Ngày 30 tháng 10 năm 2014.
Trời âm u.
Thôn Tô Tương, thành phố Sở Nguyên.
Theo tôi thấy, phản ứng của Thẩm Thư đối với sự mất tích của tên ăn mày kia có hơi thái quá, hơn nữa trong thâm tâm tôi cũng không tán đồng.
Thời gian trôi qua, những vụ án ngày càng nhiều, tôi đã sớm đem cuộc nói chuyện ngày hôm đó ra ngoài chín tầng mây.
2 tuần sau nhắc lại vụ việc này, là do Hai Lượng đã vô tình tìm thấy chủ nhân của món tiền bị đánh cắp.
Đúng như dự đoán của Thẩm Thư, các vụ án mất tiền, lừa tiền mà đồn cảnh sát tiếp nhận quá nhiều, cho nên họ không quá bận tâm với những vụ án nhỏ lẻ mà số tiền bị mất chưa quá 2000 Tệ, cũng chẳng quá quan tâm đến tung tích của những tên ăn mày trên địa bàn.
Đội cảnh sát tuy đã phát đi thông báo hỗ trợ điều tra, nhưng chưa từng tổ chức cảnh lực để đi điều tra một cách nghiêm túc.
Việc Hai Lượng tìm được chủ nhân của món tiền bị mất hoàn toàn là do ngẫu nhiên.
Hôm đó anh ta lái xe qua thôn Tô Tương, bỗng trông thấy một người đàn ông cao lớn thô kệch tay cầm roi mây đuổi theo một người phụ nữ trên đường.
Trông Hai Lượng cục mịch bên ngoài vậy thôi, chứ bên trong lại vô cùng tinh tế, trong đội cảnh sát phải kể đến là một người chồng, một người cha tốt.
Anh ta trông thấy cảnh đàn ông đánh đập phụ nữ liền nóng , không khỏi bất bình.
Anh ta dừng xe lại, lao nhanh tới, tóm lấy cái tay đang vung cây roi mây của người đàn ông kia rồi vặn ngược ra sau.
Hắn ta là một kẻ lưu manh vô lại, Hai Lượng mới bẻ tay của hắn ra sau, hắn đã lập tức khom lưng, khụy gối, la lối om xòm.
Người đàn ông kia vai to bụng mỡ, mặt mày dữ tợn, có một hình săm rồng ở vai trái, đang nhe nanh múa vuốt, trông rất đáng sợ.
Người phụ nữ mới bị hắn ta đánh cho quỷ khóc sói tru thấy vậy, hùng hổ lao đến, cào cấu Hai Lượng.
Hai Lượng không kịp trở tay, bị cô ta cào rách một vệt dài trên cổ.
Hai Lượng có chút tức giận, liền chửi: “Cô không biết phân tốt xấu hả?”
Người phụ nữ đó ngoạc miệng: “Ai bảo mày đánh chồng bà, bà cào mày, cào mày.” Vừa gào vừa múa may để phô trương thanh thế.
Lúc này có nhiều người bu lại xem, rồi cười trên nỗi đau của người khác, có người giỡn cợt nói: “Nhị Hổ, anh lại đánh vợ à? Sớm muộn cũng có ngày vợ anh sợ chạy đến giường nhà người khác cho mà xem.”
Người đàn ông bị Hai Lượng khống chế chính là Nhị Hổ, lúc này Hai Lượng mới hơi buông tay, hắn mới thoải mái được đôi chút, chửi lại: “Có mà vợ mày chạy theo trai ấy.”
Lúc này Hai Lượng mới hiểu ra hai người kia là vợ chồng, cảm thấy xấu hổ, đáng nhẽ không nên lo chuyện bao đồng.
Anh ta thấy người phụ nữ kia vẫn còn hung hăng, liền đánh phủ đầu, thả tay người đàn ông đó ra, xuất trình thẻ cảnh sát rồi nói: “Tại sao hai người lại đánh nhau?”
Nhị Hổ thấy Hai Lượng là cảnh sát, lại biết võ, nên không dám xù lông nhím.
Hắn nhổ một bãi nước bọt xuống đất rồi đáp: “Thứ đàn bà tán gia bại sản, người ta nói đàn ông như cái cào quơ tiền, đàn bà thì như cái hũ đựng tiền, nhưng cái hũ của con đàn bà này thì không có đáy, bao nhiêu tiền cũng để rơi hết ra ngoài.”
Vợ của Nhị Hổ tên là Liên Hương, cũng không phải dạng vừa, mặt như Trương Phi cãi lại: “Bị trộm lấy mất thì tôi làm được gì? Một con đàn bà thì biết làm gì?”
Hai Lượng nghe ra manh mối, liền hỏi: “Mất bao nhiêu tiền? Mất ở đâu?”
Liên Hương oan ức đáp: “2000, mất ở nhà.
Con bà nó, thằng trộm đấy nhất định biết tôi giấu tiền ở khung gương.
Tôi đang ngồi trong phòng, thì bên ngoài có một thằng con hoang lấy đá chọi vào cửa kính nhà tôi, tôi đuổi theo nửa ngày cũng không tóm được nó, trở về thì thấy gương vỡ ra sàn, tiền cũng không thấy đâu.”
Hai Lượng hỏi: “Chuyện xảy ra từ khi nào?”
Liên Hương nghiến răng nghiến lợi đáp: “Hơn 20 ngày rồi.
Cái đồ dẫm kia đi buôn bán ở bên ngoài, để tôi ở nhà một mình, hôm nay về mới biết bị mất tiền, liền đuổi đánh tôi.
Con bà nó chứ, nếu hắn dám đánh tôi lần nữa thì lần sau tôi cho cả người với tiền của hắn đi mất luôn.”
Đám đông đứng xem lại phá lên cười, có người nói: “Liên Hương, lần sau mà bị Nhị Hổ đánh, cô dẫn cả người với tiền đến nhà tôi nhé.”
Hai Lượng không quan tâm đến đám người đang bỡn cợt, tiếp tục hỏi: “Thằng con hoang mà cô đuổi theo trông thế nào?”
Liên Hương đáp: “Bẩn tưởi, tầm 15 – 16 tuổi, trước hay lởn vởn quanh đây, trộm được tiền xong không thấy bén mảng đến nữa.”
Hai Lượng đột nhiên nghĩ ra một chuyện, liền hỏi: “Số tiền mà cô làm mất có đặc điểm gì không? Khi nhìn lại có thể nhận ra được không?”
Nhị Hổ nãy giờ không nói gì liền liến thoắng đáp: “Có đặc điểm, có đặc điểm, số seri đều được tôi ghi chép lại vào sổ.”
Nói đến đây, mọi người đều tặc lưỡi, Nhị Hổ đúng là cực phẩm trăm năm có một, không ngờ lại chép cả số seri tiền vào sổ, làm thế để phòng cướp bên ngoài hay trộm bên trong đây?
Hai Lượng tốn một đống sức, mới dẫn được mụ đàn bà đanh đá và tên đàn ông côn đồ đến được đội cảnh sát.
Nhị Hổ lôi ra cuốn sổ lúc nào cũng kè kè bên người ra, đối chiếu lần lượt với xấp tiền được tìm thấy dưới đế giày của Mã Tam, ngoại trừ 2 số seri bị Nhị Hổ chép nhầm thì những cái khác đều không sai một số, chứng tỏ đây đúng là số tiền bị đánh cắp của vợ chồng Nhị Hổ.
Thẩm Thư cẩn thận hỏi lại về bộ dạng của “thằng con hoang” mà Liên Hương nhắc đến, sau đó ra lệnh cho đội hình sự và đồn trưởng đồn cảnh sát quản lý khu vực cầu Hai Động: Tập trung cảnh lực, truy bắt Tam Lừa.
- ---------------------
3 tiếng sau.
Chi đội cảnh sát hình sự thành phố Sở Nguyên.
Mặc dù các nhân viên cảnh sát không hiểu tại sao huy động lực lượng lớn đến thế chỉ để truy bắt một thằng nhóc ăn mày tuổi vị thành niên, nhưng vẫn phối hợp, hiệu quả nhanh chóng, chưa đầy 3 tiếng đồng hồ đã tóm được Tam Lừa về đội hình sự.
Mới đầu Tam Lừa còn cứng cổ, nhưng vừa nhìn thấy Liên Hương, nhất thời nhụt chí, ngoảnh mặt đi không nhìn bà ta.
Liên Hương thì nổi cơn tam bành lao về phía thằng nhóc, như muốn cào Tam Lừa, tuy bị nhân viên cảnh sát đẩy ra, vẫn còn lớn giọng chửi bới: “Làm vỡ kính nhà bà, trộm tiền nhà bà, còn hại bà ngã rách cả đầu gối, bà cào cái đứa nào được đẻ mà không được dạy.” Nghe chừng Tam Lừa đã giở trò với bà ta không hề nhẹ.
Thẩm Thư thấy Tam Lừa đã ngầm thừa nhận hành vi trộm tiền, để Liên Hương lại đây không chỉ vô ích mà còn làm hỏng việc, liền sai người dẫn bà ta và Nhị Hổ đi ra.
Đối mặt với Thẩm Thư, Tam Lừa dường như có chút khó xử, bĩu môi ra thể chào hỏi, rồi lại cúi đầu.
Thẩm Thư im lặng hồi lâu, đoán chừng áp lực mà Tam Lừa chịu đựng đã đến giới hạn, mới nói: “Khai mau, Mã Tam đã cấu kết với nhóc để trộm tiền như thế nào?”
Tam Lừa có chút kích động, đỏ mặt tía tai đáp: “Tên khốn Mã Tam đó, đã thống nhất là tôi sẽ đứng bên ngoài để dụ người đàn bà đó đi ra, rồi hắn sẽ tìm thời cơ để lẻn vào nhà trộm tiền.
Ai ngờ khi lấy được tiền hắn không những không đưa tôi một đồng, lại còn đánh tôi một trận.
Cái loại không giữ lời, có cũng chẳng ai khóc thương.”
Thẩm Thư chỉ đợi câu nói này, không vòng vo nữa, tấn công trực tiếp để thằng nhóc không kịp trở tay, liền hỏi: “ của Mã Tam được vứt ở đâu?”
Tam Lừa không cẩn thận nên lỡ miệng, nheo mắt nhìn Thẩm Thư, cắn chặt răng không nói năng gì.
Thẩm Thư cũng không ép thằng bé, cho nó thời gian để suy nghĩ, 2 phút sau mới nói: “Đại Đổng ở trạm ga tàu và Trữ Ba ở quán net, cũng đi theo Mã Tam rồi?”
Tam Lừa rùng mình một cái.
Thằng bé là một kẻ lang thang ở trong cái thành phố Sở Nguyên này, nhưng hễ là ăn mày hay là lưu manh du đãng, dù không gọi được tên, nhưng cũng quen được mặt, thằng bé chẳng lạ gì Đại Đổng và Trữ Ba.
Thẩm Thư tiếp tục gây áp lực cho thằng bé, nghiêm túc nói: “Mã Tam cũng được, Đại Đổng hay Trữ Ba cũng được, bọn họ đã không còn người thân trên cõi đời này, hoặc đã cắt đứt liên hệ với người thân, chú tin là nhóc cũng thế.
Gần như không có ai quan tâm đến việc họ còn sống hay đã , nhưng có hai người thì buộc phải quan tâm, một là chú, hai là nhóc.
Với chú, là trách nhiệm công việc; Với nhóc, là những người đồng cảnh ngộ.
Chú rất cần sự trợ giúp của nhóc để tra ra tung tích của ba người họ.”
Tam Lừa tuy gian xảo, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một đứa trẻ, òa khóc đáp: “Mã Tam bị người ta rồi, Đại Đổng cũng rồi, còn có Bảo Ngốc, Tiểu Diệp, đều bị người ta rồi, cháu sớm muộn rồi cũng dưới tay hắn thôi.” Tam Lừa lại nói ra hai cái tên mà Thẩm Thư không biết đến.
Thẩm Thư cố giữ vẻ bình tĩnh, hỏi: “Nhóc nói chậm thôi, sao nhóc biết bọn họ bị Nhóc có nhìn thấy hung thủ không?”
Mặt Tam Lừa co giật, hai miếng thịt bên má nhảy lên nhảy xuống, tiếp tục nói: “Cháu đã nhìn thấy hung thủ, nhưng trời tối quá, khoảng cách thì xa, cháu không dám lại gần để nhìn.
Hắn đã Đại Đổng ở sau Tiểu Bạch Lầu, dọa cho cháu suýt thì đái ra quần, may mà không bị hắn phát hiện, nếu không giờ cháu đã không ngồi ở đây rồi.”
Tiểu Bạch Lầu là một công trình kiến trúc ở phía Nam ngoại ô thành phố Sở Nguyên, được xây dựng vào thời kỳ Dân quốc, từng là toà hành chính của cơ quan nhà nước, hiện đã bị bỏ hoang.
Thẩm Thư khẽ cau mày, bảo: “Nói rõ hơn đi, ví dụ như thời gian gây án, dáng vẻ của hung thủ, hắn dùng thủ đoạn nào để Đại Đổng, các tình tiết khác tương tự vậy, càng cụ thể càng tốt.” Tam Lừa dù gì cũng là trẻ vị thành niên, Thẩm Thư sợ làm thằng bé kinh động, cố gắng giữ giọng điệu ôn hòa.
Tam Lừa lấy hai tay xoa mặt, đáp: “Hơn nửa tháng trước, không nhớ là ngày bao nhiêu nữa, cháu đến tìm Đại Đổng để chơi.
Đại Đổng là một người tính tình kỳ quái, trước giờ toàn đi lại một mình, không kết thân với người khác, cả Sở Nguyên này chỉ có cháu được coi là bạn của ông ấy.
Cháu mới đi đến mé của Tiểu Bạch Lầu, liền nghe thấy động tĩnh phát ra từ căn lều của Đại Đổng.
Cháu đứng ở góc tường trông thấy một người, vừa cao vừa to, vung một thứ gì nhìn như cây búa, ra sức đập vào đầu Đại Đổng, phun ra như suối, Đại Đổng tru lên một tiếng rồi ngã gục ra sàn, âm thanh đó nghe vừa khó chịu vừa sợ hãi, như gõ vào tim cháu vậy.
Lúc đó cháu sợ bủn rủn cả tay chân, suýt thì ngồi bệt xuống đất, vừa bò vừa chạy, cũng may là không bị hắn nghe thấy.”
Thẩm Thư hỏi: “Nhóc cố nhớ lại xem, kẻ Đại Đổng trông như thế nào?”
Vẻ mặt của Tam Lừa lộ ra vẻ sợ hãi, tiếp tục nói: “Tối đó trăng rất tròn, vừa hay chiếu lên người hung thủ, nhưng hắn lại quay lưng về phía cháu, nên không nhìn thấy mặt.
Dáng vóc của Đại Đổng không thấp, hắn còn cao hơn Đại Đổng nửa cái đầu, mặc một chiếc áo ba lỗ màu xanh lá, trông rất cơ bắp, trên vai trái còn có một hình săm lớn.
Phần sọ khỉ của hắn bị hói, xung quanh vẫn có tóc.” Tam Lừa vừa nói vừa cuộn tròn trên ghế, như sợ hung thủ đột nhiên từ trên trời rơi xuống ghì chặt cổ mình.
Thẩm Thư tỏ ra nghiêm túc, im lặng hồi lâu, dường như đang phác họa trong đầu cảnh tượng lúc xảy ra vụ án, lại như đang phân tích chân tướng nội dung mà Tam Lừa kể lại.
Xem chừng Tam Lừa không chịu được cái sự yên lặng đến ức chế này, liếc mắt nhìn trộm Thẩm Thư.
Thẩm Thư lấy từ bao thuốc trên bàn ra một điếu, nhưng lại không hút, chỉ đặt dưới mũi rồi hít lấy hít để.
Thẩm Thư là một trong số ít những cảnh sát không hút thuốc, nhưng khi suy nghĩ một vấn đề lại thích đưa thuốc lên mũi ngửi, cậu ấy nói mùi thuốc lá giúp mình tư duy mạch lạc hơn.
Thẩm Thư thấy Tam Lừa nhìn điếu thuốc trên tay cậu ta mà thèm nhỏ dãi, liền bỏ thuốc vào trong bao, nói: “Phải mấy năm nữa nhóc mới được hút thuốc, nhưng chú khuyên nhóc sau này cũng đừng động vào cái món này, hại sức khỏe lắm, lại bị phụ thuộc, không tốt chút nào.
Sau khi Đại Đổng bị hại, nhóc có quay lại hiện trường lần nào không?”
Tam Lừa nghĩ lại còn thấy rùng mình: “Từ ấy đến giờ chưa từng quay lại, chỗ đó hoang vu, cháu sợ hung thủ nhớ mặt cháu, sẽ người diệt khẩu.”
Thẩm Thư thái độ không dứt khoát, nói: “Khi còn sống Đại Đổng có kể cho nhóc nghe rằng có người muốn ông ta, tại sao lại không?”
Tam Lừa thở dài một cái, đáp: “Hắn Đại Đổng là để trộm gan với thận!”
Thẩm Thư rùng mình thấy rõ, hỏi: “Sao nhóc biết?”
Tam Lừa đáp: “Đại Đổng đã kể cho cháu nghe, nói có người bỏ tiền ra để mua gan với thận của ông ấy, nhưng ông ấy không đồng ý.”
Lông mày của Thẩm Thư khẽ nheo lên, tiếp tục truy hỏi: “Là người thế nào? Bộ dạng? Đặc trưng?”
Tam Lừa lắc đầu: “Đại Đổng không nói, cháu cũng không hỏi, cái chuyện bán nội tạng này trong giới bọn cháu không hiếm gặp, nhưng mà chưa từng nghe nói có ai thực sự muốn bán.
Bọn cháu đã chịu đói chịu lạnh đủ rồi, nếu như trên người thiếu đi một bộ phận, thì càng khó sống.”
Thẩm Thư lại hỏi thêm mấy câu chi tiết khác, nhưng Tam Lừa đều không biết, vả lại trông bộ dạng cũng không giống đang nói dối.
Thẩm Thư hiểu tính cách của Tam Lừa, tuy thằng bé còn nhỏ, nhưng đã lăn lộn dưới tận cùng xã hội quanh năm suốt tháng, luyện được tính gian xảo và lõi đời, nếu thằng bé đã không muốn nói thì có truy hỏi cũng vô ích, nếu ép quá có khi nó lại nói nhăng nói cuội, cảnh sát cũng khó bề phân thật giả.
Tam Lừa tuy đã cấu kết với Mã Tam để trộm tiền, nhưng giá trị không lớn, cộng thêm tuổi còn nhỏ, sau khi cân nhắc Thẩm Thư vẫn thả cho nó đi.
Tuy biết không có tác dụng, nhưng cậu ta vẫn dùng mấy lời nạt nộ để hăm dọa nó.
Loại người như Tam Lừa khiến cảnh sát rất đau đầu, nó không cha không mẹ, không nhà không việc, không coi pháp luật ra gì, không có đạo đức ràng buộc, tội lớn tuy không phạm, nhưng lỗi nhỏ thì nhiều vô kể, lại không sợ ngồi tù, đi đến đâu cũng là nhà.
Khuyên nhủ, cảnh cáo, uy hiếp đối với nó đều không có tác dụng.
Chỉ đành bỏ mặc nó giao du với vùng tối, trở thành mối họa trị an cho xã hội..