Ngày 1 tháng 11 năm 2014.
Trời nhiều mây.
Tiểu Bạch Lầu, thành phố Sở Nguyên.
Tam Lừa tuy tự nhận là đã tận mắt chứng kiến quá trình Đại Đổng bị sát hại, nhưng lời khai của thằng nhóc là thật hay giả, có mấy phần đáng tin thì không ai dám chắc.
Tuy nhiên chí ít đây cũng là một manh mối quan trọng, từ đó có thể vén được tấm màn bí mật về sự biến mất của những tên ăn mày kia, Thẩm Thư quyết định sẽ đến hiện trường phạm tội theo lời kể của Tam Lừa để khám xét một vòng.
Trước khi hung thủ lộ diện, Thẩm Thư không muốn gây ra động tĩnh quá lớn, chỉ bảo tôi đi cùng với cậu ta.
Nghe nói Tiểu Bạch Lầu trước thời Giải phóng là một tòa tư dinh của tên quan liêu chính phủ nào đó, đến nay đã bị bỏ hoang gần chục năm, do liên quan đến tranh chấp quyền bảo hộ di sản văn hóa, hơn nữa hậu duệ của tên quan liêu đó danh thế cũng không vừa, cho nên những nhà đầu tư dù rất thèm muốn mảnh đất vàng ngọc này, song lại không dám phá dỡ, chỉ biết để mặc cho nó bị bỏ hoang.
Đằng sau Tiểu Bạch Lầu có một con sông nhỏ, hai bên bờ cỏ mọc um tùm, ở góc tường có một mảnh đất trống nhỏ bị dẫm đạp mà thành, chính là chốn nương thân của Đại Đổng.
Mấy chiếc chăn bẩn thỉu nhìn không ra hình thù được vứt bừa ra đất, còn có một cái quần rách lòi cả bông ra ngoài, gió thổi qua có thể ngửi thấy một mùi chua thối.
Không thấy bóng dáng của Đại Đổng đâu, hiện trường không giống đã từng xảy ra ẩu đả, trên bốn vách tường, trên mặt đất cũng không thấy có vết .
Đây là một nơi yên tĩnh và hoang vắng, gió thổi xào xạc, nước chảy róc rách, khiến người ta vô cớ nảy sinh một nỗi sợ hãi bất an.
Thẩm Thư bước đến trước một chiếc chăn được vo tròn thành đống, túm lấy một góc rồi giũ ra sau, đồ đạc được gói ghém bên trong đều vung hết ra ngoài.
Tôi quan sát kĩ, không ngờ lại là một đống áo ngực và quần lót của phụ nữ, phải đến 20 – 30 chiếc, hơn nữa những chiếc áo ngực này hiển nhiên không phải của cùng một người, có mẫu áo ren màu tím mới nhất, cũng có những chiếc được thêu bằng vải thô.
Không ngờ cái tên Đại Đổng này lại là một kẻ mắc chứng bái vật (Fetishism).
Thẩm Thư đeo găng tay vào, cố chịu đựng cái mùi khó ngửi, lần lượt nhặt từng bộ đồ lót ra.
Tôi ngại ngùng khoanh tay đứng nhìn, chỉ biết ngồi xổm bên cạnh cậu ta, cố kìm nén cơn buồn nôn, quan sát thật kĩ chiếc chăn bẩn tưởi kia.
Lật xem xong, không phát hiện ra vết trên những món đồ này.
Nếu quả thực như những gì Tam Lừa đã nói, Đại Đổng đã bị kẻ khác dùng vật nặng đánh vào đầu đến tại đây, thế thì hung thủ hoặc đã chuẩn bị biện pháp phòng hộ rất kĩ lưỡng trước khi gây ăn, hoặc là Đại Đổng không phải bị khi đang ngủ say.
Lúc này đã hơn nửa tháng kể từ khi vụ án xảy ra, dấu chân trên mặt đất đã mất đi chức năng vật chứng.
Mà hiện trường lại không có hoặc hung khí, tôi chỉ có thể kỳ vọng sẽ phát hiện ra vết để chứng minh nơi đây đã từng xảy ra án mạng.
Nhưng mà nhìn quanh, tường trắng, đất đen, cỏ dại, dòng sông, trầm mặc và thê lương, không hề nhìn thấy một vết lớn nào.
Mà nếu chỉ dựa vào mắt thường để tìm ra vết vi lượng bắn ra trong một phạm vi lớn thế này, dường như là không có khả năng.
Huống gì, dù cho may mắn phát hiện ra những vệt đỏ thẫm hư hư thực thực, chúng tôi cũng không thể phân biệt được đó là người hay động vật, hoặc đó chỉ là sạn sắc tố mà thôi.
Thẩm Thư đứng đờ đẫn trên bờ con sông đang chảy ồ ạt, lông mày cau lại, dường như đang không biết phải làm sao.
Thực ra việc tên ăn mày Đại Đổng mất tích, ngoại trừ cậu ta ra thì chẳng ai để ý.
Một Đại Đổng chẳng chút vướng bận với thế giới này có thể đã dời ổ, hoặc lang thang đến một thành phố khác, cũng có thể đã ngã bệnh ở một góc không người nào đó, tự sinh tự diệt.
Theo tôi thấy, việc Thẩm Thư vô cớ đi điều tra về một vụ án có thể không tồn tại này đúng là tự làm khổ mình, nhưng tôi vẫn không nỡ nhìn thấy bộ dạng bó tay hết cách của cậu ta, buột miệng nói: “Hay thử đem chó đánh hơi ở Sở đến xem sao?”
Được tôi nhắc nhở, mắt Thẩm Thư bỗng sáng lên, đáp: “Nhập về gần 2 tháng nay rồi nhỉ? Vẫn chưa qua thực chiến, cũng không biết hiệu quả thực tế thế nào, chi bằng dắt đến thử xem sao.” Lúc nói ra những lời này, cặp lông mày nhíu chặt của cậu ta đã giãn ra, như thể đã tìm được một tia sáng giữa màn đêm mịt mù.
Chó đánh hơi, là một loại cảnh khuyển.
Lĩnh vực này không phải là thế mạnh của Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên, mãi đến 2 tháng trước mới nhập về một giống chó Springer từ căn cứ huấn luyện chó nghiệp vụ của một thành phố giáp biển trong nước, đồng thời tiếp nhận một huấn luyện viên dày dạn kinh nghiệm.
Chó đánh hơi chủ yếu được ứng dụng vào ba lĩnh vực điều tra: Một là truy tìm vết khả nghi trên đồi núi, rừng rậm, đường xá; Hai là truy tìm những vết trong phòng đã được tẩy rửa, lau chùi, giả mạo; Ba là hỗ trợ cảnh sát truy tìm những bộ quần áo, hung khí và những vật chứng dính trong một khu vực tương đối rộng.
Giống chó Springer được nhập về lần này, chưa có kinh nghiệm thực chiến, theo lời của huấn luyện viên, nó vẫn chưa đủ nhạy bén để truy tìm những vết vi lượng hay vết cũ; Về phương diện nhận biết vết trên những vật dẫn khác nhau, ví dụ như mùi hỗn hợp của và bụi cỏ, bùn đất, đồ sắt, gạch đá, vẫn cần phải huấn luyện thêm.
Nếu như không phải hết cách, chúng tôi sẽ không huy động đến chú chó Springer này.
Huấn luyện viên Vương Bảo Bảo dẫn theo chú chó đánh hơi Đông Lai đến phía sau Tiểu Bạch Lầu.
Vương Bảo Bảo nhận được thông báo ra hiện trường, tỏ ra khó xử, nói Đông Lai vẫn đang trong gian đoạn huấn luyện, năng lực nhận biết vết vẫn chưa được hoàn thiện, giờ mà xuất trận thì còn quá sớm, một khi xuất hiện sai sót sẽ làm mất niềm tin của cảnh sát vào Đông Lai.
Nhưng không chịu nổi việc Chủ nhiệm căn cứ huấn luyện chó nghiệp vụ nhiều lần gây sức ép, cuối cùng Vương Bảo Bảo chỉ biết đồng ý thử một phen.
Hai Lượng và Khả Hân cũng hay tin mà tới, hai người họ tạm gác lại công việc trên đầu, đến để chứng kiến bản năng thực sự của loài chó đánh hơi được đồn đại bấy lâu nay.
Đông Lai nhận được một sự quan tâm mật thiết đến thế, cũng khó trách huấn luyện viên Vương Bảo Bảo lại chịu áp lực.
Thẩm Thư lấy đống chăn rách mà Đại Đổng để lại làm trung tâm, vẽ ra một hình tròn có đường kính khoảng 50m, đó là hiện trường gây án mà cậu ta vạch ra dựa trên lời khai của Tam Lừa, cậu ta hy vọng sẽ hoạch định ra phạm vi tương đối nhỏ, giúp Đông Lai nâng cao độ chuẩn khi nhận diện vết .
Đông Lai mới 1 tuổi rưỡi, màu lông đen vàng xen lẫn, kích thước trung bình, đôi tai vừa to vừa dài, cụp xuống tận cằm.
Thoạt nhìn thì Đông Lai giống một chú chó cảnh hơn, bộ dạng khiến người khác thấy mà cưng.
Cho đến khi nhìn thấy cặp mắt của Đông Lai, mới khiến người khác phải kinh sợ, cặp mắt đó vừa đen vừa sáng, sắc bén, lanh lợi như đôi mắt của một cao thủ Võ Lâm được miêu tả trong những bộ tiểu thuyết kiếm hiệp, có thể nhìn rõ từng chân tơ kẽ tóc.
Vương Bảo Bảo dẫn Đông Lai đến trước đống chăn rách, bảo nó ngửi thật kĩ cái mùi đó.
Đông Lai giữ vững cương vị, từ đầu đến cuối không bỏ sót một chỗ nào, khi nó cúi đầu ngửi, cổ họng phát ra tiếng “ư ử”.
Thẩm Thư đứng từ xa, sắc mặt lạnh như băng.
Còn tôi thì lo đến mức không dám thở mạnh, chỉ sợ gây ra động tĩnh làm phân tán sự chú ý của Đông Lai.
Vụ án “3 không” – không người báo án, không nạn nhân và không nhân chứng này, lại khiến cho Thẩm Thư canh cánh trong lòng, tôi tin là bộ dạng bình tĩnh lúc này của cậu ta chỉ là chỉ là ra vẻ, nếu như mũi của Thẩm Thư nhạy được như Đông Lai, e là cậu ta đã tự mình đi hít Đông hít Tây từ lâu rồi.
Thực ra, nói một cách không khoa trương, “khứu giác” của Thẩm Thư trong phương diện điều tra cũng nhạy bén như Đông Lai vậy.
Trạng thái của Đông Lai khi bước vào trận chiến khác hoàn toàn so với lúc nghỉ ngơi.
Lông trên người nó xù hết cả lên, hai mắt sáng quắc, cánh mũi phập phồng, lấy đống chăn rách đó làm trung tâm, tìm kiếm khắp xung quanh.
Đông Lai lần đầu xuất binh, kết quả trinh sát của nó liệu có chính đáng tin hay không? Có thể làm căn cứ để lập án hoặc kết án hay không? Trong lòng tôi không một chút chắc chắn.
Bị nhiễm không khí yên tĩnh ở hiện trường và trạng thái căng thẳng của Đông Lai, lòng bàn tay tôi cũng vã cả mồ hôi.
Đông Lai đột nhiên dừng lại ở một nơi cách đống chăn kia mười mấy mét, sục mũi xuống phần đất bên dưới rồi sủa lên không ngừng.
Chỗ này đã gần với bờ sông, đất đai ẩm ướt, cỏ cây thưa thớt.
Vương Bảo Bảo khẽ kéo Đông Lai ra, ra hiệu cho chúng tôi có thể tiến hành khám xét vùng đất bùn đó.
Tôi mang theo một sự kỳ vọng hưng phấn, cẩn thận sàng lọc từng tấc đất một, nhưng kết quả lại khiến chúng tôi thất vọng, đừng nói là một vết cũ, đến một giọt giống cũng không tìm thấy.
Tôi đứng dậy xòe tay về phía Vương Bảo Bảo và Thẩm Thư, thở dài một cái.
Chú chó Đông Lai đã yên tĩnh trở lại dường như hiểu được ý tôi, lại ngóc đầu lên sủa, tiếng sủa chói tai và gấp gáp, như thúc giục tôi tiếp tục tìm kiếm.
Vương Bảo Bảo cũng tỏ ra không hài lòng với kết quả này, tối sầm mặt mũi không nói năng gì.
Thẩm Thư vờ như không nhìn thấy bộ mặt của anh ta, đi thẳng về phía tôi, ngồi xổm xuống nói: “Đào xuống dưới, không biết chừng bên dưới đất có vấn đề.”
Cậu ta đeo găng tay vào, dùng tay đào lên từng tấc đất một.
Tôi do dự một hồi, cũng ngồi xuống bên cạnh cậu ta, giúp cậu ta đào xuống bên dưới.
Hai Lượng và Khả Hân thấy thế, cũng chạy lại giúp một tay.
Đào được một lúc lâu, ngồi đến tê cả đùi, đổi tận mấy tư thế, đầu ngón của găng tay cũng bị mài cho rách một lỗ nhỏ, mới đào được một cái hố rộng 2 gang, sâu 1 gang, nhưng ngoài đất ẩm và sỏi đá ra thì không thu được gì.
Hai Lượng đánh mắt về phía Khả Hân, dường như mất niềm tin vào việc đào hố không mục đích này.
Tôi cũng hơi nhụt chí.
Từ khi bước chân vào ngành, những hiện trường đáng sợ, quỷ dị, me hay khiến người khác buồn nôn tôi đều đã khám xét qua, nhưng những hiện trường đó đều có mục tiêu rõ ràng, còn hiện tại, tôi càng đào càng cảm thấy ẩu tả, thậm chí còn nghĩ liệu mấy người chúng tôi có trở thành trò cười cho Sở hay không.
Đến khi Thẩm Thư tiếp tục dùng lực đào lên một vốc đất bùn, ánh mắt mọi người đều trố ra.
Vốc đất bùn đó lẫn cả màu tím đen.
Đúng vậy, đất ven sông có hơi ẩm ướt, có màu vàng đen.
Nhưng vốc đất mà Thẩm Thư đào được đã bị thứ gì đó nhuộm tím, mà dưới hố cũng có một lượng lớn đất bùn có màu đen tím giống thế này.
Đối với những người đã kinh qua nhiều hiện trường phạm tội như chúng tôi mà nói, cái màu này đã quá quen thuộc rồi, đó là tươi, là màu của một lượng lớn tươi sau khi được trộn với đất bùn.
Sau khi vui mừng, chúng tôi không hẹn mà gặp quay ra nhìn Đông Lai và Vương Bảo Bảo.
Vương Bảo Bảo vỗ nhẹ vào đầu Đông Lai, ánh mắt đong đầy sự yêu mến và tự hào, sau đó nói một cách chắc nịch: “Tôi dám cá đây là người, Đông Lai chưa bao giờ nhận nhầm người với động vật cả.”
Qua giám định, vết được bóc tách khỏi đất bùn, tương đương với gần 500ml tươi.
Người bình thường sau khi mất một lượng nhiều như thế, nếu không được cấp cứu kịp thời, chắc chắn sẽ mất mạng.
Một lượng lớn dịch và lông được thu thập từ trong đống chăn, qua giám định DNA, độ trùng khớp với vết trong đất bùn lên tới , có thể định đây là của Đại Đổng.
Bằng chứng tương đối đáng cộng với lời khai của Tam Lừa, đội hình sự đã dựa trên cơ sở này để lập án, truy tìm Đại Đổng hoặc của ông ta cùng với tung tích của hung thủ.
Đông Lai từ đây lại càng nổi danh, mỗi nhân viên điều tra trong Chi đội Cảnh sát hình sự đều say sưa kể về sự tích của nó, đều nói sau này khi điều tra những vụ án chuyển , giấu hay vứt sẽ càng tự tin hơn.
Thẩm Thư nhân lúc nóng lửa rèn sắt, tiến hành điều tra tìm kiếm nơi nương náu của những tên ăn mày khác.
Bên trong căn ổ nhỏ mà Mã Tam, Bảo Ngốc và Trữ Ba để lại ngoài chăn màn và quần áo bẩn thỉu ra, không phát hiện được gì thêm.
Nơi nương náu của Tiểu Diệp lại tương tự với hiện trường Đại Đổng gặp nạn, sau khi Đông Lai tìm kiếm, đã tìm thấy một lượng lớn bên trong lớp đất bùn.
Đến đây, các điều tra viên đã nắm chắc được 9 phần, nhận định Đại Đổng và Tiểu Diệp bị người khác sát hại.
Còn Mã Tam, Bảo Ngố và Trữ Ba, tuy tạm thời chưa thể định còn sống hay đã , nhưng không rõ tung tích, e là cũng lành ít dữ nhiều.
Nếu như 5 vụ nghi ngờ là án mạng này sáng tỏ, đồng thời cũng không thể loại trừ khả năng vẫn còn những tên ăn mày khác bị hại mà Thẩm Thư và Tam Lừa không chú ý đến, thì đây sẽ là một vụ án mạng liên hoàn nhắm vào những kẻ lang thang cực kỳ hiếm gặp, khiến người khác nghe mà hãi hùng.
Hung thủ là một hay nhiều người? Động cơ gây án là gì?.