CHƯƠNG : BRAN
Meera xoay người xung quanh đầy đề phòng, tay trái cầm lưới đong đưa tay phải cầm thương ba chạc sắc nhọn. Summer dõi theo nàng bằng đôi mắt màu vàng của nó, di chuyển liên tục, cái đuôi dựng đứng. Nó đang quan sát, và quan sát…
“Yai!” cô gái hét lên, cây thương đâm về phía trước. Con sói nhảy sang bên trái, lao tới trước khi nàng kịp thu cây thương lại. Meera tung lưới che người, kéo luôn Summer vào bên trong. Nó không nhận thua, kéo theo lưới lao vào ngực nàng và đè nàng xuống đất. Cây giáo bay khỏi tay, đám cỏ ướt giúp nàng giảm bớt tác động khi bị ngã, và nàng nằm trên đó thở hổn hển “oooo”. Con sói ngồi xổm bên cạnh nàng.
Bran la lên: “Bạn thua rồi.”
“Chị ấy thắng,” em trai nàng Jojen phản đối, “Summer đã bị bắt.”
Hắn đã đúng. Bran cũng nhìn thấy thế. Bên trong lưới, Summer đang giãy giụa, vặn vẹo, cố gắn cắn xé để thoát ra nhưng nó chỉ làm ình bị buộc chặt hơn. Rõ ràng lưới không thể bị cắn rách. “Thả nó ra đi.”
Cười lớn, cô gái nhà Reed vươn tay vòng quanh con sói đang dãy dụa. Summer rên rỉ, rồi gào thét chống lại những cái chân đang bị mắc lưới. Meera quỳ xuống tháo một nút cởi một khoảng trốn ở một góc, rồi kéo kéo và con sói được tự do.
“Summer, đến đây.” Bran dang cánh tay. “Nhìn đây,” nó vừa nói xong thì con sói lao tới như cơn gió. Nó lập tức phải gồng lên hết sức khi coi sói đẩy ngã trên thảm cỏ. Bọn nó lăn lộn cùng nhau, hết cắn lại cắn, những người khác nhìn thấy cảnh đó đều cười lớn. Cuối cùng Bran nằm ườn ra, đè lên con sói đang dính đầy bùn. “Sói ngoan,” nó phì phò. Summer âu yếm liếm tai nó.
Meera lắc đầu. “ Nó không bao giờ tức giận sao?”
“Không bao giờ tức giận với tôi,” Bran túm lấy tai con sói và Summer gầm lên đầy tức giận, nhưng tất cả mọi người đều thấy đó rõ ràng chỉ là bọn chúng đùa với nhau. “Có đôi khi nó xé rách cả quần áo của ta, nhưng chưa bao giờ khiến ta đổ máu.”
“Ý cậu là máu của cậu? Nếu nó nó bị vướng vào lưới của tôi vừa nãy…”
“Nó sẽ không làm cô bị thương. Nó biết tôi thích cô,” tất cả các quý tộc và hiệp sĩ khác đến bữa tiệc mừng vụ mùa thành công đều đã rời đi từ một hoặc hai ngày trước, nhưng chị em nhà Reeds vẫn còn ở lại để làm bạn với Bran. Jojen luôn rất nghiêm túc đến mức Vú Già gọi hắn là “ông cụ non”, nhưng Meera thì khiến Bran nhớ đến chị Arya. Cô không sợ bị bẩn, có thể chạy và chiến đấu như một thằng con trai, dù cô lớn hơn Arya, gần mười sáu tuổi, đã thành một thiếu nữ. Cả hai chị em cũng lớn hơn Bran dù nó đã qua sinh nhật lần thứ chín, may mà bọn họ không đối xử với nó như một đứa trẻ. “Tôi thực sự hy vọng các người sẽ là con nuôi của gia đình chữ không phải anh em nhà Walders.” Nó vất vả bò về phía cái cây gần nhất, tư thế vặn vẹo lê lết có vẻ rất khó xem, nhưng khi Meera chìa tay ra thì nó lại nói: “Không, đừng giúp tôi.” Nó cố gắng vụng dại xoay mình, hai cánh tay gồng hết sức, cuối cùng cũng lật được người lên dựa vào gốc cây. “Xem đi, tôi đã làm được rồi đấy.” Summer đặt đầu lên đùi Bran. “Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy có người chiến đấu bằng lưới,” hắn nói với Meera trong lúc tay cù vào tai con sói. “Thầy dạy võ đã dạy cô cách chiến đấu bằng lưới à?”
“Cha tôi đã dạy. Không có hiệp sĩ tại Greywater, không thầy dạy võ và không có học sĩ.”
“Thế ai chăm sóc những con quạ?”
Nàng mỉm cười. “Những con quạ không thể tìm thấy Greywater Watch, cũng như đám kẻ thù vậy.”
“Tại sao lại thế?”
“Tại vì nó dịch chuyển,” cô trả lời.
Bran chưa bao giờ nghe thấy chuyện lâu đài có thể dịch chuyển. Nó nheo mắt nghi ngờ, nhưng không chắc có phải nàng đang chọc ghẹo hay không. “Tôi ước chi được nhìn thấy. Cô nghĩ Cha cô có thể cho phép tôi đến thăm khi chiến tranh kết thúc không?”
“Chúng tôi luôn hoan ngênh cậu, hoàng tử ạ, kể cả bây giờ và sau này.”
“Bây giờ ư?” Bran chưa bao giờ rời khỏi Winterfell. Nó vốn luôn muốn được đến những nơi xa để mở mang kiến thức. “Chờ Hiệp sĩ Rodrik quay về tôi sẽ hỏi ông ấy”. Viên hiệp sĩ già đã đi về phía Đông để xử lý những rắc rối đang diễn ra tại đó. Nguyên nhân gây ra bắt nguồn từ thằng con hoang của Roose Bolton đã bắt cóc Phu nhân Hornwood khi bà từ bữa tiệc mừng vụ mùa bội thu quay về, bắt bà cưới hắn hằng đêm, dù hắn chỉ đáng tuổi con trai bà. Rồi sau đó vài ngày Đại nhân Manderly tiếp quản lấy luôn lâu đài của Phu nhân. Hắn viết thư thông báo lý do là để bảo vệ tài sản dòng họ Hornwood, nhưng Hiệp sĩ Rodrik nổi giận điên cuồng với thằng con hoang này. “Hiệp sĩ Rodriksẽ đồng ý cho tôi đi thôi, chứ học sĩ Luwin thì không bao giờ.”
Ngồi xếp bằng dưới gốc cây lương mộc, Jojen Reed thật nghiêm túc nhìn nó. “Bran, cậu cũng nên rời Winterfell một thời gian.”
“Được chứ?”
“Ừ, càng sớm càng tốt.”
“Em trai tôi có thể nhìn thấy tương lai,” Meera nói, “cậu ấy mơ thấy những thứ chưa xảy ra nhưng có thể sẽ thành sự thật.”
“Không phải lúc nào cũng thành sự thật, Meera,” hắn liếc mắt nhìn cô, trông hắn buồn bã còn cô thì bướng bỉnh. “Hãy nói cho tôi biết sẽ phát sinh chuyện gì,” Bran nói.
“Tôi sẽ nói,” Jojen trả lời, “nếu cậu kể cho tôi nghe những giấc mơ của cậu.”
Tán lá của cây lương mộc cũng trở nên im lìm. Bran có thể nghe thấy tiếng tiếng lá sột soạt, tiếng nghịch nước bắn lên từ hành động nghịch ngợm của Hondor ở hồ nước nóng xa xa. Nó nghĩ về người đàn ông vàng và con quạ ba mắt, nhớ đến tiếng xương lạo xạo trong miệng và vị đồng trong máu. “Tôi không mơ thấy gì cả. Học sĩ Luwin thường cho tôi uống thuốc ngủ.”
“Chúng có tác dụng không?”
“Đôi khi.”
Meera nói: “Tất cả người sống ở Winterfell đều biết cậu thường xuyên thức dậy trong đêm, la hét và đổ mồ hôi, Bran. Người phụ nữ phụ trách cũng kể thế và các thủ vệ cũng nói y hệt.”
“Nói cho chúng tôi biết điều gì khiên cậu sợ hãi đến thế,” Jojen tiếp tục.
“Tôi không muốn. Dù sao thì đó cũng chỉ là giấc mơ. Học sĩ Luwin nói những giấc mơ có thể có ý nghĩa gì đó, hoặc có khi chẳng là gì.”
“Em trai tôi cũng mơ như những cậu trai khác và những giấc mơ đó đôi khi hàm chứa ý nghĩa,” Meera nói, “nhưng những giấc mơ màu xanh lại hoàn toàn khác.”
Đôi mắt của Jojen có màu xanh rêu, đôi khi cậu ấy nhìn bạn nhưng bạn lại có cảm giác cậu ấy đang nhìn cái gì đó khác. Giống như bây giờ đây. “Tôi đã mơ thấy một con sói bay bị kẹt trong tảng đá màu xám,” hắn nói.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. “Nó là một giấc mơ có màu xanh, vì vậy tôi biết điều đó là sự thực. Một con quạ đang muốn mổ vỡ tảng đá đó, nhưng nó quá cứng, vì vậy dấu vết để lại trên tảng đá chẳng đáng kể gì.”
“Có phải con quạ có ba mắt không?”
Jojen gật đầu.
Summer ngẩng đầu lên khỏi đùi Bran, và nhìn chằm chằm vào thằng bé người mudman bằng đôi mắt vàng sẫm.
“Khi còn nhỏ tôi suýt chết bởi dịch sốt tại greywater. Đó là khi con quạ đến với tôi.”
“Nó cũng đến với tôi sau khi tôi bị ngã,” Bran thì thào. “Tôi đã ngủ trong thời gian dài. Nó nói tôi phải bay hoặc là chết, và tôi tỉnh lại nhưng xương cốt gãy hết và rõ ràng là không thể bay.”
“Cậu có thể làm thế nếu muốn.” Meera nhặt lên cái lưới, cuộn lại rồi nhét vào thắt lưng như cũ.
“Cậu chính là con sói có cánh đó, Bran” Jojen nói. “Lúc mới đến đây tôi không chắc chắn lắm, nhưng giờ thì tôi chắc. Con quạ đã cử chúng tôi đến đây để phá vỡ tảng đá của cậu.”
“Con quạ đó sống ở Greywater à?”
“Không, con quạ đó sống ở Phương Bắc.”
“Ở Tường Thành sao?” Bran luôn muốn đến thăm Tường Thành. Anh trai cùng Cha khác mẹ Jon đang ở đó, anh ấy là người lính trong Đội Tuần Đêm.
“Bên ngoài Tường Thành.” Meera Reed cài cuộn lưới vào thắng lưng. “Khi Jojen nói với Cha về những gì nó mơ, Cha đã cử chúng tôi đến Winterfell.”
“Làm sao tôi có thể phá vỡ tảng đá, Jojen?” Bran hỏi.
“Cậu hãy mở mắt.”
“Mắt tôi đang mở đây. Cậu không thấy sao?”
“Cậu mới mở hai mắt.”
“Một, hai. Tôi chỉ có hai mắt.”
“Cậu có ba mắt. Con quạ đã cho cậu con mắt thứ ba nhưng cậu không mở con mắt đó.” Giọng hắn chậm rãi và mềm mỏng. “Dùng hai con mắt, cậu có thể nhìn thấy khuôn mặt tôi, nhưng dùng con mắt thứ ba thì cậu thấy cả trái tim tôi. Dùng hai mắt, cậu có thể nhìn thấy cây sồi ở đó nhưng con mắt thứ ba của cậu có thể nhìn thấy nó từ lúc nảy mầm đến khi nó chỉ còn là một cái cọc khô. Với hai con mắt, cậu không nhìn xa hơn bức tường thành, nhưng với con mắt thứ ba cậu có thể phóng tầm mắt đến tận Biển Mùa Hè ở Phương Nam và Tường Thành ở Phương Bắc.”
Summer đứng dậy. “Tôi không cần phải nhìn thấy quá xa.” Bran nở nụ cười lo lắng. “Tôi quá mệt mỏi với việc nói về những con quạ rồi. Hãy nói về những con sói đi, hay những con tích sư (lizard-lion) cũng được. Cô đã bao giờ săn được con nào chưa, Meera? Ở đây không có những con thú đó.”
Meera kéo cây thương của mình ra khỏi bụi cây. “Chúng sống dưới nước, trong những dòng sông chảy chậm và sâu…”
Em trai cô cắt ngang. “Cậu đã mơ về những con tích sư?”
“Không,” Bran trả lời. “Tôi đã nói với anh, tôi không muốn…”
“Cậu đã mơ thấy một con sói?”
Hắn khiến Bran nổi giận thực sự. “Tôi không muốn kể những giấc mơ của mình cho anh. Tôi là một hoàng tử, người nhà Stark của thành Winterfell.”
“Nó là Summer phải không?”
“Anh im đi.”
“Vào đêm diễn ra bữa tiệc mừng vụ mùa, cậu đã mơ mình là Summer trong Khu rừng của các vị thần, phải không?”
“Dừng ngay lại.” Bran hét lên. Summer nhẹ nhàng tiến tới câu lương mộc, nhe hàm răng sắc nhọn.
Jojen Reed không thèm để ý. “Khi tôi sờ vào Summer, tôi cảm thấy cậu trong nó, giờ thì đúng là cậu ở trong nó rồi.”
“Anh không bao giờ biết. Lúc đó tôi đang ở trên giường, tôi đang ngủ.”
“Cậu đang ở trong Khu rừng của các vị thần, xung quanh toàn màu xám.”
“Đó chỉ là một cơn ác mộng…”
Jojen đứng dậy. “Tôi đã cảm thấy cậu. Tôi đã cảm thấy cậu ngã. Đó là những gì khiến cậu sợ hãi, cú ngã đó phải không?”
Cú ngã đó, Bran nghĩ, và người đàn ông tóc vàng, anh trai của thái hậu, hắn cũng khiến mình sợ nữa nhưng hơn cả vẫn là cú ngã. Dù vậy, nó không cất lời đáp lại. Nó có thể làm sao? Nó không thể kể với Hiệp sĩ Rodrik và Học sĩ Luwin và nó cũng không thể kể cho anh em nhà Reed. Nếu nó không kể về chuyện này thì có thể quên lãng. Nó chưa bao giờ muốn nhớ lại. Đơn giản là coi như không phải ký ức đi.
“Cậu có ngã vào mọi đêm không, Bran?” Jojen lặng lẽ.
Một tiếng gầm thấp thoát ra từ cổ họng Summer và giờ rõ ràng không phải trò đùa. Nó cúi người về phía trước, nhe cả hàm ra, đôi mắt rực lửa. Meera chắn giữa con sói và em trai, cầm chắc cây thương. “Bran, giữ nó lại.”
“Jojen đang khiến nó giận dữ,” Meera tung lưới.
“Bran, cậu đang giận,” Jojen nói. “cậu sợ.”
“Không đúng. Tôi không phải là một con sói,” dù nó hú với chúng hàng đêm và cả liếm máu trong những giấc mơ sói của mình.
“Một phần của cậu là Summer và một phần của Summer là cậu. Cậu biết rõ điều đó, Bran.”
Summer nhảy sổ về phía trước nhưng Meera cản lại nó vớ cái thương ba chạc sắc bén của mình. Con sói nhảy sang một bên, tiếp cận vòng tròn. Meera chuyển người theo đối mặt với nó. “Gọi nó quay lại đi, Bran.”
“Summer,” Bran hét lên, “đến đây, Summer.” Nó đập mạnh xuống đùi mình dù chẳng cảm thấy gì với những thớ thịt chết tại đó.
Con sói vương tiếp tục công kích và Meera lại dơ thương chống lại. Summer cứ vờn quanh, đi lại. Đột nhiên bụi cây xao động và một bóng đen nhảy ra từ phía sau cây lương mộc, hàm răng nhe ra. Hóa ra mùi của sự giận giữ trở nên quá mạnh mẽ đã thu hút sự chú ý của các anh em. Bran cảm thấy tóc dựng đứng. Meera đứng bên cạnh em trai giữa vòng tròn các con sói vây quanh. “Bran, gọi chúng quay lại.”
“Tôi không thể.”
“Jojen, trèo lên cây.”
“Không cần thiết. Hôm nay không phải ngày em chết.”
“Làm đi,” cô hét lên và em trai nhảy bám lên cành cây lương mộc, leo lên những “khuôn mặt” xương xương. Những con sói vương tiến gần. Meera vung thương và lưới, nhảy lên và bám vào cành cây phía trên đầu. Shaggy nhảy lên theo đớp một miếng ngay dưới mắt cá chân khi cô cô treo xoay bật lên cành. Summer ngồi xổm xuống và hú lên giận dữ, trong khi Shaggydog thì lo lắng về cái lưới, cố gắng cắn tan nó.
Chỉ đến lúc này Bran mới nhớ ra là bọn họ không đơn độc. Nó vòng tay lên miệng làm loa. “Hodor,” nó gào lên, “Hodor! Hodor!” Nó cảm thấy cực kỳ sợ hãi và có chút gì đó xấu hổ. “Chúng sẽ không làm Hodor bị thương,” nó hướng lên những người bạn đang trèo vắt vẻo trên cây bảo đảm.
Vài phút sau họ nghe thấy tiếng lẩm bẩm chói tai. Hodor chạy đến khi tóc còn rối bù, trên người đầy bùn, nhưng Bran chưa bao giờ vui mừng đến thế khi nhìn thấy hắn. “Hodor, giúp tôi. Đuổi mấy con sói đi. Đuổi chúng ra khỏi đây.”
Hodor vui vẻ chạy đến, vẫy tay, giậm chân và hét lớn. “Hodor, hodor”, Shaggydog là con sói đầu tiên chạy đi, rồi kéo theo những con khác. Summer cũng thấy đủ nên nó quay lại với Bran và ngồi cạnh nó.
Meera nhanh chóng nhảy xuống gốc cây nhặt thương và lưới. Jojen không hề rời mắt khỏi Summer. “Chúng ta sẽ nói lại chuyện này vào lúc khác,” hắn hứa với Bran.
Đó là những con sói, không phải mình. Nó không hiểu tại sao bọn chúng lại trở nên hoang dại đến thế. Có lẽ học sĩ Luwin có lý khi nhốt chúng trong Khu rừng các vị thần. “Hodor” nó cất lời. “Đưa ta đến gặp học sĩ Luwin.”
Chỗ ở của viên học sĩ nằm ngay dưới chuồng quạ, đó là một trong những nơi ưa thích của Bran. Luwin là một người ưa sạch sẽ đến vô vọng, nhưng những cuốn sách, cuộn da và chai lọ của ông vẫn hơi lộn xộn, dù chúng trở nên vô cùng quen thuộc và khiến Bran dễ chịu và ấm cúng. Nó cũng thích những con quạ nữa. Lúc nó đến thì học sĩ Luwin đang ngồi viết trên một chiếc ghế cao. Với việc Hiệp sĩ Rodrik rời đi, mọi việc trong lâu đài giờ đổ dồn lên đôi vai nhỏ bé gầy guộc của ông. “Hoàng tử của tôi,” ông nói khi Hodor bước vào, “hôm nay cậu đến học sớm.” Viên học sĩ dành vài giờ mỗi buổi chiều để dạy Bran, Rickon và anh em nhà Walder Frey học.
“Hodor đứng lại,” Bran vươn tay cầm chân đèn móc vào tương và dựa vào nó đứng lên. Nó đứng đó đợi đến khi Hodor mang đến một cái ghế. “Meera nói rằng em trai chị ấy có cái nhìn xanh.”
Học sĩ Luwin cọ cọ mũi bằng cái tay đang cầm bút lông. “Cô ấy nói vậy sao?”
Nó gật. “Chị ấy kể với con rằng những đứa trẻ trong rừng đều có cái nhìn xanh. Con nhớ là như vậy.”
“Vài người tự xưng là có sức mạnh đó. Những trí giả của họ gọi là lục tiên (greenseers).”
“Đó là ma thuật sao?”
“Cứ gọi nó bằng bất kỳ từ nào cháu muốn. Bởi vì nói theo bản chất thì nó cũng là một loại tri thức khác mà thôi.”
“Tri thức gì?”
Luwin đặt bút xuống. “Không ai thực sự biết nó là cái gì, Bran ạ. Những đứa trẻ rời đi thế giới này và những trí giả đó cũng đi theo. Chúng ta nghĩ nó có liên quan gì đó đến những khuôn mặt trên cây lương mộc. Những Người Đầu Tiên (First Men) tin rằng lục tiên có thể nhìn trước thấy những sự việc sẽ xảy ra qua cây lương mộc. Điều đó giải thích vì sao họ chặt rừng bất cứ khi nào bất hòa với đám trẻ. Có truyền thuyết còn cho rằng lục tiên thậm chí còn có sức mạnh ảnh hưởng đến những con quái vật trong rừng và những con chim trên cây, hay thậm chí là những con cá. Những đứa trẻ nhà Reed đã tự xưng có năng lực này à?”
“Không, cháu không nghĩ thế. Nhưng Meera nói có vài giấc mơ cậu ấy mơ đã thành sự thật.”
“Tất cả những giấc mơ của chúng ta đều có xu hướng thành sự thật. Cháu đã mơ thấy việc Cha cháu ở trong hầm mộ trước khi chúng ta biết tin ông ấy chết, nhớ không?”
“Rickon cũng mơ thấy điều đó. Chúng cháu đã cùng mơ thấy một giấc mơ.”
“Hãy gọi nó là cái nhìn màu xanh nếu cháu muốn… nhưng hãy nhớ rằng có hàng ngàn giấc mơ của cháu và Rickon đã không thành sự thật. Cháu không quên điều ta đã dạy cháu liên quan đến sự tích cái vòng cổ mà các học sĩ đang đeo chứ?”
Bran nghĩ một lúc, cố gắng nhớ lại. “Một học sĩ được ban tặng sợi dây chuyền ở Citadel thuộc Oldtown. Nó là dây chuyền bởi vì bạn cất lên lời thề phục vụ người khác. Sợi dây chuyền được làm bằng các kim loại khác nhau bởi vị bạn phục vụ toàn bộ vương quốc cũng như mọi tầng lớp xã hội trong vương quốc. Mỗi khi bạn học được điều gì đó trong ngành mới, bạn sẽ được thêm vào sợi dây chuyền những viên đá mới. Sắt đen là dành cho khả năng nuôi quạ, bạc dành cho khả năng chữa bệnh, vàng đại diện cho khả năng kế toán và tài chính. Cháu không nhớ hết…”
Luwin đưa ngón tay lần xuống dưới sợi dây chuyền và bắt đầu cởi nó ra, từng chút một. Ông có một sợi dây chuyền dày so với vóc dáng nhỏ thó của mình và sợi dây chuyền vô cùng chặt chẽ, phải dùng chút sức mới có thể xoay tròn cái chi tiết trên đó. “Đây là sắt của người Valyria,” ông nói khi chỉ vào hạt sắt xám xịt nằm gần cổ họng, “chỉ một phần trăm học sĩ có khả năng mang viên này. Nó đại biểu cho việc tôi đã được học cái mà Citadel gọi là phép thuật thần bí cao cấp - ma thuật, tất nhiên cậu có thể gọi nó bằng một cái tên khác. Một thứ hấp dẫn, nhưng rất ít khi hữu dụng, chính vì vậy mà rất ít học sĩ dấn thân vào thứ này.”
“Sớm hay muộn, những người học phép thuật thần bí đều muốn cố gắng thi triển ma pháp trong tay. Tôi thừa nhận ngay cả bạn thân mình cũng không tránh được cám dỗ đó. À, hồi đó tôi còn là một đứa trẻ, và chẳng phải đứa trẻ nào cũng len lén huyền tưởng rằng nó sẽ tìm ra năng lực ẩn dấu trong bản thân mình sao? Nhưng những kết quả mà tôi đạt được cũng không hơn hàng ngàn đứa trẻ trước đó và cả hàng ngàn đứa sau này nữa. Rất buồn khi nói rằng ma thuật không tồn tại.”
“Đôi khi nó có tồn tại.” Bran phản bác. “Cháu có giấc mơ đó và Rickon cũng thế.Và thực tế có những nhà ảo thuật và phù thủy ở Phương Đông…”
“Có nhiều người tự gọi mình là nhà ảo thuật và phù thủy.” Học sĩ Luwin nói. “Tôi có một người bạn ở Ciadel có thể lấy một bông hồng từ tai cậu, nhưng hắn cũng chẳng nhiều phép thuật hơn tôi. Ồ, chắc chắn có nhiều thứ ta không thể hiểu. Hàng trăm, hàng ngàn năm đã trôi qua và con người chúng ta có mấy người trải qua vài mùa hè hay mùa đông? Chúng ta nhìn vào ngọn núi và gọi nó là vĩnh cửu và chúng cũng có vẻ thế… nhưng trong dòng chảy thời gian, những ngọn núi mọc lên và sụp xuống, những dòng sông thay đổi dòng chảy, những ngôi sao rời xa bầu trời và những thành phố lớn chìm sâu trong biển cả. Nếu ta không lầm thì ngay cả chúa cũng chết. Mọi thứ đều có thể đổi thay.”
“Có lẽ phép thuật đã từng là một sức mạnh tuyệt vời trên thế giới này nhưng giờ chúng không còn hiện hữu. Những gì còn lại của chúng là quá nhỏ nhoi như một một làn khói nhỏ nhoi bốc lên sau một đám cháy lớn đã tàn từ lâu. Người Valyria là dân tộc cuối cùng sử dụng nó và họ cũng đã biến mất. Những con rồng cũng đã mất đi từ lâu, những người khổng lồ đã chết, những Đứa trẻ của Rừng già đã bị lãng quên bởi thế giới này.”
“Không, hoàng tử của tôi. Jojen Reed có thể có một hoặc hai giấc mơ mà cậu ta tin là đã trở thành hiện thực, nhưng cậu ta không có Cái Nhìn Xanh. Không người sống nào có được sức mạnh đó.”
Và khi hoàng hôn, khi Meera Reed tìm đến, nó truyền đạt nguyên văn câu chuyện này với cô khi ngồi trên cửa sổ quan sát những ánh đèn sáng dần trong đêm. “Tôi xin lỗi về những chuyện đã xảy ra với mấy con sói. Summer đáng lẽ không nên cố đả thương Jojen, nhưng Jojen cũng không nên nói về những giấc mơ của tôi như thế. Con quạ đó đã nói dối khi nó nói tôi có thể bay, và em trai cô cũng nói dối.”
“Hoặc có thể học sĩ của cậu đã sai.”
“Ông ấy không sai. Ngay cả Cha tôi cũng phải hỏi ý kiến của ông ấy.”
“Cha cậu lắng nghe điều đó. Tôi không nghi ngờ gì nhưng ông ấy sẽ là người quyết định cuối cùng, Bran. Hãy để tôi kể cho cậu nghe giấc mơ mà Jojen đã mơ về cậu và những người anh em của cậu.”
“Đám nhà Walder không phải anh em tôi.”
Cô không để ý. “Cậu đang ngồi trên bàn ăn nhưng thay vì là người phục vụ lại là học sĩ Luwin mang thức ăn cho cậu. Ông ấy phục vụ cậu như một vị vua với thịt nướng, miếng thịt ngon hiếm thấy và đầy máu, thơm ngon khiến người ta nhỏ dãi. Miếng thịt ông ấy phục vụ nhà Frey thì vừa dai, già vừa đen. Nhưng bọn họ lại hài lòng với bữa ăn của mình hơn cậu.”
“Tôi không hiểu.”
“Cậu sẽ hiểu thôi. Em trai tôi nói vậy. Khi nào cậu hiểu nó thì chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.”
Bran vô cùng lo lắng khi ngồi ăn bữa vào tối hôm đó, nhưng khi ngồi vào chỗ thì đã thấy họ đặt đĩa bánh trước mặt nó. Tất cả mọi người đều được phục vụ y hệt, và nó không nhìn thấy bất kỳ sự khác biệt nào trong thức ăn mà họ phục vụ đám người nhà Walder. Học sĩ Luwin đã đúng, nó tự nhủ. Sẽ không có gì tồi tệ đến với Winterfell, không cần quan tâm đến những gì Jojen nói. Bran đã tin thế… nhưng cũng cảm thấy thất vọng. Nếu thế giới còn có phép thuật thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Những con ma có thể đi lại, cây cối có thể nói chuyện, và những thằng bé tật nguyền như nó có thể trở thành hiệp sĩ. “Nhưng không có chuyện đó đâu,” nó nói to với bóng tối khi ở trên giường. “Không có phép thuật, và những câu chuyện chỉ là chuyện kể mà thôi.”
Và nó cũng không bao giờ có thể đi đứng, không thể bay và không thể trở thành hiệp sĩ.