Điện thoại đổ chuông lúc hai giờ chiều, ngày 14 tháng 8. Khi ấy tôi đang ngồi trong phòng, nghiền ngẫm một cuốn sách thiên văn về sự chuyển động biến thiên của những ngôi sao kép. Ngoài trời đổ mưa như trút, những giọt nước nặng nề đập rào rào vào cửa sổ và gió hú không ngừng giữa các ngọn cây. Bố mẹ đã đi làm cả, nên ở nhà chỉ có mình tôi.
Nghe thấy tiếng chuông, tôi ném cuốn sách của mình lên giường và chạy xuống tầng một để nhấc máy.
“A lô?”
Chẳng có lời hồi đáp nào cả. Một sự im lặng kéo dài. Đó có lẽ là một cuộc gọi từ Hajikano, tôi đoán thế. Tôi không thể tưởng tượng được bất cứ ai khác làm trò này ngoài cô ấy.
“Hajikano đấy à?” Tôi hỏi một lần nữa, nhưng vẫn không thấy tiếng trả lời.
Nó không giống như lần trước, khi mà hai chiếc điện thoại ở hai nơi khác nhau cùng đổ chuông một lúc và chúng tôi được kết nối bằng phép màu nào đó. Sự im lặng này rõ ràng là cố ý, tôi có thể cảm thấy rằng người bên kia biết rằng tôi đang nói nhưng vẫn không nói gì cả. Mặt khác, dường như người đó đang phân vân xem có nên nói hay không, chứ không phải không nghĩ ra điều gì để nói.
Và rồi, cuộc gọi kết thúc một cách đột ngột. Đó là tất cả à? Tôi lầm bầm như vậy khi đặt ống nghe xuống.
Tiếng mưa rơi ở đây to một cách bất thường. Tôi nhìn ngó xung quanh và phát hiện một cánh cửa sổ đã bị thổi bật ra, sàn nhà phía dưới bị mưa hắt thành vũng. Tôi chốt cửa lại, lấy giẻ lau khô sàn rồi đi một vòng quanh nhà kiểm tra cửa nẻo.
Khi trở lại phòng riêng, tâm trí tôi vẫn chưa thể thoát khỏi cuộc gọi kì lạ đó. Và rồi tôi đột nhiên nghĩ đến một điều.
Có lẽ mình mới là người cần phải nói.
Có lẽ, người bên kia không phải chỉ đơn thuần là im lặng. Người đó đang chờ đợi giọng nói của tôi.
Cảm giác bứt rứt khó chịu trào lên trong đầu. Tôi khoác vội một cái áo parka ra ngoài áp sơ mi, sau đó tức tốc đạp xe đến nhà Hajikano mà không cần ô dù gì cả. Sau vài giây bấm chuông cửa liên hồi, Aya xuất hiện.
“...Hử, Yocchan?” Chị ấy nói với vẻ thất vọng. Phản ứng đó gần như đã xác nhận lại linh cảm xấu của tôi.
“Có chuyện gì xảy ra với Yui, phải không ạ?” Tôi thấp thỏm hỏi.
“Ừ.” Aya gật đầu, “Và có vẻ như cậu biết gì đó. Vào trong đi. Tôi sẽ cho cậu mượn một cái khăn lau.”
“Nói cho em ngay ở đây, làm ơn.”
Aya dừng bước ở ngưỡng cửa, chị quay lại phía tôi, và thở dài.
“Yui đang mất tích. Con bé rời khỏi nhà vào tối qua như thường lệ, nhưng đến giờ vẫn chưa trở lại. Tất nhiên, đúng ra thì đó cũng không phải một điều quá đáng lo. Đây chẳng phải lần đầu tiên Yui ra ngoài gần cả ngày trời, và cũng có thể con bé đang trú tạm ở đâu đó vì mưa quá to… Nhưng tôi có dự cảm không lành.”
Sau một thoáng do dự, tôi nói: “Ai đó vừa mới gọi đến nhà em. Không có căn cứ gì cả nhưng em thực sự nghĩ đó là Yui. Cô ấy chỉ gọi đến, giữ im lặng suốt hai phút, sau đó cúp máy mà không giải thích gì cả.”
“Nếu đó thực sự là Yui,” Chị khép hờ mắt trong nhẹ nhõm, “Vậy là ít nhất con bé vẫn an toàn, nhỉ…”
“Khi nãy chị nói tới dự cảm không lành, là thế nào vậy?”
Aya nhìn chằm chằm ra màn mưa nặng hạt bên ngoài. “Bởi vì ngay từ đêm qua, con bé đã có chút gì đó khác thường. Tôi tình cờ chạm mặt Yui ở dưới bếp. Lúc đấy tôi đang đói ngấu và chỉ tập trung lục lọi trong tủ lạnh còn con bé thì đang đi qua hành lang để ra cửa sau. Bình thường thì Yui còn hiếm khi để ý đến ai ngay cả khi gặp trực tiếp mặt đối mặt, thế nhưng nó đột nhiên dừng lại ở cửa bếp và nhìn tôi không chớp mắt như thể đang thấy thứ gì đó hết sức kì lạ vậy. Tôi khi đó không quan tâm mấy và tiếp tục tìm đồ ăn. Sau khoảng mười giây như thế, con bé dừng việc nhìn tôi và bỏ đi, nhưng trước đó nó kín đáo cúi đầu như thể đang chào tôi trước khi rời nhà vậy - cậu cũng hiểu tất cả những chuyện này là không bình thường, đúng không?”
“Cô ấy không nói gì ạ?”
“Không nói gì dù chỉ một từ.” Nét mặt Aya trở nên u ám. “Ừm, có lẽ chuyện này không liên quan nhưng… Khi một đứa bạn cũ của tôi tìm đến cái chết, nó cũng đã giống như vậy.”
“Bạn cũ?” Tôi lặp lại
“Bạn cùng lớp hồi cấp hai. Thành thực mà nói, bọn tôi không được thân thiết cho lắm. Nhỏ đó hình như còn hơi ghét tôi nữa, và vì tôi tự ái nên cũng đâm ra ghét lại nhỏ. Đến tầm mùa thu năm hai thì đột nhiên nhỏ nghỉ học liên tục suốt một tháng trời. Thế rồi nhỏ đột nhiên gọi điện cho tôi, nói và nói, liên tục không ngừng nghỉ. Tôi muốn hỏi xem tại sao nhỏ không đi học, nhưng thái độ đó rõ ràng là không muốn bị hỏi, vậy nên tôi cũng đành ngậm miệng. Trước khi gác máy, nhỏ nói một cách lấp lửng “Cảm ơn vì ngày hôm nay”. Và thế là hết.”
“...Hết?”
“Tự sát. Vài giờ sau cuộc gọi.” Giọng Aya đều đều. “Người ta tìm thấy nhỏ đó treo cổ trong khu rừng ven biển. Không có thư tuyệt mệnh hay gì hết. Rồi vài ngày sau đó, tôi chợt nhận ra “À, vậy cuộc gọi đó thực sự là một dấu hiệu”. Hai tiếng cảm ơn ấy chính là thư tuyệt mệnh của nhỏ rồi.”
Tôi mất vài giây để hiểu được sự liên hệ trong câu chuyện của chị ấy. “Chị Aya… Chị nghĩ là Yui muốn tự tử?”
Nhưng tại sao chứ? Thế này không hợp lý. Rõ ràng tâm trạng của Hajikano đã khá lên rất nhiều trong thời gian gần đây. Tôi vẫn còn nhớ vẻ hạnh phúc khi cô ấy tận hưởng khung cảnh mưa sao băng Perseid vài ngày trước. Làm sao một người như thế có thể tự tử được?
Không, nghĩ lại… tôi bất chợt nhìn thấy một giả thiết khác. Có khi nào Hajikano trở nên thoải mái chỉ vì ngay từ đầu cô ấy đã đưa quyết định kết thúc cuộc đời mình rồi? Có khi nào chính vì biết rằng mình sẽ vĩnh viễn rời khỏi thế gian này chỉ sau vài ngày nữa, nên cô ấy mới tận hưởng từng khoảnh khắc một cách thuần khiết như thế?
“Tôi không biết.” Aya lắc đầu. “Đó chỉ là một khả năng thôi. Tôi đã báo cảnh sát, nhưng vì Yui chỉ vừa mới mất tích nên họ không nghiêm túc với vụ này cho lắm. Bố mẹ bọn tôi cũng đang đi tìm con bé.”
“Vậy chúng ta cũng đi thôi.” Tôi đề nghị. “Càng nhiều người càng có cơ hội. Em sẽ gọi cho bọn bạn hỏi thử nữa. Em mượn điện thoại của chị được không?”
“Cứ dùng nó đi.” Chị ấy chỉ vào cái máy bàn trong hành lang. “Nhưng xin lỗi, tôi sẽ không đi cùng cậu.”
Giọng tôi không thể giấu được sự bực tức: “Chị Aya, đây không phải lúc để cứng đầu như vậy! Em không quan tâm trước đây chị đã nói gì, em chắc chắn nếu bây giờ chị không làm gì cả và rồi Yui thực sự tự sát, chị sẽ bị dày vò bởi sự hối hận. Không cần biết là vài ngày sau hay vài năm sau, chị sẽ đau khổ vì quyết định ngay lúc này. Bởi vì chị không ghét em gái mình như những gì chị nghĩ đâu.”
“Tất nhiên tôi biết điều đó!” Chị hơi gằn giọng. “Nhưng tôi phải ở đây để chờ cuộc gọi từ con bé. Tôi sẽ không đi đâu cả.”
“...Chị thực sự nghĩ cô ấy sẽ gọi về nhà?”
“Không chắc chắn. Nhưng việc chạy ra ngoài tìm lúc này là vô nghĩa. Nếu Yui quả thực muốn chết, chúng ta chẳng có cách nào để ngăn con bé lại cả. Con bé đủ thông minh để không bị tìm thấy, và khi tìm được thì nó cũng đã chết rồi. Mặt khác, nếu như nó vẫn còn phân vân thì sao? Cậu không nghĩ rằng nó có thể cũng sẽ gọi tới đây giống như đã gọi cho cậu sao, Yocchan? Chính vì thế, lựa chọn duy nhất của tôi là ở đây và chờ đợi.”
Aya và tôi nhìn nhau trừng trừng mất một lúc. Tôi ghét phải thừa nhận điều này, nhưng chị ấy đã đúng. Nếu như Hajikano thực sự không muốn bị chúng tôi phát hiện, chỉ tìm kiếm một cách hú họa trong cơn mưa dày đặc thế này thực sự là vô ích. Nói vậy nghĩa là tất cả những gì có thể làm lúc này chỉ là chờ đợi cho một hi vọng rằng ý muốn tự sát của Hajikano sẽ dao động, và nhanh chóng nắm lấy khoảnh khắc cô ấy ngả về phía sự sống?
Không. Khoảnh khắc ấy thực sự đã tồn tại khi cô ấy gọi cho tôi mà không nói gì hết. Nhưng đồng thời, tôi đã bỏ lỡ nó. Giờ thì không thể cầu nguyện rằng cơ hội ấy sẽ quay trở lại nữa rồi.
Có nghĩa là buộc phải hành động.
Tôi chạy ngang qua Aya và quay số gọi đến nhà Hinohara. Sau mười hồi đổ chuông, anh trai của hắn nhấc máy. Tôi hỏi xem Hinohara có ở nhà không và anh ta nói rằng hắn đã ra ngoài. Tôi lại hỏi xem Hinohara đi đâu, thế rồi anh ta trả lời cộc lốc “Biết thế đếch nào được!” và dập máy. Rõ ràng hắn sẽ không đi ngắm sao trong cái thời tiết này, nên tôi chẳng thể đoán được hắn đang ở đâu cả.
Tôi quay số lại để gọi cho Chigusa. Cô ấy nhấc máy ngay lập tức.
“Tớ không có thời gian để giải thích chi tiết.” Tôi nói một mạch mà không thèm chào hỏi, “Nhưng Hajikano biến mất rồi! Làm ơn giúp tớ đi tìm cô ấy!”
“Ơ… là Fukamachi phải không?”
“Ừ, tớ đây. Tớ thực sự xin lỗi vì bắt cậu ra ngoài trong lúc trời mưa thế này, nhưng xin hãy đi với tớ.”
“Hajikano xảy ra chuyện rồi sao?”
“Tớ không biết, nhưng chị gái cô ấy nói rằng có linh cảm xấu và tớ cũng thấy thế. Thực ra cách đây một tháng tớ đã chứng kiến cô ấy cố gắng tự sát rồi. Có thể cô ấy sẽ lại làm thế một lần nữa.”
Tôi nói ngắn gọn, bụng nghĩ rằng Chigusa chắc chắn nhiêu đó thông tin là đủ để cô ấy đồng ý giúp tôi mà không ý kiến gì thêm.
Hóa ra không phải thế.
Cô ấy im lặng, như thể thời gian đột nhiên ngưng lại ở đầu dây bên kia.
“...Có chuyện gì thế? Sao cậu không nói gì cả?”
“Ừm, Fukamachi.” Chigusa bình thản nói. “Xin đừng ghét tớ vì chuyện này, nhưng điều tớ sắp sửa nói có hơi tồi tệ.”
“Thôi nào! Bây giờ không phải lúc nói---”
“Tớ nghĩ, chúng ta nên để cô ấy đi thì hơn.”
Ban đầu, tôi nghĩ mình đã nghe nhầm gì đó.
Rồi tôi nghĩ mình đã hiểu sai vài từ. Chính xác hơn, bộ não của tôi từ chối việc tiếp nhận câu nói ấy.
Bởi vì Chigusa mà tôi biết, lẽ ra sẽ không bao giờ nói một điều như vậy.
“Cậu… bảo gì cơ?” Tôi hỏi lại trong hoang mang.
Chigusa không có ý định nhắc lại. Cô ấy nói tiếp một cách bình tĩnh. “Fukamachi. Cậu có biết cơ hội cuối cùng mà phù thủy trao cho nàng tiên cá để giữ lại mạng sống sau khi khi hoàng tử đem lòng yêu người khác, là gì không?”
“...Cậu đang nói chuyện quái quỷ gì vậy?”
“Đó là đâm chết hoàng tử bằng một con dao găm. Nếu cô cắm lưỡi dao vào tim hoàng tử và để máu chảy xuống chân mình, đôi chân sẽ quay lại thành đuôi cá, và nàng tiên cá sẽ sống.” Chigusa nói liền một mạch, tự trả lời câu hỏi của chính mình. “Nghĩ thử xem, điều gì sẽ xảy ra nếu Hajikano - người nắm giữ chìa khóa cho ván cược của cậu - lại đột nhiên chết đi? Khi đó, việc cô ấy có yêu cậu khi hạn chót đến hay không sẽ vĩnh viễn là một điều bí ẩn. Và như thế, ván cược rơi vào bế tắc...”
“Đợi đã!” Tôi gần như hét lên và cắt ngang lời cô ấy, “Ogiue, sao cậu lại biết về ván cược của tớ?! Tớ chưa từng nói với ai về nó cả!”
Tất nhiên, không có câu trả lời.
“...Tình cờ, Hajikano đã tự có ý định tìm đến cái chết. Cậu chỉ cần để cô ấy làm điều mình muốn. Thậm chí không cần dùng đến một con dao găm nữa. Ngoài ra,” Cô ấy hắng giọng, “Fukamachi. Cậu thực sự nghĩ rằng cái bớt là tất cả nguyên nhân dẫn đến tình trạng của Hajikano?”
“Không lẽ nó liên quan đến những chuyện xảy ra trong bốn ngày nghỉ đó?”
“Đúng vậy.” Chigusa đáp. “Bằng cái chết của mình, cô ấy sẽ có thể chuộc lại một tội lỗi trong quá khứ.”
“...Nghe này, Ogiue, làm ơn.” Tôi nài nỉ, “Tớ thừa nhận là mình có tò mò về điều đó, và tớ cũng có cả tấn câu hỏi dành cho cậu, như việc làm thế nào cậu biết tất cả những điều này. Nhưng ngay bây giờ trong lúc chúng ta đang nói chuyện, thì Hajikano có thể đang đi thẳng tới cái chết của cô ấy. Tớ phải ngăn việc đó lại.”
“Vậy à…” Chigusa đáp, giọng cô ấy đầy thất vọng. “Nếu thế, cứ tiếp tục công việc của cậu. Có lẽ tớ sẽ cầu nguyện cho cậu không tìm ra cô ấy.”
Cúp máy. Đầu tôi như muốn nổ tung bởi những thắc mắc, nhưng tôi gạt tất cả sang một bên và chạy khỏi nhà Hajikano. Tôi đến khách sạn Masukawa, lục tung mọi ngóc ngách của đống đổ nát nhưng không thấy tăm hơi Hajikano đâu cả. Tôi lại thử tìm đến công viên bỏ hoang trên đền thờ, khu rừng cạnh bãi biển, trường Minagisa Đệ Nhất, trường tiểu học mà tôi và cô ấy từng học chung, ga tàu điện Chakagawa - tất cả những nơi có dính dáng đến cô ấy mà tôi hình dung được. Cơn mưa ngày càng lớn cho đến khi nó trở thành một cơn bão. Tôi ướt sũng từ đầu đến chân như thể đang bơi dưới một biển nước, và đôi giày thể thao dính đẫm bùn lầy đến mức không còn có thể nói được ban đầu nó có màu gì. Thế nhưng bất chấp tôi có căng mắt ra bao nhiêu đi chăng nữa, tôi vẫn không tìm thấy Hajikano. Đúng như Aya đã nói, nếu cô ấy đã thực sự muốn không ai tìm được, thì sẽ không một ai trên đời này tìm được.
Không… Biết đâu, biết đâu rằng nếu như tôi hiểu Hajikano hơn, như một người thân thiết với cô ấy, tôi có thể nghĩ ra được nơi cô ấy đến. Nhưng không. Rốt cuộc, có lẽ tôi thậm chí chẳng hiểu được chút nào nơi con người cô ấy.
Tôi quay lại kiểm tra khách sạn Masukawa một lần nữa, nhưng vô vọng. Đến khi quay lại nhà Hajikano thì đã là hai giờ sáng. Không hiểu sao tôi có chút do dự khi bấm chuông, vậy nên tôi chỉ gõ cửa. Aya ra mở ngay sau đó.
Thấy mặt tôi, chị ấy chỉ lắc đầu.
“...Không có cuộc gọi nào sao?”
“Ừ.” Aya bất lực gật đầu. “Cậu thì thế nào?”
“Em vẫn chưa tìm thấy… Có lẽ em sẽ thử một vài nơi khác.”
“Đừng, cậu kiệt sức rồi.” Aya nhìn tôi đầy tội nghiệp, “Nghỉ ngơi đi, vào nhà và tắm nước nóng. Thay cái bộ quần áo ướt sũng đó ra nữa. Tôi sẽ cho cậu mượn đồ của bố.”
“Em cảm ơn, nhưng mà, không. Đằng nào thì chúng cũng sẽ ướt tiếp thôi.”
Chị ấy chộp lấy vai tôi: “Đủ rồi! Nghe tôi này, cậu phải nằm nghỉ ít nhất là ba mươi phút, hiểu không? Cậu có biết bây giờ da mình tái nhợt thế nào không? Cậu trông chẳng khác nào cái xác chết vậy!”
“Em lúc nào cũng trông như vậy cả. Từ khi sinh ra.”
Vùng ra khỏi tay Aya, tôi quay trở lại với cơn mưa như trút nước.
Cứ thế, tôi tìm kiếm và tìm kiếm cho đến tận lúc mặt trời lên, nhưng Hajikano vẫn bặt tăm. Tôi đành phải quay về nhà, trong bộ dạng ướt sũng và phờ phạc.
Việc đầu tiên tôi làm khi tới nhà, trước cả khi thay quần áo, trước khi nhận ra rằng đây hoàn toàn không phải một thời điểm thích hợp - là gọi điện cho Chigusa. Tôi muốn biết phần còn lại trong câu chuyện của cô ấy. Tôi có hàng trăm câu hỏi cho cô ấy. Nhưng chỉ có tiếng âm báo không ai bắt máy vang lên liên tục. Cả nhà cô ấy đều đang ngủ sao? Hay tất cả họ đều đang ra ngoài đi đâu đó?
Tôi đành bỏ cuộc và đặt ống nghe xuống, cởi quần áo ướt và ngâm mình trong bồn nước nóng suốt một lúc lâu. Đầu óc tôi trống rỗng. Rời khỏi phòng tắm, tôi mặc đồ ngủ, ăn chút cơm nguội ngắt trong nồi cơm điện, đánh răng rồi vùi mình trong tấm futon. Tôi nghĩ mình sẽ không thể ngủ được trong tình trạng bồn chồn thế này, nhưng sự mệt mỏi kinh khủng ập đến và tôi nằm li bì suốt năm tiếng đồng hồ như một cục đá.
Những tia nắng chói chiếu xuyên qua rèm cửa đánh thức tôi. Ngược lại với ngày hôm qua, bão đã tan, trời quang đãng và thời tiết hết sức dễ chịu. Đầu tôi đau nhức nhối và rõ ràng tôi cần ngủ thêm ít ra là ba tiếng nữa, nhưng tôi vẫn ngồi dậy và ra khỏi tấm futon. Mọi chuyện xảy ra đêm qua chẳng khác nào một giấc mơ tồi tệ, có điều tôi không thể tự lừa mình tin vào điều đó được nữa. Loạng choạng lê bước xuống cầu thang, tôi quay số gọi đến nhà Hajikano, và Aya nhấc máy chỉ sau hồi chuông thứ hai.
“Tôi vừa mới định gọi cho cậu.” Giọng chị ấy đầy ngạc nhiên.
“Nghĩa là có tiến triển rồi?”
“Ít nhất điều tồi tệ nhất đã không xảy ra. Tìm thấy Yui rồi, còn sống.”
Tôi thở phào nhẹ nhõm và đổ gục xuống sàn.
Mặt khác, lời nói của Aya không hoàn toàn chứa đựng sự yên tâm. Giống như có tin tốt và tin xấu, và chị ấy mới chỉ nói cho tôi tin tốt vậy.
“Tránh được điều tồi tệ nhất… Tức là vẫn có chuyện không hay xảy ra ạ?”
“Ừ.” Chị đáp, “Linh cảm xấu của tôi là đúng. Lúc bình minh sáng nay, Yui đã tự lao mình xuống biển.”
Hơi thở nghẹn lại trong cổ họng tôi. Biển. Tôi đã hoàn toàn bỏ qua nó. Tại sao tôi có thể không tìm kiếm ở nơi đó chứ? Rõ ràng lần tái ngộ không mấy tốt đẹp của hai đứa đã gây ấn tượng mạnh với tôi đến mức tôi cứ đinh ninh rằng cô ấy sẽ lại chọn cách treo cổ. Và, có lẽ bãi biển đối với tôi là thứ gì đó hoàn toàn không dính đến sự chết chóc.
“Không còn từ nào để miêu tả chuyện này ngoài một phép lạ. Dường như con bé đã cực kì may mắn và được sóng đẩy ngược lại và bờ. Một cặp vợ chồng già đi dạo lúc sáng sớm tìm thấy nó nằm bất tỉnh trên bãi biển. Họ đã gọi 119 ngay lập tức và bà vợ còn từng được huấn luyện cứu hộ nữa, nên bà ấy đã làm hầu hết mọi việc trước cả khi xe cấp cứu đến. Bệnh viện báo Yui chỉ vừa mới tỉnh lại, nó đang khá hoảng loạn nhưng vẫn có thể nói chuyện, thế nên có lẽ không có tổn thương nào nghiêm trọng về não bộ.... Họ chỉ bảo rằng tạm thời chưa nên gặp con bé. Họ nói thế với gia đình tôi ấy, cho nên nó sẽ còn khó hơn đối với cậu Yocchan.”
Hơi thở tôi trở nên gấp gáp khi lắng nghe từng lời của chị ấy. Tôi thậm chí không chắc rằng mình nên cảm thấy thế nào. Tôi nên thấy vui vì Hajikano đã không sao, thấy buồn vì cô ấy thực sự đã muốn tự tử, hay thấy kinh ngạc vì sự may mắn ấy? Bằng cách nào đó, điều này nhắc tôi nhớ đến chuyện xảy ra ở bãi biển hồi bảy tuổi.
“Chị định sẽ làm gì, chị Aya?”
“Tôi vừa mới nói chuyện với bố mẹ. Cả ba đều đồng ý rằng khi Yui ra viện, con bé nên đến sống ở nhà bà ngoại trong quá trình hồi phục. Nó có thể tách biệt với thế giới bên ngoài một thời gian.”
“Em hiểu… Thế là ổn nhất nhỉ.”
“Yocchan, nghe này, tôi nghĩ rằng cậu đã làm rất tốt.” Aya nhẹ nhàng nói. “Mặc cho Yui có từ chối cậu đến mức nào, cậu vẫn đã không bỏ rơi con bé. Cậu không sốt ruột và cố gắng cưỡng ép nối lại mối quan hệ của hai đứa trước đây, thay vào đó cậu kiên nhẫn ở bên cạnh Yui và giúp đỡ nó từ một khoảng cách vừa đủ. Cậu đã có thể đi chơi cùng con bé vào mỗi tối. Cậu thậm chí còn giúp con bé có được vài người bạn nữa. Chứng kiến tất cả những chuyện đó, tôi tin rằng không ai khác ngoài cậu có đủ khả năng tạo ra một phép màu như vậy, Yocchan. Cậu đã làm tất cả những gì có thể. Nghĩa là cho dù có bất kì ai khác cố hết sức đi chăng nữa, cũng không ngăn cản được ý muốn tự tử của con bé. Đừng tự đổ lỗi cho bản thân. Nó có lẽ chỉ là một chuyện buộc phải xảy ra mà thôi.”
“Thực sự cảm ơn chị.” Tôi đáp, rồi buột miệng nói thêm, “Và em xin lỗi.”
“Tôi đã nói rồi, không việc gì phải xin lỗi cả.” Aya cười gượng gạo.
Ngay khi chị ấy gác máy, tôi lập tức gọi cho Chigusa lần nữa. Tôi phải hỏi những gì cô ấy biết về ván cược bí ẩn của tôi.
Một giả thiết đã dần dần hình thành trong tâm trí tôi - có lẽ là trong lúc ngủ - về lí do tại sao cô ấy lại biết nhiều đến vậy.
Đó chỉ có thể là do Chigusa Ogiue cũng đã trải qua một ván cược như thế này.
Giả sử người phụ nữ bên kia đầu dây không tạo ra trò chơi này cho một mình tôi. Cô ta có thể đã đưa ra lời đề nghị với vài người, vài chục hay thậm chí vài trăm người - có thể có vô số những đối tượng khác từng chơi ván cược này với cô ta, và Chigusa là một trong số họ. Chigusa đã thắng, hoặc không thắng nhưng vẫn tìm được cách để sống sót. Thế rồi cô ấy nhận thấy bạn cùng lớp của mình, Yosuke Fukamachi, tình cờ có hàng loạt dấu hiệu cho thấy đã tham gia một ván cược giống như cô từng tham gia. Trùng hợp thay, cô ấy biết được kẽ hở trong luật lệ của trò chơi này.
Trong vô số giả thiết mà tôi đưa ra được, đây dường như là cái hợp lý nhất. Tất nhiên tôi có thể đã nhầm lẫn nghiêm trọng ở đâu đó. Thế nhưng, giả thiết rằng Chigusa đã từng trải qua ván cược với người phụ nữ trên điện thoại đặc biệt khiến tôi chú ý.
“A lô.” Cô ấy nhấc máy. “Tớ đoán là Fukamachi hả?”
“Ừ. Tìm được Hajikano rồi. Cô ấy nhảy xuống biển lúc sáng sớm. May mắn là không chết, nhưng tạm thời không thể gặp cô ấy được.”
“Tớ hiểu rồi.” Chigusa nói, và dừng tại đó. Cô ấy chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên hay lo lắng cả. Chỉ có sự bình tĩnh, như thể cô ấy đã biết chuyện này sẽ xảy ra ngay từ đầu.
“Tớ muốn tiếp tục cuộc nói chuyện tối qua của bọn mình.”
“Vậy cậu có thể đến nhà tớ không? Đó sẽ là một câu chuyện dài. Và tớ có thứ này muốn cho cậu thấy nữa.”
“Thứ muốn cho tớ thấy”
“Làm ơn đến càng sớm càng tốt nhé. Có vẻ tớ không còn nhiều thời gian nữa đâu.”
Thế rồi Chigusa cúp máy.
Không còn nhiều thời gian nữa?
Tôi cau mày. Cô ấy đang nói về cái gì vậy? Hay thứ cô ấy muốn cho tôi thấy sẽ biến mất nếu để quá lâu?
Dù thế nào đi chăng nữa, tôi cũng quyết định sẽ nghe theo và đến nhà cô ấy.
Mùa hè đã dần dần trôi qua được một nửa rồi. Nhiều thứ sắp sửa kết thúc. Xác ve sầu nằm rải rác đây đó trên đường, rồi lũ kiến kéo đến và lôi chúng đi. Nhìn từ đằng xa, cảnh tượng trông giống như mặt đất đang trồi lên và nuốt chửng mấy cái xác vậy.
Ve sầu Tsukutsuku-boushi đã hoàn toàn tham gia vào dàn đồng ca. Những ngày nóng vẫn sẽ còn tiếp tục, nhưng nó đã lên đến đỉnh điểm của chính mình. Sẽ không có sự leo thang nào về nhiệt độ nữa. Từ giờ trở đi, nó chỉ có thể giảm xuống mà thôi.
Bước vào khu dân cư với đường đi rắc rối, tôi cuối cùng cũng dến được nhà Chigusa. Mấy món quần áo phơi trên ban công tầng hai đung đưa vui vẻ trong gió sớm.
Trước khi tôi chạm vào cái chuông cửa, giọng nói quen thuộc của cô ấy vang lên từ phía sân vườn.
“Ở đây này.”
Tôi quay lại và bước lên bãi cỏ được cắt tỉa gọn gàng.
Chigusa đang đợi tôi. Trên một chiếc xe lăn.
Hình ảnh ấy đã đập tan chút nghi ngờ cuối cùng của tôi.
“Nè, Fukamachi. Tớ muốn đến bãi biển.” Cô ấy mỉm cười và nghiêng đầu nhè nhẹ.
Một bông hoa nhỏ màu trắng rơi dưới chân cô.
____________________
Lần đầu tiên tôi phải nhập viện dài ngày là một mùa hè năm lớp ba.
Hồi ấy tôi bị chấn thương ở chân. Trong khi đạp xe trên quả đồi gần bờ biển bằng xe đạp, tôi đột nhiên muốn thử xem mình có thể lao xuống dốc nhanh đến mức nào nếu như thả phanh. Cùng lúc đó xe lên tới đỉnh đồi, và tôi nghĩ “Hay đấy, thử thôi nào!”. Kết quả, bánh trước của xe vấp phải một cục đá tảng và cơ thể tôi bị ném văng lên không trung. Tôi may mắn tránh được cú va chạm vào đầu, thay vào đó, đầu gối chân trái của tôi đập thẳng xuống mặt đường cứng ngắc.
Ở bệnh viện đầu tiên tôi tới khám, người ta chẩn đoán tôi chỉ bị bầm tím thông thường, nhưng cơn đau kinh khủng đến nỗi tôi không thể đi lại hay thậm chí cử động đầu gối, thế nên gia đình đưa tôi đi khám lần nữa. Đến bệnh viện chuyên khoa, rốt cuộc bác sĩ phát hiện xương bánh chè của tôi đã gãy và sẽ phải mất hai tháng để lành lại. Vì đó là lần đầu tiên tôi bị một chấn thương nghiêm trọng, thậm chí mẹ còn lo lắng hơn cả tôi nữa.
Đối với tôi của hiện tại, ở một mình trong bệnh viện không phải một lựa chọn quá tồi, nhưng đối với một thằng nhóc lớp ba chưa từng nhập viện, thì mỗi ngày nằm bẹp trên giường chẳng khác nào cả một đời người đã trôi qua. Thời gian đầu, tôi thực sự không biết mình phải dùng thời gian vào việc gì, và sự chán nản khiến tôi phát điên. Có cảm giác như thời gian đã dừng cả lại. Ba bữa ăn mỗi ngày là những phút giải trí duy nhất của tôi. Hầu hết là những món đơn giản - đồ ngâm chua, rau củ luộc, mấy món súp nêm nếm nhạt nhẽo, và món cá lọc bỏ hết mỡ. Thế nhưng đôi khi lại có những món tuyệt vời ăn kèm nước sốt hay sốt cà chua, và điều đó khiến tôi chìm trong cảm giác mãn nguyện suốt vài tiếng đồng hồ.
Bố tôi mua nhiều sách đủ thể loại và mang đến để giúp tôi đỡ chán. Rủi thay, tôi không phải kiểu trẻ con ham đọc và ít khi tự lật bất kì cuốn sách nào, kể cả mấy cuốn bách khoa toàn thư bằng tranh. Thế nhưng vì chẳng có việc gì khác để làm, tôi đành phải đi đọc sách. Nói đúng hơn, tôi chỉ đơn thuần lật những trang giấy ra và nhìn chằm chằm vào mấy bức ảnh, tranh minh họa hay đại loại thế. Chẳng có chút gì gọi là hứng thú ở đây cả.
Chỉ có một cuốn duy nhất khiến tôi đọc đi đọc lại, đó là cuốn sách giải thích các trò ảo thuật. Chúng đều là những trò phổ biến mà bạn hay bắt gặp trên các chương trình TV: đoán chính xác một lá bài nào đó, làm cho đồng xu biến vào trong cốc, hay điều khiển cây đũa bay lơ lửng trong không trung. Nó giải thích chi tiết làm thế nào mà người ta thiết lập và thực hiện được những trò ấy.
Đó hẳn là một chủ đề hơi bị phức tạp, nhưng tác giả, một ảo thuật gia chính hiệu, có cách hành văn cực kì trơn tru và dễ hiểu, thế nên tôi nhanh chóng bị cuốn hút vào nó như thể tôi đang học về một mặt khác của thế giới vậy. Nghĩ lại, thứ khiến tôi thực sự hứng thú lúc đó có lẽ không phải là bí mật trong cách thực hiện các trò ảo thuật, mà là quan điểm từ tác giả về những điểm mù trong nhận thức của người xem ảo thuật. Lần đầu đọc sách của mọi người thường là với những cuốn tiểu thuyết hay sách khoa học, nhưng tôi đã bắt đầu bằng sách dạy ảo thuật như thế đấy.
Nếu khi đó bố tôi mang đến một cuốn sách về thiên văn học, có khi nào tôi cũng sẽ đâm ra thành một người hâm mộ thiên văn giống như Hinohara? Không, tôi đã nhanh chóng chán với ảo thuật chỉ sau một, hai tháng, thế nên có lẽ điều tương tự cũng sẽ xảy ra với thiên văn học thôi. Dù sao đi nữa, đưa ra những chữ “nếu” như thế thực sự vô nghĩa. Cuộc sống của một Yosuke Fukamachi yêu thích những ngôi sao và cuộc sống của Yosuke Fukamachi hiện tại chắc chắn là hoàn toàn khác nhau. Và có lẽ cậu ta sẽ không đem lòng yêu Hajikano.
Cùng phòng bệnh với tôi có bốn đứa trẻ khác. Ba nam và một nữ. Chúng bị thương ở những bộ phận khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả đều nghiêm trọng.
Cô bé ở giường đối diện hình như cũng bị gãy chân như tôi, vì một chân của cô ấy được bó bột. Lớp bột dày cộp bên cạnh cái chân lành lặn mảnh dẻ của cô ấy tạo ra vẻ chênh lệch kì cục giống như hai càng của một con cua vậy. Tôi không chắc cô ấy đang có tâm trạng tồi tệ do phải nằm một chỗ từ sáng đến tối hay vốn dĩ tính khí cô đã u ám như vậy, nhưng mặt cô bé lúc nào cũng buồn rười rượi. Tất nhiên tôi chưa thấy một bệnh nhân nào phải nằm viện dài ngày mà tươi cười cả, nhưng ấn tượng của cô vẫn hoàn toàn khác.
Cứ ba hay bốn ngày một lần, mẹ của cô bé sẽ đến thăm. Ba hay bốn ngày thì không phải là không thường xuyên cho lắm. Thế nhưng mỗi lần như vậy sẽ luôn chỉ kéo dài trong tối đa mười phút, trước khi bà mẹ nói “Chà, mẹ đang có việc bận” và bỏ đi. Điều đó rốt cuộc chỉ cứa sâu hơn vào sự cô đơn của cô. Mỗi lần được mẹ đến thăm, cô ấy sẽ cố tận dụng hết mười phút hiếm hoi đó để phàn nàn về mọi nỗi bực bội của mình trong thời gian nằm viên. Bà mẹ, vốn đã mệt mỏi sau một ngày làm việc, lắng nghe con gái mình với vẻ mặt chán nản và rồi cuối cùng lại lấy cớ bận để bỏ về. Tất nhiên bận rộn không phải lỗi của bà ấy, tôi tự nhủ, nhưng nếu đến thăm con mình mà như vậy thì thà rằng đừng đến còn hơn.
Thế rồi, khi mẹ đã rời khỏi phòng, cô ấy sẽ vùi mặt vào chiếc gối của mình mà khóc thút thít. Chỉ nhìn tất cả những việc đó thôi cũng đủ khiến tôi thấy nặng nề. Tại sao mọi thứ không thể tốt đẹp hơn thế? Tại sao họ không thể thật lòng hơn một chút? Mấy người đâu có muốn cãi nhau, phải không? Tôi đâm ra cáu việc cô ấy cứ phàn nàn liên tục - mà giờ nghĩ lại, tôi nhận ra rằng lí do chính vì nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như thế.
Tôi ghét con nhỏ khóc nhè đó, và cô ấy cũng ghét tôi. Cô khó chịu vì mẹ tôi thường xuyên đến thăm và còn ngồi lại chơi với tôi. Mỗi khi mẹ thay những bông hoa trong cái lọ cạnh giường hay cùng tôi vẽ nguệch ngoạc lên lớp bông băng, cô bé trừng trừng nhìn tôi trong sự bực dọc. Thậm chí cô ấy vẫn sẽ lườm tôi một lúc lâu ngay cả sau khi mẹ tôi đã về. Như thể cô ấy muốn nói “đừng hòng quên đi cái lườm này”.
Chỉ những ai đã từng trải qua mới thực sự hiểu được điều này: bệnh nhân bị gãy chân nằm viện sẽ phải trải qua sự cô đơn và bức bối cực kì kinh khủng. Họ đâm ra xấu tính hơn bình thường, và lúc nào cũng có cảm giác bứt rứt như bị tấn công bởi một thứ thế lực vô hình nào đó. Cả cô ấy và tôi, có lẽ cả hai đứa đều đang cố gắng giữ lấy niềm vui sống của mình bằng cách ghét người gần nhất, chỉ để chống lại cái thế lực vô hình ấy.
Rốt cuộc, sự thù ghét giữa tôi và cô bé nọ biến mất khi tôi nằm viện tròn một tháng. Tối hôm ấy tôi đang đọc sách trên giường như thường lệ, và đột nhiên từ ngoài cửa sổ vọng vào những âm thanh rộn ràng từ lễ hội mùa hè.
Giữ cho cái đầu gối không bị ảnh hưởng, tôi chậm chạp xuống giường bằng một chân và nghển cổ nhìn ra ngoài. Hàng chục người đang kéo nhau đi trên đường. Đa phần là các gia đình đi cùng nhau, nhưng cũng có rất nhiều học sinh mặc nguyên đồng phục mà đi từ trường tới. Không thiếu những đứa trẻ tầm tuổi tôi. Và tất cả bọn họ đều đang nở nụ cười rạng rỡ.
Trong lúc quan sát những người đi xuống phố, tôi chợt nhìn thấy mấy đứa bạn cùng lớp. Suýt nữa thì tôi đã hét gọi bọn nó, nhưng rồi đột ngột dừng lại ngay trước khi mở miệng. Tất nhiên, trò chuyện một lúc với chúng có thể làm dịu sự cô đơn của tôi. Nhưng ngay khoảnh khắc họ nhìn thấy tôi nằm trên giường bệnh trong khi bản thân thì đang đi chơi hội, một ranh giới rất rõ ràng sẽ hình thành giữa hai bên - tôi có cảm giác như thế.
Không, ranh giới vốn dĩ đã nằm ở đó rồi, tôi nghĩ thầm. Trước đây tôi chỉ không nhận ra sự tồn tại của nó thôi. Trong khoảng thời gian một tháng vừa rồi, tôi đã bị những người bạn ở trường bỏ lại một đoạn rất xa. Khi tôi nằm bẹp dí nơi giường bệnh và đếm mấy vết ố trên trần phòng thì họ đã dành thời gian bên bạn bè của mình, cùng nhau tạo ra những kỉ niệm quý giá.
Cảm giác như thể bị bỏ lại phía sau lưng cả thế giới vậy. Trước khi kịp nhận ra, mắt tôi đã cay xè. Tôi vội vã dụi lấy dụi để mắt trước khi những giọt nước lăn xuống. Tôi ngồi lại giường, hít một hơi thật sâu, nhắm mắt và chờ cho cảm giác nghèn nghẹn nơi cổ họng biến mất.
Thế rồi tôi nghe thấy tiếng nức nở. Rất gần. Âm thanh mà cho đến lúc đấy tôi mới nhận ra. Tôi mở mắt và thấy cô bé đối diện đang tựa lưng vào giường mà nhìn ra ngoài cửa sổ.
Gương mặt cô ấy ướt đẫm vì những giọt nước mắt.
Cô ấy đang cảm thấy cô đơn hệt như mình vậy, tôi nhận ra điều đó.
Tôi bỗng nhiên có thôi thúc mạnh mẽ muốn dỗ dành cô ấy, có lẽ vì hành động này cũng sẽ tạo ra một tác động an ủi nào đó lên chính thôi. Về bản chất mà nói… thật khó để tự xoa dịu nỗi buồn của chính mình, nhưng không khó đến thế đối với một người khác cũng đang trải qua nỗi buồn tương tự. Và một khi bạn đã chứng minh rằng cái nỗi buồn tương tự đó có thể được xóa nhòa, nó sẽ làm bạn thấy khá hơn.
Tôi rút chiếc khăn tay từ cái bàn cạnh giường, ngắt một bông hoa nhỏ màu trắng trong lọ và gập nó lại thành độ dài phù hợp. Chuẩn bị xong xuôi, tôi cẩn thận đứng dậy và nhảy lò cò tới bên giường cô bé, cất tiếng gọi.
Cô ấy vội vàng quệt nước mắt và quay lại. Tôi xòe lòng bàn tay để cho cô thấy tôi không cầm gì cả. Cô ấy ngơ ngác hết nhìn tôi lại nhìn xuống cái tay, và lí nhí hỏi bằng giọng vẫn còn nghẹn vì tiếng nấc: “Có… chuyện gì thế?”
“Đoán thử xem?” Tôi thả lỏng cơ mặt và cố nở một nụ cười thân thiện nhất có thể - chắc hẳn đó là một nụ cười tệ hết biết. “Cậu sẽ sớm thấy thôi.”
Tôi phủ cái khăn lên tay trái, vuốt nhẹ nó bằng tay phải, và đột nhiên rút từ trong ra bông hoa trắng đưa cho cô bé. Cô ấy trợn tròn mắt và chớp chớp vài lần, trước khi rụt rè đón lấy bông hoa và săm soi nó như đang nhìn một vật thể kì bí. Sau khi đã chắc chắn nó là hoa thật, cô ấy âu yếm cắm nó vào trong cái lọ bỏ không ở cạnh giường.
Rồi cô ấy quay lại với tôi, nhoẻn cười với đôi mắt sưng húp và gương mặt vẫn còn đẫm nước.
Kể từ đó, mỗi ngày một lần, tôi sẽ làm một trò ảo thuật mà tôi vừa mới tập ngay trong ngày cho cô bé xem. Cứ đúng hẹn sau khi bữa tối kết thúc, cô ấy sẽ vẫy tay với tôi, sau đó ngồi ngay ngắn với hai tay đặt trên đầu gối để chờ đợi tiết mục bắt đầu. Tôi sẽ nhảy lò cò đến chiếc ghế bên giường cô ấy, rồi bắt đầu trưng ra màn ảo thuật chỉ vừa mới tập bằng vẻ mặt tự mãn như thể tôi vốn đã rất thành thạo nó từ lâu. Bất kể lại thành công hay thất bại, cô ấy vẫn sẽ vỗ tay rối rít.
Cuối cùng, chúng tôi đã đủ thân để có thể tán gẫu về mọi thứ mà không cần dính dáng đến mấy trò ảo thuật. Chủ yếu là những chuyện thường ngày như thực đơn của bữa hôm nay, hay sự khó chịu với mấy y tá thay băng không nhẹ nhàng cho lắm.
Chỉ có một lần duy nhất cô bé đề cập đến cái bớt của tôi.
“Nè, đó không phải một vết bầm bình thường, phải không?”
“Ồ, cái này ấy hả?” Tôi chạm vào cái bớt trên mặt, “Nó đã ở đó ngay từ khi tớ sinh ra. Không phải vết bầm đâu.”
“Ngay từ khi sinh ra á…” Cô ấy lẩm bẩm một cách tò mò trong khi nhìn chằm chằm vào mặt tôi, “Nó không đau hay ngứa gì cả chứ?”
“Không, không hề.”
“May quá.” Cô ấy mỉm cười nhẹ nhõm.
Và cũng… chỉ một lần duy nhất, cô bé than vãn với tôi về bản thân mình.
“Nè, nếu cậu biết sẽ phải sống cả đời trên xe lăn, cậu sẽ làm gì?”
Cô ấy đột nhiên hỏi vậy khi tôi chuẩn bị về giường của mình sau một trò ảo thuật.
Tôi vịn vào những chấn song cửa sổ và ngẫm nghĩ.
“Tớ không biết. Tớ chưa bao giờ nghĩ về chuyện như thế cả. Sao cậu lại hỏi vậy?”
Cô ấy cúi đầu và nở nụ cười buồn bã: “Bởi vì có vẻ đó là chuyện sẽ xảy ra với tớ.”
“Bác sĩ nói với cậu như thế à?”
“Ừ, cách đây khá lâu. Họ bảo rằng khả năng đó là hoàn toàn có thể xảy ra. Họ nói dây thần kinh ở chân của tớ bị liệt hay gì đó.”
Tôi phải mất một lúc lâu nữa để suy nghĩ về câu trả lời của mình
“Nếu như thế, có lẽ tớ sẽ khóc rất nhiều. Tớ sẽ khóc cả ngày đến lụt phòng luôn, và tớ sẽ bắt bố mẹ tớ, các cô y tá, và cả cậu nữa, thực hiện những yêu cầu ích kỉ nhất có thể. Ít ra nếu suốt phần đời còn lại tớ không bao giờ còn bước đi được nữa, thì tớ nghĩ nhiêu đó là có thể tha thứ.”
Cứ mỗi câu của tôi, cô ấy lại lẩm bẩm “Đúng vậy” và gật đầu. Như thể sự đồng tình của cô ngày càng lớn lên sau mỗi cái gật ấy. Thế rồi cô ấy ngẩng phắt lên như vừa nghĩ ra điều gì đó, túm lấy tay tôi và kéo trở lại xuống giường. Cô nâng cái chân bất động của mình lên bằng cả hai tay để chỉnh lại tư thế cho phù hợp.
Đoạn, cô ôm chặt lấy tôi từ phía sau, vùi mặt vào lưng tôi, và òa khóc.
Ngay ở thời điểm đó, có lẽ tôi cũng đã hoàn toàn thấu hiểu được “yêu cầu ích kỉ” của cô ấy là gì. Vậy nên tôi không nói bất cứ điều gì cả, chỉ im lặng và chấp nhận nó. Cô ấy khóc và khóc, khóc mãi, như thể toàn bộ nước trong cơ thể đang tuôn ra ngoài qua đôi mắt vậy. Tôi khi đó còn chưa đến mười tuổi và không biết nên nói gì với cô, nên tôi im lặng. Và ngay cả với cái tôi mười sáu tuổi của hiện tại, tôi có lẽ cũng vẫn không thể biết được mình nên nói gì để an ủi người con gái ấy.
Ngày tôi ra viện, cô bé nói “Tớ sẽ đến gặp cậu khi nào chân tớ khỏi”, sau đó hỏi địa chỉ và số điện thoại của tôi. Tôi cũng định hỏi thông tin của cô ấy, nhưng rồi lại thôi. Dù sao tôi cũng có thể hỏi khi cô ấy gọi điện đến. Và tôi sẽ phải học rất nhiều trò ảo thuật mới để làm cho cô ấy xem khi hai đứa gặp lại. Ít nhất khi đó tôi đã nghĩ như thế.
Tôi của năm lớp ba là một con người lạc quan như thế đấy.
Một tháng, rồi hai tháng trôi qua, tôi không nhận được tin tức gì từ cô bé nọ cả. Nửa năm trôi qua, cuộc gọi của cô ấy vẫn chẳng thấy đâu.
Sau một năm, tôi hiểu rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại cô ấy nữa. Cô đã không phá vỡ lời hứa của bản thân. Nói cách khác, chân cô ấy đã không thể nào lành lại được.
Dần dần, những kí ức về cô bé ấy phai nhạt trong tâm trí tôi. Tôi quên đi sự tồn tại của cô, đến khi tôi chỉ còn có thể sực nhớ ra “Ồ, hồi đó có một cô bé như vậy” mỗi lần đi ngang qua một bệnh viện lớn. Thế rồi cuối cùng ngay cả tên và khuôn mặt của cô cũng biến mất, và những kỉ niệm ngắn ngủi của mùa hè năm ấy bị chôn chặt trong tâm trí tôi, vĩnh viễn.
_______________________
Tôi đẩy chiếc xe lăn chầm chậm xuống con dốc ở ngọn đồi mà tôi đã phóng xe đạp vào cái ngày hôm ấy. Những thanh lan can hai bên đường đã rỉ sét cả, và dây leo mọc quấn đầy xung quanh chúng ở mọi nơi. Hàng ngàn con ve sầu hòa giọng trong những tán cây hai bên đường, khiến cho nơi này giống như bên trong một cửa hàng bày đầy những chiếc đồng hồ vậy.
“Cậu ra viện sau tớ bao lâu vậy, Ogiue?” Tôi hỏi.
“Không được nhanh cho lắm, tớ e là vậy.” Chigusa đưa mắt nhìn xa xăm về mặt biển, “Tớ quay lại trường gần nửa năm sau khi cậu xuất viện. Đến lúc đó, bạn học ở lớp đã hoàn toàn quên mất tớ. Đối với những đứa trẻ tám tuổi bình thường, nửa năm là quá đủ để quên đi sự tồn tại của một con nhóc cùng lớp. Tất nhiên, vốn dĩ tớ chưa bao giờ thực sự là một người nổi bật.”
“Nhưng nếu thế, tớ tưởng nó cũng sẽ khơi dậy sự hứng thú như một học sinh chuyển trường chứ?”
“Tiếc là không phải vậy.” Cô ấy mỉm cười yếu ớt, “Một khi đã bị gắn chặt cả đời với cái xe lăn, việc kết bạn của tớ bị hạn chế đi rất nhiều. Không hẳn là tớ bị kì thị vì tàn tật, và trường tiểu học Mitsuba cũng có những giáo viên quen thuộc với việc chăm sóc cho những trường hợp như tớ… Thế nhưng việc được đối xử tử tế một chút cũng chẳng thể thay đổi sự thật rằng tớ không bao giờ đi lại được nữa. Không có nhiều hoạt động mà tớ có thể tham gia cùng với mọi người. Những bạn trong lớp không ghét tớ, thậm chí ban đầu họ còn thích thú với việc đưa tớ đi loanh quanh và giúp đỡ một cô gái tội nghiệp phải ngồi xe lăn. Thế nhưng dần dần họ đâm ra chán nản với những phiền toái xảy đến, và dần dần tránh xa khỏi nguồn cơn của những phiền toái đó. Tớ đã bị cô lập như vậy đấy.”
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng ấy. Cũng từng có một cô bạn phải ngồi xe lăn hồi tôi còn học sơ trung, và mặc dù không ai ghét bỏ cô ấy cả, mọi người vẫn vô thức xa lánh cô. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh cô ấy phải ngồi cả buổi nơi góc lớp, cố gắng trò chuyện với cứu cánh cuối cùng là một nhóm các cô gái ít nói của câu lạc bộ văn hóa trong tuyệt vọng
“Trước đây tớ từng mô tả bản thân bình rằng “có thể được người này người kia quý mến một chút, nhưng sẽ không bao giờ là đối tượng mà người khác đặc biệt ưa thích”. Đó thực ra là nói dối đấy. Tớ chỉ nói thế vì muốn cậu nghĩ tớ là một đứa con gái bình thường. Còn tớ thực sự không những chẳng có ai quý mến, mà mọi người còn tránh mặt tớ bất kể là tớ đi đến nơi đâu. Mỗi ngày trôi qua, phải đến hàng trăm lần tớ tự nhủ “Mình không nên hiện diện ở đây”. Và những lúc như thế, tớ lại nhớ đến một cậu bé với cái bớt trên mặt, người duy nhất đã từng quan tâm và xoa dịu trái tim của tớ. Đó là biểu tượng của hạnh phúc đối với tớ, là bằng chứng độc nhất cho việc tớ vẫn có thể có những kỉ niệm tuyệt vời bất kể tớ là một đứa khó ưa đến nhường nào… Và đó cũng là lí do tớ chưa bao giờ liên lạc lại với cậu, Fukamachi ạ. Tớ sợ rằng nếu ngay cả cậu cũng từ chối tớ, thứ tốt đẹp duy nhất mà tớ có sẽ vỡ tan thành mây khói… Thế nhưng khi nhập học vào cao trung Minagisa Đệ Nhất, tớ lại bắt gặp tên cậu trong bản danh sách lớp.”
Chigusa quay đầu lại và nhìn vào mắt tôi.
“Đúng thế, cái tên Yosuke Fukamachi đã ở đó, như một phép màu. Sẽ là nói dối nếu bảo rằng tớ không thấy vui - tớ thực sự hạnh phúc đến chết đi được. Đây hẳn phải là một giấc mơ khi mà mối tình đầu của tớ lại tình cờ học chung lớp như vậy. Nhưng rồi tớ sợ. Tớ sợ rằng biết đâu cậu sẽ không còn chấp nhận tớ như những gì cậu đã làm ngày ấy nữa. Thậm chí ngay cả khi chúng ta có thể trở nên thân thiết như trước kia, tớ cũng không dám hi vọng đến bất kì tiến triển gì hơn. Đối với một chàng trai mười sáu tuổi, thì đứa con gái tàn tật cả đời ngồi trên xe lăn như tớ hẳn sẽ là một lựa chọn tồi tệ để làm bạn gái.”
Cô ấy cúi xuống, chầm chậm vuốt ve đôi chân cứng đờ bên dưới.
“Giá mà mình có thể di chuyển đôi chân này, tớ nghĩ thầm. Không, tớ không cần phải chạy nhảy mới thỏa, tớ chỉ cần được đi lại chầm chậm cùng với bạn bè thôi. Tớ chỉ muốn có một tình yêu bình thường như bất cứ cô gái nào khác… Thế rồi ba tháng sau, trên đường về nhà, tớ nghe thấy tiếng chuông từ một bốt điện thoại công cộng. Chính xác năm mươi ngày trước.”
Chúng tôi đã đến cuối con dốc. Những tán cây kết thúc, mở ra khung cảnh lấp lánh của mặt biển trong ánh tà dương. Lũ hải âu lảng vảng quanh đê chắn sóng vội bay đi ngay khi hai đứa xuất hiện.
“Tất cả mọi người trong lớp đều chỉ phản ứng như kiểu “Ồ, vậy là chân cậu cuối cùng cũng lành rồi”. Thế đấy, mặc dù nó là nỗi sợ hãi cả đời đối với người trực tiếp gánh chịu, nhưng trong mắt người khác cũng chỉ thế mà thôi. Và cậu, rốt cuộc sau mười năm cậu đã hoàn toàn không còn nhớ gì về tớ nữa. Dĩ nhiên tớ có thể nhắc lại cho cậu chỉ bằng việc nhắc đến mùa hè năm ấy, nhưng cuối cùng tớ quyết định từ bỏ. Tớ muốn bắt đầu lại từ đầu, quên đi quá khứ đau khổ đó, sống và yêu cậu lại từ đầu như một cô gái bình thường.”
Tôi dừng lại ở rìa đê chắn sóng. Hai đứa im lặng lắng nghe bản hòa ca của những con sóng vỗ rì rào mặt đá. Phía cuối đường chân trời tít xa ngoài mặt biển, những đám mây khổng lồ dường như đã chạm đến tận đỉnh của thiên đường.
“Nè, Fukamachi.” Cô ấy nhẹ nhàng nói. “Nếu cô gái đánh thức cậu ngày hôm đó ngồi trên một chiếc xe lăn, liệu cậu có lạnh nhạt với cô ấy không?”
“Không.” Tôi lắc đầu, “Chỉ là, thay vì được cậu dẫn đi quanh trường, tớ sẽ đẩy xe lăn cho cậu giống như bây giờ vậy. Sẽ chỉ có khác biệt đến thế thôi.”
Chigusa mỉm cười đầy hạnh phúc.
“...Tớ thật ngốc. Có lẽ ngay từ đầu tớ không nên đồng ý bất kì ván cược nào cả. Thay vào đó tớ chỉ cần nói “Tớ là con bé trong phòng bệnh ngày trước đây”.”
“Có lẽ thế thật.” Tôi gật đầu.
“Cơ mà nếu thế thật, tớ sẽ không thể cùng cậu chạy lòng vòng quanh thị trấn, cũng không thể chơi đùa cùng cậu dưới bể bơi được, nên có lẽ đó cũng không phải lựa chọn quá tệ.” Cô ấy đan hai tay vào nhau và chậm rãi duỗi người, “Nhưng tớ ước gì mình có thể sống được đến hôm lễ hội. Thật tiếc quá, tớ thậm chí còn luyện tập với cậu rồi kia mà.”
Chợt nhớ ra điều gì đó, Chigusa đưa tay vào túi áo và trao cho tôi một lá thư.
“Mọi thứ cậu muốn biết đều ở đây. Hãy đọc nó sau nhé.”
Tôi cảm ơn cô ấy và cho lá thư vào túi.
Những giờ sau đó, chúng tôi ngồi bên nhau thật lâu và nói chuyện về tất cả những gì đã xảy ra từ khi hai đứa gặp lại. Chigusa đánh thức tôi khi tôi ngủ gật ngay ngày đầu tiên đến lớp. Chigusa dẫn tôi đi một vòng tham quan trường học. Chigusa uống rượu và ăn mì cốc mà cô ấy chưa từng thử trong suốt cuộc đời mình. Chigusa cùng tôi làm đủ trò phá luật như những đứa trẻ hư hỏng. Chigusa cùng tôi cởi bỏ hết quần áo mà chơi đùa dưới bể bơi. Chigusa cùng tôi lén ra khỏi nhà vào ban đêm, và cùng hai người kia ngắm nhìn vô số sao băng rơi xuống.
Khi hai đứa đã không còn gì để nhắc lại nữa, cô ấy đột nhiên ngẩng lên nhìn trời và duỗi tay chỉ về hướng đó: “Fukamachi, nhìn kìa.”
Một chiếc máy bay vừa lướt ngang qua bầu trời, vẽ nên đường khói trắng thẳng tắp giữa tấm phông nền xanh thẳm.
Hai đứa cùng chằm chằm nhìn vào nó, cùng nhau chìm đắm trong một sự say mê kì lạ.
Đến khi tôi nhìn lại, Chigusa đã biến mất rồi.
Bên cạnh tôi chỉ có chiếc xe lăn trống rỗng. Người con gái ngồi trên nó đã không còn tồn tại nữa.
Tôi cúi xuống chân mình. Những hạt bọt biển trắng xóa đang nổi lên trên mặt nước. Tôi ngồi xuống rìa đê chắn sóng, chăm chú quan sát lớp bọt đó, lặng im, chầm chậm, hòa tan vào biển lớn.
Mình cũng sẽ sớm ra đi như cô ấy thôi, tôi tự nhủ.