Khi Minh Hoa Thường tỉnh lại, thứ đầu tiên mà nàng nhìn thấy là trần nhà âm u tối tăm, mùi ẩm ướt khó ngửi quẩn quanh chóp mũi, như thể là chưa bao giờ được nhìn thấy ánh nắng, nơi nơi ngập trong thứ mùi mục nát.
Nàng động đậy theo bản năng, phát hiện ra tay chân của mình đều đã bị dây thừng trói lại. Nàng nhìn theo dây thừng thì thấy dưới người mình là một bệ đá vuông vức, ở phần viền có một vết gì đó màu đỏ sậm, trông rất khả nghi, phía trước nữa là tượng Phật bằng bùn đang cầm hoa mà cười yếu ớt.
Nếu tượng Phật này được đặt trong Đại Hùng Bảo Điện, thì tất nhiên là sẽ có vẻ hiền lành, công đức vô biên, nhưng trong tình cảnh này, tượng Phật ấy chỉ khiến cho con người ta cảm thấy thật u ám và đáng sợ.
Minh Hoa Thường bình tĩnh nhìn tượng Phật, nàng không hề kêu khóc, giãy giụa như trong dự đoán, kẻ đang ẩn mình trong bóng tối quan sát nàng, rồi cũng đến lúc người nọ không thể giữ được sự bình tĩnh nữa, bèn hỏi: “Hình như ngươi không hề sợ hãi nhỉ?”
Minh Hoa Thường nhìn theo nơi phát ra âm thanh, bấy giờ nàng mới nhìn thấy Lư Độ trong bóng tối. Minh Hoa Thường nói: “Tất nhiên là sợ. Nhưng bây giờ ta sợ thì có hữu dụng hay không?”
Rõ ràng là không hề. Lư Độ chậm rãi đi ra khỏi bóng tối, gã nói: “Ngươi khác với tưởng tượng của ta. Ngươi rất đặc biệt.”
“Vậy thì ta nên như thế nào?” Minh Hoa Thường hỏi lại: “Giống như nữ ăn mày, giống như Vũ Yến, hay là giống như Trình Tư Nguyệt? Ta phải kêu khóc, phải giãy giụa, phải đau khổ và phải cầu xin ngươi để ngươi đạt được khoái cảm ư?”
Hàng lông mày của Lư Độ khẽ động, gã càng thêm phần bất ngờ: “Sao ngươi biết được là Vũ Yến?”
Gã không hề phủ nhận mấy người khác, có thể thấy được rằng, gã đã thừa nhận gã chính là hung thủ trong án giết người liên hoàn làm chấn động cả thành Trường An. Gã cũng không cố gắng che giấu làm gì, vì với gã mà nói, người ngoài sợ gã, hận gã, bàn luận về gã chỉ khiến cho gã thấy thỏa mãn mà thôi; nhưng nếu người ngoài gièm pha về “chiến tích” của gã, thậm chí là nếu họ cho rằng thủ đoạn bắt chước sơ sài, vụng về kia là do gã làm ra, thì đó mới chính là thứ thật sự chọc giận gã.
Đã trôi qua nhiều năm như vậy rồi, mọi người đều cho rằng người gã muốn giết là Hoàng Thái Vi. Phủ Kinh Triệu cũng đã đổi nhiều người như vậy rồi, cứ tra tới tra lui, nhưng ai cũng đều tin tưởng vào điều này mà chẳng mảy may nghi ngờ gì. Gã vừa tự đắc, vừa cảm thấy trống vắng.
Gã thật sự muốn người ta công nhận gã, nhưng gã không có cách nào nói với người khác về những việc gã đã làm, thế nên, gã chỉ đành lặng lẽ gặm nhấm thành quả trong thất vọng.
Nhưng mà, con cừu non mà gã chợt nổi hứng bắt lại này lại vạch trần ý đồ của gã. Từng tấc da thịt trên thân thể Lư Độ chợt hưng phấn, quá giống, dường như nàng chính là bản sao của muội muội, nhưng, nàng lại may mắn hơn muội muội.
Nàng có người cha tốt, có một vị huynh trưởng tốt, hơn nữa, vừa ra đời là mẹ nàng đã chết. Vì sao những chuyện may mắn này đều xảy đến với một mình nàng cơ chứ?
Đặc điểm lớn nhất của Minh Hoa Thường chính là lười, nếu nàng đã giải thích sự việc này với người khác một lần rồi, thì nàng rất lười phải nói lại lần hai. Thế nên Minh Hoa Thường chỉ nói: “Đến bây giờ ta vẫn không biết tên của nữ ăn mày đó, nàng ấy tên là gì? Vì sao ngươi lại giết nàng ấy?”
Bình thường mà nói, sẽ chẳng có ai trả lời câu hỏi của con mồi sắp chết cả, nhưng thật sự là Lư Độ đã cô đơn quá lâu rồi, bây giờ có người muốn tìm hiểu gã, gần như là gã chẳng thể chờ đợi nổi nữa, cứ thế mà trả lời thật nhanh: “Nàng ta không có tên, ta đặt tên cho nàng ta là Ngũ Nguyệt.”
“Vì sao?”
“Bởi vì nhị nương qua đời vào tháng Năm.”
Hàng lông mày của Minh Hoa Thường khẽ động, từ giọng điệu này nàng đoán, chắc chắn nhị nương trong lời nói của Lư Độ không phải là nàng, vậy thì người đó là muội muội của gã à?
Ở Minh Hoa Thường có những điểm rất giống với muội muội của Lư Độ, hơn nữa, còn có rất nhiều. Nhưng mà, nếu là như vậy thì cũng vừa hay, Minh Hoa Thường nương theo đó mà hỏi tiếp: “Vì sao nàng ấy lại chết?”“Vì tên cầm thú kia!” Giọng điệu của Lư Độ trở nên kích động, từ trước đến nay gã luôn giữ hình tượng ôn tồn lễ độ, nhưng giờ đây gã lại nghiến răng nghiến lợi, vẻ mặt cũng trở nên hung ác: “Ông ta tự phụ vì cái xuất thân danh môn đó, là Phạm Dương Lư thị nhưng đến cả một chức quan mà cũng chẳng có nổi. Ông ta chẳng chờ được ngày triều đình mời ông ta làm quan, thế là ông ta bèn nói rằng muốn dốc lòng tu Phật, không có ý muốn bước vào hoạn lộ. Nhưng loại người như ông ta đâu có xứng tu Phật, ông ta nghe nói Phật pháp cao nhất của Mật Tông là nam nữ song tu. Ông ta chướng mắt nữ tử không ở trong ngũ họ, huyết thống không thuần, thế nên ông ta đã hướng mắt về phía nữ nhi ruột thịt của ông ta. Nữ tử Lư gia, đương nhiên là sở hữu huyết thống cao quý nhất.”
Lúc phát hiện ra mình bị trói và bị đưa vào mật thất, Minh Hoa Thường không hề kinh ngạc hay hoảng sợ; khi phát hiện ra mình bị hung thủ giết người để mắt đến, nàng cũng chẳng mảy may kinh hoảng; nhưng giờ đây, nàng lại nhíu mày, vẻ khó chịu hiện rõ trên khuôn mặt: “Ngươi đang nói là, cha của ngươi đã xâm hại nữ nhi của chính mình, hơn nữa, còn là lấy danh nghĩa tu Phật pháp ư?”
Lư Độ cười lạnh một tiếng, biểu cảm trên gương mặt gã vặn vẹo, thật sự rơi vào hồi ức: “Đúng vậy, quả đúng là khiến người ta thấy ghê tởm mà. Lúc ta còn rất nhỏ, vì cha cưng chiều muội muội mà chưa bao giờ để ý đến ta, ta vô cùng căm ghét nó. Nhưng vào năm ta mười ba tuổi, khi ta đến phòng cha ta để tìm ông ta, ta đã vô tình bắt gặp ông ta với muội muội… Khi đó nó chỉ mới mười hai tuổi mà thôi, ở ngay nơi đây, trên bệ đá này.”
“Đến tận bây giờ ta vẫn còn nhớ như in cái cảm giác khi ta nhìn thấy cảnh đó. Cơ thể nam nữ trắng lòa vô cùng xấu xí, làm cho người ta thấy ghê tởm vô cùng. Nhưng mẹ lại bỏ mặc, một lòng bái Phật của bà ta, cha thì uy hiếp ta, ông ta nói rằng, nếu như ta rêu rao việc này ra bên ngoài, khiến thanh danh của Phạm Dương Lư thị bị tổn hại, thì ta chính là tội nhân của cả gia tộc. Bản thân ta không có tài cán gì, nếu như còn mất đi thanh danh của Lư thị thì càng không đáng một đồng.”
Minh Hoa Thường lẳng lặng nghe rồi hỏi: “Cho nên, ngươi đã chịu khuất phục?”
“Nếu không thì sao?” Lư Độ cười một cách đầy châm chọc: “Ta còn có con đường nào khác ư? Ta không có cách nào đối mặt với cha, cũng không có năng lực cứu muội muội, chỉ có thể dọn đến chùa Thanh Sơn ở. Ta hỏi trụ trì chùa Thanh Sơn xem ta nên làm gì, trụ trì nói cho ta biết rằng, tu Phật.”
“Kiếp trước muội muội tạo nghiệp, nên đời này nó mới phải trải qua những chuyện này. Nó dùng cơ thể để trả nghiệp, cũng là đang tu hành, chờ sang kiếp sau, nó sẽ được đi đến cõi cực lạc hưởng phúc. Ta tin tưởng vào điều ấy, hai năm sau đó, ta đều ở trong chùa Thanh Sơn dốc lòng tu Phật. Nhưng khi ta mười lăm tuổi, người hầu trong nhà nói với ta rằng muội muội đã chết rồi. Ta nhanh chóng chạy về nhà, phát hiện ra là quan tài của nó đã được đóng đinh vào rồi. Sau khi nó được hạ táng, ta đã lén lút đi xem, trên người nó chỉ toàn là vết xanh vết tím, bị chơi đùa cho đến chết. Ta hỏi trụ trì xem ta nên làm gì bây giờ, hình như là tu Phật không có tác dụng gì, những nghiệt súc kia vẫn sẽ không thể dẫn độ thành Phật. Trụ trì nói rằng, đó là do công đức của muội muội vẫn chưa đủ. Ta dẫn ông ấy đi đến mộ của muội muội, ông ấy lấy xương ống chân của muội muội làm thành sáo xương, rồi ông ấy nói rằng, làm như vậy là có thể giải trừ nghiệp chướng trong luân hồi kiếp trước của muội muội, siêu độ nó vào cõi cực lạc.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về
“Ngươi tin ư?”
“Vạn pháp giai không, duy nhân quả bất không.” Lư Độ cụp mắt lại và chắp tay, sắc mặt gã tái nhợt, gã làm ra tư thế thành kính trong mật thất âm u quỷ dị này, trông vừa hoang đường lại vừa u ám: “Nó nợ nghiệp nên kiếp này nó mới phải như thế. Trụ trì cúng bái sáo xương của nó trước Bồ Tát, mỗi một lần pháp sự [*], mỗi một lần niệm kinh, chính là đang giải nợ cho nó. Chờ đến kiếp sau, chắc chắn là nó sẽ được đầu thai tốt hơn.”
[*] Pháp sự cũng gọi là pháp yếu, Phật sự. Chỉ các việc làm có liên quan đến Phật pháp như tụng kinh, giảng kinh, trai hội,… hoặc chỉ cho sự tu hành.
Minh Hoa Thường nhíu mày, không thể nào hiểu được kiểu nói người bị hại có tội này. Muội muội của Lư Độ phải chịu đựng những thứ này là vị nợ kiếp trước, cha của Lư Độ làm những việc này thì kiếp sau sẽ trả nợ, nhưng ở đời này, nàng ấy đã chết rồi, còn cha của Lư Độ thì lại chẳng cần phải trả giá gì cả, thế thì sang kiếp sau có tác dụng gì?
Nhưng mà, xem ra Lư Độ tin tưởng điều này một cách vô cùng sâu sắc, tin tưởng đến nỗi chẳng nghi ngờ lấy một chút nào cả. Minh Hoa Thường tiếp tục hỏi: “Nếu ngươi đã trả nợ thay cho nàng ấy, vậy thì tại sao ngươi còn phải giết những nữ tử kia?”
Lư Độ chậm rãi mở mắt ra, trong mật thất chỉ thắp một ngọn đèn dầu, khuôn mặt của gã như thêm phần ma quái, đáng sợ dưới ánh lửa lay động: “Đó là bởi vì, khi ta bắt đầu nghị thân, ta lại phát hiện ra rằng, ta không thể sinh ra bất kỳ một loại cảm xúc gì với một nữ tử.”
Khuôn mặt Minh Hoa Thường hơi thay đổi, nàng hơi hơi hiểu ra rồi. Nếu tính toán thời gian thì sẽ thấy, khi giết Ngũ Nguyệt, Lư Độ chỉ mới khoảng mười tám tuổi thôi, là lúc mà gã nóng nảy nhất, tinh lực tràn trề nhất. Nhưng gã lại không thể có cảm xúc gì với những nữ tử bình thường, dục vọng mà đã bị đè nén thì tất nhiên là sẽ được phóng thích ra bên ngoài theo một cách khác.
Lư Độ nhẹ nhàng cười, nỉ non như lời thầm thì của tình nhân: “Ta căm hận tên cầm thú kia đến thế, nhưng rồi, cuối cùng ta lại phát hiện ra rằng, ta cũng giống như ông ta vậy.”
Khi phát hiện ra mình không thích nữ tử hoặc dịu dàng hoặc thanh tú hoặc sáng sủa, mà lại có cảm xúc với những nữ tử yêu kiều nhỏ nhắn mười ba, mười bốn tuổi, gã không biết là gã đã sợ hãi nhường nào nữa. Gã dằn vặt, gã đắm mình trong đau khổ tận hai năm trời, lúc nào cũng thuyết phục bản thân mình rằng, gã không phải là loại người đó, gã tuyệt đối không thể giống với tên cầm thú đó được! Nhưng rồi, có một ngày, gã gần như mất đi ý thức, đến khi tỉnh táo lại thì gã phát hiện ra là mình đang mang nữ ăn mày rất giống muội muội kia về phòng thiền, đồng thời, gã còn đánh nàng ấy ngất xỉu. Sau khi gã luống cuống một lúc lâu, thì bỗng có một ý nghĩ điên cuồng được sinh ra trong gã.
Nàng ấy chỉ là một nữ ăn mày mà thôi, mà gã lại là con cái của Phạm Dương Lư thị, được đi theo gã chính là phúc phận ba đời của nàng ấy. Nếu gã giấu nàng ấy đi, để sau này nàng ấy chỉ hầu hạ gã thôi, thì chắc hẳn là nàng ấy sẽ rất vui lòng.
Cứ vậy, Lư Độ giấu Ngũ Nguyệt ở tế đàn dưới mặt đất. Đây đã từng là nhà bên ngoại của gã, gã lớn lên ở đây từ nhỏ, vô cùng quen thuộc với từng nhành cây, ngọn cỏ của nơi đây. Gã biết rõ dưới chùa Thanh Sơn có mật thất. Về sau mẹ gã một lòng tin vào Phật giáo, đã cải tạo nơi này thành tế đàn để cúng bái Hoan Lạc Phật, một tháng trụ trì còn chẳng tới nơi đây được một lần, quả đúng là chốn “bồng lai tiên cảnh”, vô cùng tuyệt hảo.
Mà trong phòng của gã có một mật đạo thông đến tế đàn. Lúc trước gã chọn ở trong viện này cũng là vì lúc nhỏ gã từng chơi đùa trong mật đạo.
Gã cho rằng, chỉ cần gã chú ý cẩn thận thì chắc chắn là gã có thể giấu giếm được tất cả mọi người. Nhưng Ngũ Nguyệt lại phản kháng rất kịch liệt, suýt chút nữa gã đã để cho nàng ấy chạy đi mất. Rõ ràng nàng ấy chỉ là một nữ ăn mày mà thôi, nếu không có gã, cả đời này nàng ấy chỉ có thể lưu lạc với đám du côn hạ đẳng nhất trần đời này.
Lư Độ hết cách, gã không thể lấy thanh danh của Phạm Dương Lư thị ra để mạo hiểm được, chỉ đành giết chết nàng ấy. Ngũ Nguyệt phải trải qua những chuyện này là vì kiếp trước nàng ấy thiếu nợ oan tình, gã học theo dáng vẻ của trụ trì, cố gắng lấy xương chân để tích công đức cho Ngũ Nguyệt, nhưng cách làm của gã chẳng hề thuần thục, làm cho máu tươi tràn ra đầy đất, cuối cùng, gã còn để cho trụ trì phát hiện ra nữa chứ.
Lư Độ rất bình tĩnh mà nói cho trụ trì biết rằng, nếu như ông ấy báo án, Lư Độ sẽ nói cho quan phủ biết về những lời trụ trì đã từng nói trong mấy lần trước đó, và trong số hai người bọn họ, sẽ không có ai có thể thoát thân được.
Cuối cùng trụ trì cũng không dám mạo hiểm, đồng ý giấu giếm thay cho Lư Độ.
Trụ trì có chìa khóa của chùa Thanh Sơn, vô cùng thuận tiện cho Lư Độ hành động. Vào lúc trời tối, vạn vật tĩnh lặng, Lư Độ đã ném thi thể của Ngũ Nguyệt ra sau núi. Quả nhiên là rất giống với những gì gã dự đoán, chẳng một ai chú ý đến nàng ấy. Gã sống trong yên bình trong khoảng một năm, mãi cho đến năm Thiên Thụ thứ bảy, một lần nữa, gã không thể nhịn được.
Lần này, gã để mắt tới tỳ nữ Vũ Yến của nhà Hoàng Tế tửu. Nàng ấy chỉ là một nha hoàn mà thôi, chẳng cao quý gì mấy, chỉ cần làm giống như lần trước thôi là gã sẽ lại thoải mái che giấu được việc này.
Nhưng mà, gã không thể ngờ được rằng, sau khi gã đưa Vũ Yến đi thì Hoàng Thái Vi đuổi tới, đồng thời, nàng ấy còn bắt gặp gã đang ra tay với Vũ Yến. Lư Độ không còn cách nào, gã chỉ đành đánh cho Hoàng Thái Vi ngất xỉu.
Nhưng mà, lần này, sau khi giải quyết xong hậu quả thì đã xảy ra chút vấn đề, Hoàng Tế tửu chợt tìm tới tận nơi, Lư Độ chỉ đành vội vã vận chuyển người ra ngoài, suýt chút nữa là đã bị phủ Kinh Triệu bắt được.
Thiên kim của Tế tửu Quốc Tử Giám bị hại, tiếng tăm của vụ án vang xa, quét sạch cả thành Trường An, trụ trì của chùa Thanh Sơn và Lư Độ cũng giật mình kinh hãi. Trụ trì và Lư Độ cãi nhau một trận lớn, ông ta không chịu để cho gã ở nhờ trong chùa Thanh Sơn nữa, Lư Độ chỉ đành về nhà cha.
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về
Nhưng, kho gã nhìn cha mẹ của mình, gã thật sự không thể chịu đựng được. Hai lần giết người liên tục dường như đã chỉ dẫn cho gã một con đường hoàn toàn mới, Lư Độ cũng chợt nhận thức được rằng, gã cũng có thể sát hại bọn họ.
Giết hai người đó dễ dàng hơn nhiều so với việc giết đám người Ngũ Nguyệt. Gã bỏ thêm độc vào trong nước trà của bọn họ, chẳng mấy chốc, bọn họ đã co quắp rồi ngã lăn xuống đất, không còn động đậy nữa. Lư Độ nhìn bọn họ từ trên cao, vẫn cảm thấy thân thể trắng lòa kia rất ghê tởm.
Sau đó gã đưa hai người đó lên giường, nhóm lửa đốt màn che, tạo ra hiện trường trống như hiện trường hỏa hoạn. Gã đoán chắc hướng gió và tốc độ bốc lửa, cố ý nằm trong biển lửa, chờ người khác “cứu lấy” gã.
Tiếp theo đó, mọi chuyện vẫn giống như gã đã suy đoán. Người hầu tưởng là cháy ngoài ý muốn, mọi người đều đồng cảm với gã. Lư Độ cũng trở thành người duy nhất có tiếng nói trong Lư gia. Việc đầu tiên mà gã làm chính là cho tất cả người hầu già thôi việc, chỉ có vậy thì mới không có ai biết được chân tướng ghê tởm của Lư gia.
Sau khi giết cha mẹ mình, cuối cùng Lư Độ cũng cảm thấy lòng mình sáng tỏ. Gã không còn đi săn thiếu nữ để giảm bớt áp lực cho mình nữa, thậm chí là gã còn có sức lực đi niệm kinh cầu phúc cho bọn họ. Gã sống một cuộc sống bình lặng như thế suốt bốn năm, mãi đến khi, có một kẻ bắt chước đầy ngu xuẩn đã giả mạo gã để gây án.
Lư Độ không thể chịu đựng được việc người đời khinh thường gã, vì thế, gã tình nguyện giết thêm một người nữa để chứng minh sự ưu nhã, hoàn mỹ của bản thân mình.
Lần này gã cũng cho rằng mọi chuyện vẫn sẽ giống như hai vụ án trước đó, tra tới tra lui rồi cũng không giải quyết được gì. Nhưng vị Thiếu doãn mới tới của phủ Kinh Triệu vô cùng khó chơi, lại tra đến tận Quốc Tử Giám, thậm chí là nhiều lần tới tìm gã để tra hỏi nữa. Từ ánh mắt đen láy đầy bình tĩnh của thiếu niên kia, gã có thể nhìn ra được rằng, hắn đang nghi ngờ gã.
Việc thẩm tra càng ngày càng chặt chẽ, Lư Độ hơi sợ hãi, sau nhiều năm trời, một lần nữa, gã lại tới thăm chùa Phổ Độ… bấy giờ đã được gọi là chùa Phổ Độ, yêu cầu trụ trì giúp đỡ gã thoát tội.
Không chỉ vì gã mà còn là vì bọn họ. Nếu như chuyện lúc trước bị truyền đi, trụ trì cũng sẽ không được yên ổn gì. Cho dù trụ trì là người đứng ngoài, có thể không bị trị tội, nhưng tất nhiên là việc hương hỏa của chùa Phổ Độ sẽ tuột dốc không phanh, nếu thế thì chẳng thà cứ giết trụ trì luôn đi.
Cuối cùng trụ trì cũng đồng ý. Trụ trì vào thành Trường An giảng kinh theo thời gian mà Lư Độ đã chỉ định, vì thế, ông ta đã cố ý dẫn theo tất cả tăng nhân, chỉ để lại mỗi mình Sầm Hổ, tạo ra cơ hội “trộm đồ” cho Sầm Hổ. Sau đó trụ trì bảo Sầm Hổ đi lên núi cùng với Lư Độ, còn ông ta thì ở lại chùa, làm cho phòng thiền của Sầm Hổ trở nên lộn xộn, tạo ra cảnh tượng giả để mọi người nghĩ là Sầm Hổ đã bỏ chạy. Lư Độ cố ý đi đến đoạn đường nguy hiểm, nhân lúc Sầm Hổ không phòng bị mà đẩy hắn ta xuống đáy vực.
Sầm Hổ ngã chết ngay tại chỗ, Lư Độ thản nhiên đi xuống vách núi, nhét giấy tờ, tiền tài vào vạt áo Sầm Hổ, cố ý đạp nát sáo xương. Cứ để cho những vật chứng này chết theo Sầm Hổ, cùng yên giấc ngàn thu trong bụi trần đi.
Sau này thì mọi chuyện cũng đi theo đúng ý gã, phủ Kinh Triệu định tội Sầm Hổ là hung thủ, vụ án đã kết thúc. Lư Độ bị người khác giả mạo “tác phẩm” của mình là gã đã thấy không thích rồi, thế mà gã còn gặp một tiểu nương tử không biết trời cao đất rộng, dám đứng trước mặt gã mà khoe khoang về huynh trưởng của mình.
Quý tộc đắc ý, người trẻ tự tin, mỗi một chữ này đều đâm trúng vào điểm đau trong lòng Lư Độ. Lư Độ không thể nhịn được nữa, bèn quyết định ra tay dạy cho vị Thiếu doãn phủ Kinh Triệu không biết sống chết ra sao đó một trận.
Minh Hoa Thường quá sức phù hợp với ảo tưởng của gã. Đáng tiếc thay, tuổi của nàng có phần hơi lớn, nhưng dung mạo nàng lại xinh đẹp, ngoan ngoãn và đáng yêu, miễn cưỡng lắm thì vẫn thấy được.
Lư Độ hoàn hồn lại, thoát ra khỏi dòng suy nghĩ dài đằng đẵng của mình, bấy giờ gã mới phát hiện ra là đã trôi qua một lúc lâu rồi. Gã không còn kiên nhẫn tán gẫu với cừu non nữa, gã lấy đạo cụ ra và nói: “Rõ ràng là đã nói cho các ngươi biết rồi mà, thế thì tại sao các ngươi vẫn không chịu ngoan ngoãn cơ chứ? Muội muội không nghe lời thì phải nhận lấy sự trừng phạt.”
Minh Hoa Thường nhìn chằm chằm vào ánh sáng sắc bén được hắt vào mũi dao, tâm tình căng thẳng, không ngừng cầu nguyện cho Nhậm Dao, Giang Lăng hãy chạy đến nhanh đi. Trước khi uống trà, nàng đã lặng lẽ dùng ám hiệu truyền âm rồi, hay là bọn họ không nghe thấy?
Trời ạ, nàng sẽ không xui xẻo đến mức kịch giả thành thật, thật sự tiêu đời ở đây phải không?
Trông Lư Độ vô cùng kích động, trông rất thần kinh, gã còn lẩm bẩm: “Ngươi như vậy, Trình Tư Nguyệt cũng như vậy. Các ngươi muốn cái gì là có cái đó, tại sao cứ muốn chạy lung tung cơ chứ?”
Minh Hoa Thường muốn kéo dài thời gian cho chính mình, nàng cố ý hỏi: “Ngươi đã làm thế nào để lừa gạt Trình Tư Nguyệt ra đây?”
Lư Độ cười lạnh một tiếng rồi nói: “Thật sự quá đơn giản, chỉ cần nhờ bồ câu gửi đến một bức thư, nàng ta đã hí ha hí hửng thoát ra khỏi các nha hoàn và thị vệ, một mình đến dự tiệc. Ta đưa nàng ta đến phòng thiền, nàng ta uống trà mà không hề phòng bị gì, cũng giống như ngươi vậy đấy. Và ta đã phân xác nàng ta ngay tại chỗ này.”
“Ngươi luôn miệng nói là ngươi tin Phật, nhưng ngươi lại làm ra chuyện “thương thiên hại lý” đến mức độ này, ngươi cảm thấy tín ngưỡng của mình thuần khiết thật ư?”
Dường như lời nói này đã chọc giận Lư Độ, gã sầm mặt, lạnh lùng nói: “Đừng kéo dài thời gian nữa. Đều là do ngươi tự ý muốn làm thế, không nghe lời, không tự trọng nên mới rơi vào bước đường này, đây đều là do ngươi tự chuốc lấy! Kiếp sau ngươi hãy nhớ chuộc tội, làm muội muội ngoan ngoãn biết nghe lời đi.”
Nói rồi, Lư Độ nâng dao lên, dùng sức đâm về phía cần cổ của Minh Hoa Thường, Minh Hoa Thường lặng lẽ cầm lấy chiếc nỏ ngắn trong ống tay áo, đang định buông cò ra thì bên trên chợt truyền đến một tiếng “ầm” đầy vang dội, như thể là có thứ gì đó vừa bị đá văng. Ngay sau đó, một luồng gió xẹt mạnh qua, giọng quát mắng của một nữ tử như nổ vang bên tai nàng: “Đồ hèn nhát, chỉ biết ra tay với nữ tử “tay không tấc sắt”, có gan thì đánh với ta này! Cái đồ vô dụng này, mau để mạng lại đây đi!”
Minh Hoa Thường khiếp sợ mở to hai mắt ra, chợt thấy ánh sáng bạc lướt nhanh qua, chùm tua đỏ cắt ngang sự u tối của nơi đây, nó tựa như một tia chớp vậy, bắn ra như rồng, khí thế hừng hực. Nàng còn chưa hoàn hồn lại được, thì dây trói cổ tay đã bị dao sắc chặt đứt, có người ôm lấy nàng từ phía sau, cánh tay hắn vững vàng và mạnh mẽ, nhưng lại bất giác run lên: “Thường Thường, không sao rồi, ta đến rồi.”