng viết viết trên bàn đã vội nắm tờ giấy lên mà đọc.
Qua lại mấy vòng hắn mới hỏi nàng:
“Đang luyện chữ sao?”
Nàng gật đầu, nói:
“ Luyện mãi vẫn không luyện được.”
Hắn cười, nói:
“Ta giúp nàng luyện chữ.”
Giúp luyện chữ của hắn chính là nắm tay nàng chỉ viết từng từ.
“Viết chữ "khẩu"!” - Hắn nói.
Giọng nói của hắn tuy có khàn nhưng không lạnh lẽo, bên tai nàng vẫn quẩn quanh giọng nói của hắn. Vừa ngước lên đã chạm phải gò má hắn, bất giác có chút ngượng ngùng liền cuối mặt xuống.
“Năm nay nàng bao nhiêu tuổi rồi?”
Nàng thoáng giật mình nhưng vẫn đáp:
“Mười bảy tuổi.”
Hắn gật đầu rồi không nói gì cả.
Nàng cũng rất muốn biết lí do vì sao hắn lại muốn biết tuổi của nàng.
Nhưng mà thấy hắn yên lặng nàng cũng không tiện hỏi thêm, đứng lên đi ra ngoài lấy nước.
Lúc trở đã thấy hắn ngồi trên ghế dài, tay chống lên thái, một tay lại để trên đầu gối. Nhìn hắn ngủ thân thế lại có chút đề phòng nhưng là hoàn toàn vô hại.
Nàng đặt ly nước xuống bàn, quỳ xuống trước mặt hắn, nhìn ngắm khuôn mặt hoàn mỹ kia.
Hoàng đế trên thế giới này ai cũng đều đẹp như hắn thì không uổng công hậu cung tranh đấu rồi.
Nhất là cái mũi...Vừa cao vừa thẳng, khiến cho khuôn mặt hắn càng thanh thoát.
Nhất thời khiến nàng mê mẩn.
Nàng ngước lên, hôn lên mũi hắn.
Bỗng dưng thời gian như dừng lại.
Nàng bỗng thấy lòng đau như cắt.
Nước mắt từ đâu rơi xuống, nàng lại có cảm giác chia ly đau đớn. Khi đó có ánh trăng, có một dòng sông.
Nàng hôn lên mũi hắn, nói: “Hãy nhớ, bảo trọng. Khi nào chàng trở về hãy lấy ta, được không?”
Nỗi đau đớn như dằn xé tâm can.
Nàng bỗng dưng khóc rất nhiều.
Hắn mở mắt, đỡ lấy eo nàng kéo nàng vào lòng, dỗ dành:
“Ta khiến nàng bất an rồi!”
Nàng thấy lòng mình vô cùng đau đớn, bi thương.
Hắn nắm chặt vai nàng, mắt nhìn nàng, hỏi:
“Sao nàng lại khóc?”
Nàng lại lắc đầu, ôm lấy thắt lưng hắn, vội hôn hắn.
Nàng vụng về, hắn bao dung.
Chỉ có ôm hắn như vậy nàng mới cảm thấy yên bình, mới cảm thấy có thể giữ được hắn.
Đến khi không thể thở nữa nàng mới buông hắn ra.
Hắn lấy khăn tay vội lau đi nước mắt trên má nàng, nói:
“Nàng đói rồi phải không?”
Nói rồi hắn cho người mang thức ăn lên.
Kéo nàng ngồi vào bàn, gắp thức ăn cho nàng.
Nàng ăn rất chậm.
Hắn lại chăm chú nhìn nàng khiến nàng thật bất tiện.
Sau không chịu được mà nói:
“Sao người không ăn đi?”
Hắn vội gắp một miếng đậu hũ cho vào chén rồi nói:
“Ăn đi!”
Bỗng dưng thấy hắn phiền vô cùng, nàng ăn không được mấy miếng đã vội đứng dậy.
Hắn thấy nàng đứng lên cũng đứng lên, ôm Đô Đô nói:
“Đô Đô mau nói với Tiểu Họa Tử bảo nàng ấy đi xem kịch với ta, đi mà, đi mà.”
Nàng nhìn dáng vẻ của hắn mà không khỏi bật cười, nói:
“Xem kịch thôi mà, đi thôi!”
Hắn vui vẻ kéo nàng đi xem kịch, phục dựng lại vở Đậu Nga Oan.