Jaina thức dậy lúc vẫn còn ngái ngủ và với một tay tìm Arthas. Anh không có ở đó. Cô nháy mắt và ngồi dậy. Anh đã dậy và mặc đồ xong xuôi rồi, giờ đang nấu một ít ngũ cốc nóng cho họ. Anh mỉm cười khi nhìn thấy cô, nhưng trong mắt anh lại không có được điều đó. Jaina cũng cố cười với anh và với tay lấy tấm áo choàng khoác lên người và chảy tóc bằng mấy ngón tay.
“Ta đã tìm hiểu được vài thứ,” Arthas nói không cần mào đầu. “Đêm qua ta không muốn nhắc tới. Nhưng em cần phải biết.” Giọng anh đều đều và Jaina cảm thấy mình có chút sợ hãi. Ít nhất anh không la lên như ngày hôm qua – nhưng có thứ gì đó còn tồi tệ hơn. Anh múc một tô ngũ cốc bốc khói và đưa tới cho cô. Cô tự động múc ăn khi anh tiếp tục nói.
“Bệnh dịch này – lũ xác sống-” Anh hít một hơi. “Chúng ta đã biết rằng lúa mì bị nhiễm bệnh. Chúng ta đã biết rằng chúng giết chết người ta. Nhưng còn tệ hơn cả thế nữa Jaina à. Nó không chỉ giết chết họ.”
Có gì đó khiến anh khó lòng nói ra được. Jaina ngồi đó một lúc và dần hiểu ra. Cô nghĩ cô sắp nôn hết chỗ ngũ cốc cô vừa ăn ra mất. Hơi thở cô trở nên khò khè khó khăn.
“Nó… biến đổi họ, bằng một cách nào đó. Nó biến họ thành xác sống… phải không nhỉ? Xin hãy bảo em rằng em đã sai đi Arthas.”
Anh không hề bảo thế. Thay vì đó anh gật đầu. “Đó là lý do tại sao chúng đột ngột xuất hiện với số lượng nhiều đến vậy. Chỗ lúa mì chỉ mới tới Thung Đáy Lò cách đây chưa lâu – chỉ đủ thời gian để xay thành bột mì và nướng thành bánh.”
Jaina chằm chằm nhìn anh. Sự liên quan này cô chẳng thể nắm bắt nổi.
“Đó là lý do tại sao ta lại lên đường ngay hôm qua. Ta biết ta không thể hạ Mal’Ganis một mình được, nhưng – Jaina à, ta chẳng thể cứ ngồi yên được và – và chỉ chỉnh đốn giáp trụ và lại hạ trại được, em biết không?” Cô gật đầu. Giờ cô đã hiểu. “Và nhà tiên tri đó – ta không quan tâm ông ta mạnh mẽ như thế nào. Ta chỉ không thể rời đi và để toàn bộ Lordaeron rơi vào tay cãi gã – gã – Mal’Ganis này, dù hắn ta là ai hay là thứ gì thì hắn cũng phải bị ngăn cản. Chúng ta phải tìm tất cả những thùng lúa mì nhiễm bệnh còn lại và tiêu hủy chúng.”
Việc nói ra thông tin sửng sốt này có vẽ đã khiến Arthas kích động trở lại, và anh đứng dậy đi đi lại lại. “Uther đang ở chỗ quái quỷ nào vậy?” anh nói. “Ông ta có nguyên cả đêm để tới đây cơ mà.”
Jaina đặt chỗ ngũ cốc ăn dở sang bên và đứng dậy mặc cho xong đồ. Đầu óc cô suy nghĩ như điên, cố nắm bắt toàn bộ vấn đề và tìm cách để chống lại nó. Họ im lặng dỡ trại và hướng tới Thung Cốn.
Bình minh xám xịt tối dần đi khi những đám mây bay tới che phủ mặt trời. Mưa bắt đầu rơi nặng nề và lạnh lẽo. Cả Arthas và Jaina đã trùm mũ lên, nhưng Jaina vẫn bị ướt, cô run lên lúc họ tới được cổng của thành phố lớn đó. Ngay khi họ kéo cương, Jaina nghe thấy tiếng động sau lưng họ và quay đầu thì thấy Uther và binh lính đang đi dọc con đường lầy lội chỉ toàn bùn. Tới lúc này Arthas mới để lộ chút cảm xúc, anh quay lại nhìn Uther với một nụ cười cay đắng.
“Mừng là thầy tới kịp đấy thầy Uther,” anh nói thô lỗ.
Uther là một người kiên nhẫn, thế mà giờ ông cũng phải nổi giận. Arthas và Jaina không phải là những người duy nhất phải chịu căng thẳng. “Cẩn thận cái giọng của mình đi cậu bé! Anh có thể là hoàng tử, nhưng ta vẫn là hiệp sĩ cấp trên của anh đấy!”
“Như thể con quên được ấy,” Arthas đáp trả. Anh nhanh chóng đi lên đỉnh một gò đất để có thể nhìn thấy tường thành và thành phố. Anh không biết mình đang định tìm gì nữa. Dấu hiệu sự sống, hoặc có thể là sự bình thường. Dấu hiệu cho thấy họ đã tới kịp thời gian. Mọi thứ có thể cho anh hi vọng rằng anh vẫn còn có thể làm được việc gì đấy. “Nghe này thầy Uther, có một điều về bệnh dịch này mà thầy cần phải biết. Lúa mì-”
Gió bỗng nổi hướng khi anh nói, và mùi hương bay vào mũi anh không phải là một mùi khó chịu cho cam. Tuy nhiên Arthas vẫn cảm thấy bụng mình quặn đau như bị anh đấm. Mùi hương đó, cái mùi kỳ lạ của bánh mì nướng bằng thứ lúa mì nhiễm bệnh, rõ ràng đang choáng đầy bầu không khí dưới trời mưa này.
Cầu Ánh Sáng, không. Đã xay rồi, đã nướng rồi, đã-
Arthas mặt cắt không còn hột máu. Mắt anh nở lớn đầy vẻ kinh hoàng. “Chúng ta tới muộn rồi. Chúng ta đã tới quá muộn rồi! Lúa mì – những người dân đó-” Anh cố nói. “Những người đó đều đã bị nhiễm bệnh rồi.”
“Arthas-” Jaina khẽ nói.
“Trông họ bây giờ có vẻ khỏe mạnh đấy, nhưng chuyện họ biến thành xác sống chỉ còn là vấn đề thời gian thôi!”
“Sao cơ?” Uther hét lên. “Chàng trai, anh bị điên đấy à?”
“Không,” Jaina nói. “Anh ấy nói đúng đấy. Nếu họ đã ăn chỗ lúa mì đó thì họ đã nhiễm bệnh rồi – và nếu họ đã bị nhiễm bệnh… họ rồi sẽ biến đổi.” Cô đang điên cuồng suy nghĩ. Phải có cách nào đó họ có thể làm được chứ. Antonidas đã từng nói với cô, rằng nếu một việc có khởi đầu từ ma thuật, ta có thể dùng ma thuật để chống lại nó. Nếu họ có được đôi chút thời gian để suy nghĩ, nếu họ có thể bình tĩnh phân tích hợp lý chứ không hành động dựa trên cảm xúc, có lẽ một phương thuốc có thể-
“Toàn bộ thành phố này phải bị thanh trừ.”
Tuyên bố của Arthas quá là lỗ mãng và tàn bạo. Jaina nháy mắt. Chắc hẳn anh không hề thực sự có ý đó.
“Sao anh lại có thể nghĩ như thế chứ hả?” Uther hét lên và chạy tới bên cựu học trò của mình. “Phải còn cách nào khác chứ. Đây đâu phải một cánh đồng trồng táo bị nhiễm bệnh đâu, đây là một thành phố chứa đầy con người đấy!”
“Khốn nạn, Uther! Chúng ta phải làm thế!” Arthas dứ mặt vào sát mặt Uther, và trong một khoảnh khắc đáng sợ Jaina cứ nghĩ rằng họ sẽ rút vũ khí ra đánh nhau.
“Arthas, không! Chúng ta không thể làm thế được!” Cô buột miệng thốt lên trước khi kịp suy nghĩ. Anh quay đầu về phía cô, đôi mắt màu nước biển của anh sôi sục giận dữ đau đớn và tuyệt vọng. Cô nhận ra ngay lập tức rằng anh thực sự nghĩ đây là lựa chọn duy nhất – cách duy nhất để bảo vệ mạng sống những người chưa bị nhiễm bệnh còn lại là hi sinh những người đã bị nguyền rủa kia, những người không còn có thể cứu vớt được nữa. Anh thả lỏng đi đôi chút khi cô tiến tới cố nói trước khi anh kịp xen ngang. “Xin hãy nghe em. Chúng ta chưa biết có bao nhiêu người đã bị nhiễm bệnh. Có thể còn một số người thậm chí còn chưa ăn chút lúa mì nào – số khác có thể vẫn chưa ăn đủ số lượng nguy hiểm. Chúng ta còn chưa biết số lượng đủ gây nguy hiểm đó là bao nhiêu. Chúng ta biết quá ít ỏi – chúng ta không thể chỉ tàn sát họ như những con thú vật được mà không e ngại điều gì được!”
Điều này quả không phù hợp để nói chút nào, và cô thấy Arthas tối sầm mặt lại. “Ta chỉ đang cố bảo vệ những người vô tội thôi Jaina à. Đó là những gì ta đã thề sẽ làm.”
“Họ là những người vô tội – họ là nhưng nạn nhân! Họ đâu có muốn chuyện này! Arthas à, còn có cả trẻ con ở đấy nữa. Chúng ta không biết bọn nhỏ có bị ảnh hưởng không. Còn quá nhiều thứ chưa rõ để đưa ra một – một giải pháp tàn nhẫn như thế.”
“Thế còn những người đã bị nhiễm bệnh thì sao?” anh hỏi với một sự trầm lặng đáng sợ. “Họ sẽ giết lũ trẻ đó, Jaina à. Họ sẽ cố giết chúng ta… và tràn ra khỏi đây và tiếp tục giết chóc. Dù thế nào họ cũng sẽ chết, và khi họ sống dậy, họ sẽ làm những việc mà khi còn sống họ sẽ không bao giờ, không bao giờ muốn làm. Em sẽ chọn làm gì nào Jaina?”
Cô không ngờ trước điều đó. Cô hết nhìn Arthas rồi nhìn Uther. “Em – em không biết.”
“Em có biết đấy.” Cô biết rằng anh nói đúng. “Em muốn chết ngay bây giờ hay chết do bệnh dịch kia chứ? Cái chết trong sạch của một con người còn sống và biết suy nghĩ hay là để bị dựng lên thành một xác sống để tấn công mọi người, mọi thứ mà em yêu mến lúc còn sống chứ?”
Mặt cô nhăn nhúm. “Em… nếu là sự lựa chọn của riêng em thì là có. Nhưng chúng ta không lựa chọn thay cho họ được. Anh không hiểu sao?”
Anh lắc đầu. “Không. Ta không hiểu. Chúng ta cần phải thanh trừ thành phố này trước khi bất cứ ai trong số họ có cơ hội trốn thoát và lây lan bệnh dịch này. Trước khi bất cứ trong số họ biến đổi. Đó là lựa chọn nhân từ và duy nhất để ngăn chặn bệnh dịch này ngay ở đây, ngay bây giờ, đó là cái chết ngay tức thì. Đó chính xác là những gì ta đang định làm.”
Những giọt nước mắt đau đớn tràn ra trên mắt Jaina.
“Arthas à – xin hãy cho em ít thời gian. Chỉ một hai ngày thôi. Em có thể độn thổ về chỗ Antonidas và bọn em có thể triệu hồi một cuộc họp khẩn cấp. Có lẽ chúng ta có thể tìm ra cách để-”
“Chúng ta không có một hai ngày đâu!” Arthas quát. “Jaina à, thứ này ảnh hưởng tới người ta chỉ trong vài giờ thôi. Có khi chỉ là vài phút ấy. Ta – ta đã nhìn thấy nó ở Thung Đáy Lò. Không có thời gian thảo luận bàn cãi đâu. Chúng ta phải hành động. Ngay bây giờ. Hoặc sẽ là quá muộn.” Anh quay về phía Uther, bỏ mặc Jaina.
“Là nhà vua tương lai, ta ra lệnh cho ông thanh trừ thành phố này!”
“Ngươi chưa phải là vua đâu, nhóc con! Và kể cả như thế ta cũng không tuân theo mệnh lệnh đó đâu!”
Rồi sự im lặng trùm xuống khi căng thẳng cứ dần gia tăng.
Arthas à… bạn yêu dấu… xin đừng làm chuyện này.
“Vậy thì ta sẽ xem hành động này là phản loạn.” Giọng Arthas trở nên lạnh lùng. Kể cả có bị đánh vào mặt Jaina cũng không thể choáng váng hơn.
“Phản loạn ư?” Uther lắp bắp. “Ngươi mất trí rồi sao Arthas?”
“Thế à? Lãnh Chúa Uther, bằng quyền kế vị ngai vàng của ta, ta bãi nhiệm ông và đình chỉ hoạt động hội hiệp sĩ của ông.”
“Arthas!” Jaina kêu lên trong sửng sốt. “Anh không thể cứ-”
Anh tức giận quay về phía cô và quát, “Chuyện đã quyết rồi!”
Cô chằm chằm nhìn anh. Anh quay về phía binh lính đang đứng im lặng và thận trọng khi cuộc tranh cãi xảy ra. “Những ai trong các ngươi còn muốn cứu lấy vùng đất này, hãy theo ta! Số còn lại… biến đi cho khuất mắt!”
Jaina cảm thấy hoa mắt và phát bệnh. Anh ta thực sự sẽ làm chuyện đó. Anh ta sẽ tiến vào Thung Cốn và tàn sát tất cả đàn ông, phụ nữ, trẻ con còn sống bên trong tường thành đó. Cô lảo đảo và nắm chặt lấy cương ngựa. Nó cúi đầu xuống và khịt mũi, thở ra một hơi thở ấm áp vào má cô. Cô cực kỳ ghen tị với sự ngu dốt của nó.
Cô thắc mắc không biết liệu Uther có tấn công người cựu học trò của mình không. Nhưng ông bị trói buộc bởi một lời tuyên thệ sẽ phụng sự hoàng tử của mình, kể cả khi không còn phải nghe lệnh nữa. Cô nhìn thấy gân cổ ông nổi lên, gần như nghe được cả tiếng nghiến răng của ông. Nhưng ông không hề tấn công vị chúa của mình.
Tuy nhiên trong giọng nói ông không còn có sự trung thành nữa. “Ngươi đi quá giới hạn rồi đấy Arthas.”
Arthas nhìn ông thêm một lúc rồi nhún vai. Anh quay về phía Jaina, mắt anh nhìn thẳng mắt cô, và trong phút chốc – chỉ phút chốc thôi – trông anh chỉ như một chàng trai trẻ tuổi non nớt với đôi chút sợ hãi.
“Jaina à?”
Từ ngữ duy nhất đó mang quá nhiều ý nghĩa. Nó vừa là câu hỏi vừa là lời cầu xin. Khi cô chằm chằm nhìn anh, sững người như một con chim nhìn thẳng vào một con rắn, anh giơ một tay về phía cô. Cô nhìn nó trong phút chốc, nghĩ về tất cả những lần bàn tay đó siết chặt tay cô, vuốt ve cô, bàn tay từng tỏa sáng thứ ánh sáng chữa lành vết thương.
Cô không thể nắm bàn tay đó được.
“Em xin lỗi, Arthas à. Em không thể chứng kiến anh làm chuyện này được.”
Trên khuôn mặt anh bây giờ không còn lớp mặt nạ nào nữa, không còn vẻ lạnh lùng hay khoan dung để che đi sự đau đớn trước mặt cô. Sự căm phẫn và bất tín hiển hiện rõ trên mặt anh. Cô không thể chịu đựng nổi việc nhìn anh nữa. Với đôi mắt ướt đẫm, Jaina quay đi và thấy Uther nhìn cô với vẻ đồng cảm và chấp thuận. Ông đưa một tay ra giúp cô lên ngựa và cô cảm thấy biết ơn vì sự điềm tĩnh điềm đạm đó. Jaina run rẩy ôm chặt lấy ngựa khi Uther lên ngựa và cầm cương ngựa của cô dẫn họ đi xa khỏi nỗi kinh hoàng lớn nhất họ vừa chứng kiến trong suốt những ngày thở thách đáng sợ vừa qua.
“Jaina?” Giọng Arthas gọi với theo.
Cô nhắm mắt lại, hai hàng nước mắt tràn xuống dưới mi mắt. “Em xin lỗi,” cô thì thầm. “Em rất xin lỗi.”
“Jaina à?… Jaina!”
Cô đã quay lưng với anh.
Anh không thể tin nổi. Một lúc lâu anh chỉ đứng chết lặng và nhìn trân trân vào bóng hình đang khuất dạng của cô. Sao cô có thể bỏ rơi anh như thế này chứ? Cô biết rõ anh mà. Cô biết anh rõ hơn bất cứ ai trên thế giới này, thậm chí có thể còn hơn cả chính anh. Cô vẫn luôn luôn hiểu anh. Suy nghĩ của anh bỗng trở về cái đêm họ trở thành người tình của nhau, lúc họ đắm mình trong luồng sáng màu cam từ ngọn lửa của con bù nhìn, và về sau là ánh trăng nhợt nhạt. Anh ôm chặt cô và cầu xin.
Đừng từ chối ta, Jaina à. Đừng bao giờ từ chối ta. Nhé.
Em không bao giờ từ chối chàng đâu, Arthas à. Không bao giờ.
Chính nó, nhưng lời thì thầm trong cái khoảnh khắc định mệnh ấy, nhưng giờ đây cô đã làm chính xác điều đó – từ chối anh và phản bội anh. Khốn nạn, thậm chí cô cũng phải đồng ý rằng nếu là cô, cô cũng muốn được chết trước khi bệnh dịch đó xuất hiện và biến cô thành một thứ chống lại mọi thứ tốt lành đúng đắn. Cô đã rời bỏ anh, để anh lại một mình. Nếu có đâm vào bụng anh cũng không nghĩ mình lại có thể đau đớn hơn nữa.
Một ý nghĩ xuất hiện, thoáng qua nhưng sắc lạnh: Liệu có phải cô đã đúng?
Không. Không, không thể nào. Bởi vì nếu cô đúng thì anh sẽ trở thành một kẻ sát nhân hàng loạt, và anh biết anh không phải như thế. Anh biết mà.
Anh gạt bỏ nỗi kinh hoàng đó, liếm ướt đôi môi đã khô từ bao giờ, rồi hít một hơi. Một số binh lính đã rời đi cùng Uther. Rất nhiều người. Thực sự là quá nhiều người. Liệu anh còn có thể chiếm lấy thành phố này chỉ với số ít này không?
“Thưa ngài, tôi xin phép được nói,” Falric nói, “Tôi… chà… tôi thà bị phanh thây làm hàng ngàn mảnh còn hơn bị biến thành một trong đám xác sống đó.”
Có tiếng rì rầm đồng ý và trái tim Arthas bỗng thấy nhẹ nhàng hơn. Anh nắm lấy cây búa. “Chẳng hề có chút vui vẻ nào trong cái việc chúng ta sắp làm ở đây,” anh nói, “chỉ có sự cần thiết một cách tàn nhẫn thôi. Điều duy nhất cần thiết để ngăn chặn bệnh dịch này, ngay ở đây và ngay bây giờ, và với thương vong tối thiểu nhất. Những người sống trong bức tường thành đó đã chết rồi. Chúng ta đã biết điều đó, kể cả khi chúng ta không biết chúng ta cũng phải giết họ nhanh chóng và sạch sẽ trước khi bệnh dịch làm điều đó với chính chúng ta.” Anh lần lượt nhìn từng người một, những người không hề trốn tránh bổn phận của mình. “Họ phải bị giết, và nhà của họ phải bị phá hủy để tránh việc chúng trở thành nơi trú ẩn cho những người đã quá muộn để cứu.” Những người lính gật đầu hiểu rõ và nắm lấy vũ khí. “Đây chẳng phải là cuộc chiến vẻ vang vĩ đại nào hết. Đó sẽ là một cuộc chiến xấu xa đau khổ, và ta hối tiếc về sự cần thiết của nó bằng cả trái tim mình. Nhưng cũng chính bằng cả trái tim này mà ta biết rằng chúng ta phải làm việc này.”
Anh nhấc búa lên. “Vì Ánh Sáng!” anh hét lên, và các binh lính cũng gầm lên đáp lại và giương cao vũ khí. Anh quay về phía cổng, hít một hơi rồi lao tới.
Dối với những kẻ đã bị dựng dậy thì thật dễ dàng. Chúng là kẻ thù; không còn là người nữa mà chỉ là thân thể xấu xí của họ lúc còn sống, và việc đập vỡ sọ chúng hay chặt đầu chúng chẳng hề đau khổ hơn việc hạ gục một con thú dữ. Nhưng những người này-
Họ nhìn những người lính vũ trang kia, nhìn hoàng tử của họ, ban đầu là bằng sự bối rối rồi dần chuyển thành sợ hãi. Ban đầu hầu hết bọn đều chẳng tìm đến vũ khí; họ biết những tấm áo choàng đó, biết rằng những người đến để giết họ này đáng ra sẽ phải bảo vệ họ. Họ chỉ không hiểu được tại sao họ lại phải chết. Nỗi đau đớn thắt chặt lấy tim Arthas khi anh hạ sát người đầu tiên – một chàng trai trẻ chắc chỉ mới qua tuổi dậy thì, người đang nhìn anh bằng cặp mắt nâu với vẻ bối rối và thốt lên, “Thưa ngài, tại sao-” trước khi Arthas hét lên gần như đau đớn khi phải làm cái việc bất đắc dĩ này, và đập nát ngực chàng trai bằng một cây búa mà anh lơ đãng nhận ra rằng nó không còn tỏa Ánh Sáng nữa. Có lẽ Ánh Sáng cũng phải đau lòng trước hành động cần thiết này. Tiếng thổn thức bị anh dồn nén lại, và anh quay về phía mẹ của chàng trai.
Anh nghĩ việc này rồi sẽ dễ dàng hơn. Nhưng không. Nó chỉ tồi tệ hơn thôi. Arthas quyết không khuất phục. Những binh lính đang nhìn anh để noi gương; nếu anh nao núng thì họ cũng vậy, và rồi Mal’Ganis sẽ chiến thắng. Vậy nên anh vẫn đội mũ trụ để họ không thấy được mặt anh, và chính anh đã châm đuốc đốt những ngôi nhà với đầy những tiếng kêu la của những người bị nhốt bên trong, và quyết không để cảnh tượng và âm thanh kinh hoàng đó làm chậm bước chân anh.
Thật dễ chịu đi đôi chút khi một số cư dân Thung Cốn bắt đầu chống trả lại. Rồi bản năng tự vệ nổi lên. Dù vậy họ vẫn không hề có chút cơ hội nào chống lại những binh lính tinh nhuệ và một hiệp sĩ tài giỏi. Nhưng sự khuây khỏa đó lại gây ra một cảm giác tồi tệ của việc – chà, đúng như Jaina nói, là của việc tàn sát họ như giết chết những con gia súc đơn thuần.
“Ta đang chờ ngươi đây, hoàng tử trẻ.”
Giọng nói trầm sâu và khiến cả thính giác lẫn tâm trí anh run lên, và… chẳng thể dùng từ ngữ nào khác ngoài… độc ác. Một chúa tể sợ hãi như Kel’Thuzad đã nói. Một cái tên hắc ám cho một sinh vật hắc ám.
“Ta là Mal’Ganis.”
Có thứ gì đó giống như là niềm vui tỏa ra trong Arthas. Anh đã đúng. Mal’Ganis ở đây, hắn đứng đằng sau bệnh dịch này, và trong khi quân của Arthas quay sang tìm kiếm kẻ vừa nói đó, những cánh cửa của một ngôi nhà nơi những dân làng đang ẩn náu bật mở và những xác chết di động lao ra ngoài, cơ thể chúng sáng lên một màu xanh lục bệnh hoạn.
“Như ngươi thấy đấy, thần dân của ngươi giờ đã là của ta. Ta sẽ biến đổi thành phố từ gia đình này tới gia đình khác, tới khi ngọn lửa sự sống bị dập tắt… mãi mãi.” Mal’Ganis cười lớn. Âm thanh đó thật dễ sợ, sâu cay, khô khan, và hắc ám.
“Ta sẽ không cho phép điều đó đâu Mal’Ganis!” Arthas hét lên. Trái tim anh chan chứa niềm tin chính đáng vào việc anh đang làm. “Thà những người này bị chết dưới tay ta còn hơn làm nô lệ của ngươi lúc chết!”
Thêm nhiều tiếng cười hơn nữa, và rồi sự hiện diện dễ sợ đó biến mất nhanh chóng như khi nó xuất hiện, và Arthas bận rộn trong việc chiến đấu vì sự sống của chính mình khi một đám xác sống lao về phía anh.
Mất bao nhiêu thời gian để giết tất cả người sống – và cả người chết – trong thành phố này, Arthas chẳng thể nào nói trước được. Nhưng cuối cùng mọi việc đã xong xuôi. Anh kiệt sức, run rẩy, buồn nôn bởi mùi máu, khói, và mùi ngọt ngào bệnh hoạn của thứ bánh mì nhiễm độc tràn đầy trong bầu không khí kể cả khi tiệm bánh mì cũng đã bị đốt cháy. Máu và dịch bám đầy trên bộ giáp từng rất sáng bóng của anh. Nhưng anh vẫn chưa xong việc. Anh chờ đợi thứ anh biết rằng nó sẽ tới, và quả nhiên là vậy, chỉ tích tắc sau, kẻ thù của anh xuất hiện từ trên trời và đáp xuống một mái nhà vẫn chưa bị phá hủy.
Arthas do dự. Sinh vật đó thật khổng lồ. Làn da của hắn có màu xám lam như màu đá. Cặp sừng cong nhú lên từ hộp sọ nhẵn thín của hắn, và đôi cánh khổng lồ giống cánh dơi mọc ra sau lưng hắn như những bóng đen. Chân của hắn được phủ bằng kim loại tô điểm bằng những gai nhọn và trang trí hình ảnh đáng sợ của xương và đầu lâu, đôi chân cong gập ra sau và dưới cùng là một bộ vó, và trong chính ánh sáng từ đôi mắt rực sáng màu xanh lục của hắn là một hàm răng sắc nhọn đang phô ra trong một điệu cười kiêu căng.
Anh kinh hoàng nhìn lên sinh vật đó, khó lòng tin nổi vào những gì hiển hiện trước mắt mình. Anh đã từng nghe kể về nhiều câu chuyện; đã từng thấy nhiều tranh vẽ trong những cuốn sách cổ, cả ở thư viện nhà mình và ở những pho sách tại Dalaran. Nhưng việc tận mắt chứng kiến sinh vật gớm ghiếc cao lêu nghêu này, rồi bầu trời sau lưng hắn chỉ toàn màu đỏ và đen của lửa và khói-
Chúa tể sợ hãi là một loài quỷ. Tất cả dường như chỉ là chuyện thần thoại. Không thể là thật được – và nó đang ở ngay tại đây, đứng ngay trước mắt anh với đầy vẻ huy hoàng và đáng sợ.
Chúa tể sợ hãi.
Nỗi sợ hãi gần như lấn át Arthas, và anh biết rằng nó hoàn toàn có thể đánh gục anh. Anh sẽ chết trong tay con quái vật này – chết mà thậm chí còn chưa kịp chiến đấu. Và chỉ bằng ý chí, anh kìm nén nỗi sợ hãi đó bằng một cảm xúc dễ chịu hơn. Nỗi căm thù. Sự tức giận. Anh nghĩ về những người đã gục ngã dưới cây búa của mình, cả người sống và chết, những con ma đói khát và phụ nữ trẻ em hoảng sợ không hiểu rằng anh đang cố cứu rỗi linh hồn họ. Khuôn mặt họ đang nâng đỡ anh; họ không nên, và đáng ra đã không phải chết vô ích như vậy. Bằng cách nào đó Arthas đã tìm được sự can đảm để nhìn thẳng vào con quỷ đó, tay nắm chặt cán búa.
“Chúng ta sẽ kết thúc mọi chuyện ngay bây giờ, Mal’Ganis,” anh hét lên. Giọng anh mạnh mẽ và cứng rắn. “Chỉ mình ngươi và ta.”
Tên chúa tể sợ hãi ngửa đầu ra sau cười lớn. “Khẩu khí khá lắm,” hắn gầm lên. “Không may cho ngươi, mọi chuyện chưa kết thúc được đâu.” Mal’Ganis nhe răng cười, cặp môi màu đen của hắn dãn ra để lộ hàm răng sắc nhọn. “Hành trình của ngươi chỉ mới bắt đầu thôi, hoàng tử trẻ à.”
Hắn đưa một tay ra dấu về phía binh lính của Arthas, bộ vuốt dài sắc nhọn của hắn sáng bóng trong ánh lửa đang rực cháy khắp thành phố lớn. “Tập hợp quân đội và gặp ta tại vùng đất Bắc Liệt băng giá. Tại đó vận mệnh thực sự của ngươi sẽ được giải đáp.”
“Vận mệnh thực sự của ta ư?” Giọng Arthas run lên vì bối rối và tức giận. “Ý ngươi là-” Giọng anh tắt ngấm khi không gian xung quanh Mal’Ganis bắt đầu sáng lên và xoáy tròn một cách quen thuộc.
“Không!” Arthas thét lên. Anh lao tới trước đầy bất cẩn, và chắc hẳn đã bị hạ gục ngay tức khắc nếu như phép độn thổ đó chưa hoàn thành. Arthas gầm lên, vung cây búa bấy giờ không còn chút ánh sáng nào nữa vào không gian. “Ta sẽ săn tìm ngươi tới tận cùng trái đất nếu ta phải làm! Ngươi có nghe thấy không? Tới tận cùng trái đất này!”
Đau khổ, tức giận, gầm rú, anh vung vẩy cây búa trong điên cuồng vào không khí tới khi sự kiệt sức buộc anh phải hạ búa xuống. Anh chống búa xuống đất và tựa lên đó, mồ hôi đổ đầm đìa, cơ thể anh run lên đầy tức giận và chán nản.
Tới tận cùng trái đất.