Sáng ngày 8 tháng 3 năm 2003.
Tuyết lớn.
Đồn trú lâm thời của tổ chuyên án điều tra vụ nữ ở thôn Đại Oa.
Vụ án nữ ở lò gạch là vụ án được Văn phòng Cảnh sát tỉnh giám sát, điều tra đã lâu nhưng chưa có kết quả, Văn phòng tỉnh kiến nghị Sở thành phố Sở Nguyên cung cấp viện trợ, đồng thời nhấn mạnh trong quá trình làm án cố gắng hết sức để phối hợp nhịp nhàng với Sở Cảnh sát huyện Đại Oa.
Trước giờ Sở Cảnh sát thành phố luôn coi kiến nghị của Văn phòng tỉnh là mệnh lệnh để chấp hành, thế là, tôi và Thẩm Thư, Quản Nguy, Vu Ngân Bảo, 4 người xuất phát từ sáng sớm, đội nắng đội gió để đến thôn Đại Oa.
Lúc này, đã hơn nửa tháng kể từ ngày phát hiện ra nữ ở lò gạch.
Chúng tôi trước hết phải tiếp xúc với tổ chuyên án của Sở Cảnh sát huyện Đại Oa.
Người đảm nhận vai trò tổ trưởng tổ chuyên án là Trương Thao Quang, Đại đội trưởng Đại đội Cảnh sát hình sự Sở huyện.
Anh ta tầm 26 – 27 tuổi, sau khi tốt nghiệp Đại học chuyên ngành thăm dò địa chất, vào làm cho Đại đội Bảo vệ an ninh Quốc gia của Sở Cảnh sát huyện, chưa được 2 năm đã được đề bạt lên làm Đại đội trưởng Cảnh sát hình sự, trong khoảng thời gian này còn được cấp công quỹ để học lên Thạc sỹ, nghe nói là có người chống lưng, sẽ còn nhanh chóng thăng quan tiến chức, ở huyện anh ta đến cả Bí thư Huyện ủy cũng phải kính nể đến ba phần.
Trương Thao Quang không có thiện chí với chúng tôi cho lắm, không biết có phải vì ghen ghét Thẩm Thư, một người cùng trang lứa với anh ta nhưng lại có danh tiếng tốt hay không.
Tuy nhiên, Trương Thao Quang xuất thân từ tầng lớp quan “cáo già”, từ khi hiểu chuyện đã nghe quen tai, nhìn quen mắt cái sự giả dối và xảo trá của chốn quan trường, trong lòng dù có ghét đến đâu cũng không để lộ ra mặt, anh ta nắm chặt lấy tay của Thẩm Thư rồi nở nụ cười rạng rỡ: “Thẩm đội trưởng, sớm biết các anh sẽ đến, tôi mong ngóng vô cùng.
Anh là Trạng nguyên trong lĩnh vực này của chúng ta, danh tiếng như sấm bên tai, anh đến rồi, vụ án này coi như đã phá được một nửa.” Không biết Thẩm Thư có tận hưởng cái sự xu nịnh này hay không, dù sao thì tôi nghe thấy mà rợn hết cả người, bí bách không thốt nên lời.
Vậy mới nói, không phải ai cũng có tố chất làm quan liêu, bởi rất ít người có thể nói chuyện buồn nôn mà mặt không biến sắc như anh ta, chứ đừng nói đến việc vừa cười đã quay lưng lại đâm nhau một nhát, muốn làm vậy thì lương tâm phải bị một cách triệt để.
Thẩm Thư trong cứng ngoài mềm, cũng biết đi với bụt thì mặc áo cà sa mà đi với ma thì mặc áo giấy.
Vì tính xảo quyệt này của cậu ta, mà trong hai năm đầu làm việc chung với cậu ấy tôi đã từng nảy sinh hiềm khích, mãi đến sau này đã hiểu và công nhận sự kiên định và chính nghĩa không thể lay động trong nội tâm Thẩm Thư, mới hoàn toàn tin tưởng cậu ta.
Thẩm Thư và Trương Thao Quang hàn huyên mấy câu, bầu không khí hiện ra thật thắm thiết, người ngoài nhìn vào cứ ngỡ là người tài yêu mến người tài.
Nhưng trong lúc Trương Thao Quang giới thiệu về tiến trình điều tra vụ án, ngữ khí lại vô cùng cứng rắn, không cho phép sự nghi ngờ: “Đã cho điều tra hơn 30 nghi phạm, sàng lọc từng người một, yêu cầu họ khai báo thành thực hành tung của mình trước và sau khi xảy ra vụ án, ghi chép lại một cách đầu đuôi ngọn ngành, ít nhất phải có một người không phải người thân đứng ra làm chứng.
Hễ không có nhân chứng, sẽ cho là nghi phạm trọng điểm để xử lý.
Trước mắt có một người khả nghi nhất, tôi chuẩn bị tập trung lực lượng lên người hắn ta để thu được đột phá, người này chính là người chăn dê đã phát hiện ra .”
Thẩm Thư hỏi: “Quan Thượng Võ? Ông ta là người báo án mà.” Trương Thao Quang cười ha ha rồi vỗ tay đôm đốp: “Thẩm đội trưởng cao kiến, cái người tên Quan Thượng Võ này rất khả nghi.
Đầu tiên, ông ta là người báo án, cái chiêu trò vừa đánh trống vừa la làng chúng ta đã gặp nhiều rồi, người báo án lúc nào cũng là đối tượng tình nghi số một; Thứ hai, Quan Thượng Võ 40 tuổi mà vẫn độc thân, sống một mình trong gian nhà đất, cực kỳ tẻ nhạt, ông ta có thể không thèm muốn phụ nữ hay sao? Thứ ba, cũng là cái quan trọng nhất, ông ta không có người làm chứng cho chứng cứ ngoại phạm của mình.
Tổng hợp ba điểm này lại, Quan Thượng Võ có thời gian, động cơ và điều kiện gây án.
Hiện tại ông ta đã bị tôi bắt giữ, nhưng ông ta rất cứng mồm cứng miệng, kiểu gì cũng không chịu khai ra.
Theo tôi thấy, chỉ cần tăng lực thẩm vấn, sợ gì ông ta không nhận tội.”
Không biết những lời này đã kích động thế nào đến Thẩm Thư, còn tôi khi nghe xong thì toàn thân lạnh toát.
Loại suy đoán chủ quan mạnh mẽ không cần dựa vào sự thực này, vu oan giá họa, sẽ gây ra không biết bao nhiêu vụ án oan.
Cái tăng lực thẩm vấn mà anh ta nói, là thứ thủ đoạn thế nào đây? Bức cung? Dưới áp lực tinh thần và sự khổ sở về thể , một cổ hai tròng, nghi phạm thường sẽ không chịu được mà đành nhận tội, nhưng những lời khai ấy có đáng tin hay không? Đừng nói tới việc bằng chứng phạm tội của người chăn dê tên Quan Thượng Võ kia sẽ không được thành lập, cứ cho là ông ta đáng nghi thật, thì cách làm của Trương Thao Quang đã vi phạm nghiêm trọng trình tự làm án.
Thẩm Thư im lặng phút chốc, không tỏ thái độ, nói: “Chúng tôi vừa đến, vẫn chưa nắm được tình hình, trước hết hãy đi quanh thôn, tiện đường xem lại hiện trường vụ án, trở về chúng ta sẽ bàn tiếp, tranh thủ thống nhất ý kiến đôi bên, công việc sau đó mới dễ làm.” Trương Thao Quang cười đáp: “Thẩm đội trưởng ngựa xe mệt mỏi, đến cơm còn chưa kịp ăn đã bắt đầu công việc rồi, rất đáng để chúng ta học hỏi.” Thẩm Thư cũng cười coi như đáp lại, đột nhiên như nhớ ra điều gì, nói: “Đầu óc tôi thật là, phòng làm việc của Sở thành phố biết tôi đến huyện, nên có nhờ tôi giao lại cho Sở huyện một tập văn kiện, là tinh thần của cuộc họp mới nhất của Bộ Công an về việc cấm bức cung khi thẩm vấn, tôi vội đi quá nên quên mang theo mất rồi, hay là tôi cho người mang đến dùm nhé?”
Trương Thao Quang đơ ra một lát, đáp: “Không cần phiền phức vậy đâu, tập văn kiện đó Văn phòng tỉnh đã cho truyền đạt rồi, tôi làm xong vụ án này, trở về sẽ tổ chức cho cán bộ cảnh sát học tập theo.” Khuôn mặt anh ta thoáng ánh lên một tia khó xử..