Mỗi ngày trôi qua đều thật nhàm chán.
Chỉ mất một tháng kiên nhẫn thôi ạ. Tôi tin lời Shinohara nói. Tôi cứ chờ ngày xuất viện, đếm ngược từng ngón tay theo đúng nghĩa đen.
Tất nhiên, đây là lần đầu tiên trong đời tôi phải nằm viện.
Phòng bệnh của tôi nằm trên tầng năm của bệnh viện mà Matsumura đã giới thiệu, từ cửa sổ phòng riêng có thể nhìn thấy khu vườn cỏ và vài cây thông.
Vào ngày tôi nhập viện, Shinohara cho tôi biết cây thường xanh là một loại cây phổ biến ở bệnh viện. Gã nói rằng loại hoa lá rụng như hoa anh đào, bạch quả sẽ là điềm gở.
Quả đúng là Shinohara, cái gì cũng biết tuốt.
Mọi thủ tục nhập viện và điều trị đều được giao cho Shinohara và Matsumura. Matsumura là người đã chọn liệu pháp chùm tia proton cho tôi. Ông cho rằng nó không cần phẫu thuật và cơ thể sẽ ít bị căng thẳng hơn. Chừng đó cũng đủ cho tôi rồi. Dù có hỏi thêm về vấn đề kỹ thuật thì tôi cũng chẳng hiểu gì.
Tuy nhiên, lần đầu tiên đi tham quan thiết bị trị liệu tia proton, tôi hoàn toàn bất ngờ. Đó là vì nó khiến tôi nhớ đến một con tàu vũ trụ hơn là máy móc điều trị y tế.
Một proton sẽ di chuyển một quãng đường tương đương với 4 vòng quanh Trái đất và lặp lại quá trình đó 5 triệu lần, cuối cùng nó sẽ đạt tới 70% tốc độ ánh sáng ạ. Viên kỹ sư mặc áo khoác trắng dẫn tôi đi tham quan đã giải thích điều này cho tôi.
Tôi đang ngồi trước một máy gia tốc hình bánh donut lấp đầy căn phòng, rồi ngẫm nghĩ câu chữ 70% tốc độ ánh sáng của kĩ sư. Hoàn toàn không hiểu tí gì, nhưng thật là háo hức.
Cỗ máy hàng thật đang chiếu xạ proton gia tốc trông giống hệt con tàu vũ trụ mà tôi tưởng tượng ra.
Đó là một buồng khoang lớn màu trắng tinh khiết. Người kỹ sư cho biết rằng nó cao 10 mét và nặng khoảng 200 tấn. Bên trong buồng khoang, thành trong của khoang bao quanh bệnh nhân khi họ nằm xuống, rồi hướng chùm tia proton tới tổn thương.
“Rồi sao nữa?” Tôi hỏi. “Khi nào tôi sẽ được bay vào vũ trụ?”
Chắc anh ta nghĩ đó là một câu đùa. Kĩ sư giỡn lại rằng: “Ông không thể đi vào vũ trụ, nhưng cũng sẽ không sang thế giới bên kia đâu ạ.”
Tôi chưa từng hát một bài hát nào kể từ khi ra đời. Thậm chí còn chưa bao giờ đùa cợt kiểu như thế.
Đó là câu hỏi trong vô thức của tôi. Hay là đã có khoảnh khắc tôi thực sự nghĩ mình có thể du hành vũ trụ, tưởng tượng ra việc đi lên mặt trăng.
Tất nhiên, tôi nhanh chóng chấp nhận hiện thực. Như Shinohara đã nói, tôi sẽ trải qua quá trình điều trị để loại bỏ những đám mây che phủ vầng trăng. Nó khác với việc lên mặt trăng. Nhưng mặt khác, lý do tôi quyết định đến bệnh viện một phần là do lời thuyết phục của Shinohara và Matsumura khi họ thấy tôi bất tỉnh tại quán cà phê, nhưng chủ yếu là do máy điều trị trông giống tàu vũ trụ. Cảm giác như là một mối nhân duyên vậy.
Shinohara và Matsumura cũng có mặt trong cuộc chẩn bệnh trước khi nhập viện. Tôi hiểu họ cảm thấy thế nào. Tôi đoán họ nghĩ rằng tôi sẽ trả lời câu hỏi của bác sĩ là “Không vấn đề gì” hoặc “Tôi bất tử”, như mọi khi vậy.
Nhưng tôi đã kể tất cả sự thật. Tôi hiểu lẽ thường tình mà.
Không ích gì khi nói dối để mà tiếp nhận điều trị.
Khi bác sĩ biết về chế độ ăn uống và steroid của tôi, ông ấy đã lắc đầu sửng sốt. Mình đã sống một cuộc đời đẹp nhỉ, tôi nghĩ và thở dài.
“Tất nhiên rồi,” tôi nói, ưỡn cơ ngực ra. “Tôi bất tử mà.”
Tôi đã nói dối Kumaru rằng mình sẽ ra nước ngoài. Tôi bảo nàng đừng lo lắng vì tôi sắp ra nước ngoài tìm thiên thạch, và sẽ không thể về nhà trong một thời gian.
Kumaru không khó chịu vì mấy chuyện đó. Vâng, em biết rồi, nàng nói ngọt ngào. Khỏi phải nói, đêm đó tôi đã nhét đầy Viagra vào miệng mình.
Như đã nghe từ Matsumura và bác sĩ phụ trách, việc điều trị không gây đau đớn. Chỉ cần ở yên một chỗ thôi. Khi tôi trần truồng nằm trên giường trong phòng chiếu xạ, một dụng cụ kẹp y tế được đặt quanh eo để ngăn tôi cử động. Không biết nó được làm từ chất liệu gì, nhưng kẹp y tế giống như tấm nhựa cứng lại để khớp với vóc dáng người tôi.
Sau đó chiếc giường di chuyển, cơ thể tôi được đưa vào trong buồng khoang. Chỉ nằm khoảng mười phút thì quá trình điều trị sẽ kết thúc. Tôi không cảm thấy gì cả. Tôi vẫn là chính mình. Dĩ nhiên làm sao có thể đi vào vũ trụ được chứ.
Một ngày ở bệnh viện bắt đầu bằng bữa sáng lúc 8 giờ sáng.
Sau bữa trưa, bữa tối được phục vụ lúc 6 giờ chiều và đèn tắt lúc 8 giờ tối. Đồ ăn ở đây dở tệ. Suất ăn còn ít nữa. Chẳng có mùi vị gì. Protein động vật và muối không tốt cho bệnh của tôi, nên về cơ bản dĩ nhiên phải dở tệ rồi. Tôi buộc mình phải nhai đến năm mươi lần để cảm thấy hài lòng dù chỉ một chút. Lúc đầu, phần hàm dưới có cảm giác đau nhức, nhưng nếu coi đó là việc tập luyện thì cũng không đến nỗi tệ. Đương nhiên, tôi không thể đến phòng gym vì không được phép tập luyện quá mức, nên thay vì đẩy một thanh tạ nặng 325kg, cuối cùng tôi lại nhai đi nhai lại những món ăn kinh khủng.
Nước ép rau phục vụ trong mỗi bữa ăn là ổn nhất.
Nó có thể là hỗn hợp của nhiều loại, nhưng nếu dành thời gian nhấm nháp nó từ từ, hương vị và chất dinh dưỡng từ rau sẽ thấm vào cơ thể. Nó mang lại cảm giác dễ chịu cho người hơn là cái tia proton không hề hấp dẫn năm giác quan của con người chút nào.
Ngay sau khi vào bệnh viện, tôi cảm thấy cơ bắp mình râm ran. Mọi nhóm cơ trên thân thể đều đang kêu gọi tập luyện. Tôi đã thử chống đẩy, gập bụng và squat hàng nghìn lần trong vài ngày, nhưng cơ bắp vẫn không thỏa mãn.
Cơ thể tôi đòi hỏi một trọng lượng không tưởng. Không còn gọi là sức nặng nữa, mà là một sự trừng phạt ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng.
Tôi lập tức ngừng vùng vẫy. Tôi đã luyện tập chăm chỉ mỗi ngày trong 20, 25 hoặc 30 năm rồi. Tôi tự nhủ rằng đôi lúc mình cần được nghỉ ngơi. Ngoài ra còn có giả thuyết rằng việc tập luyện cơ bắp sau khi nghỉ ngơi sẽ mang lại sự kích thích mới cho cơ bắp, dẫn đến sự phát triển đáng kể hơn.
Hơn nữa cơ thể tôi không bình thường.
Ngay khi được sinh ra, tôi đã tỉnh dậy trong nơi xú uế. Tôi đã chiến thắng thử thách của đại dương. Đời nào mà tôi lại dễ dàng đánh mất cơ bắp được ánh trăng nuôi dưỡng cơ chứ.
Mỗi khi đi tắm, tôi đều kiểm tra cơ thể mình. Tôi xem xét từng bộ phận của cơ thể phản chiếu trong gương bằng con mắt khắt khe. Bạn có thể nghĩ tôi là người tự luyến khi nói điều này, nhưng thực tế không phải vậy.
Tôi không yêu, cũng không ghét bản thân mình. Sự thật duy nhất về tôi là như vậy. Thân xác tôi là công cụ cho công việc của tôi và là nơi cầu nguyện cho những kẻ xin được chết. Đó là lý do tại sao tôi quan tâm đến cơ thể mình.
Tuy nhiên, sau một tuần, cơ bắt đầu mất đi độ căng. Tôi không thể làm gì được. Tập luyện cũng vậy, nhưng đau đớn nhất là tình trạng thiếu dinh dưỡng và hơn hết là việc ngừng sử dụng steroid.
Đương nhiên là tôi dự định đến phòng gym ngay khi xuất viện. Dù bác sĩ có nói gì đi chăng nữa thì tôi vẫn tiêu thụ rất nhiều protein và sử dụng steroid. Nếu làm thế thì tôi sẽ sớm trở lại bình thường.
Không cần phải làm gì ngoài việc ở trong buồng khoang 10 phút mỗi ngày một lần. Tôi không đọc sách hay xem TV. Như đã nói trước đây, sách là đồ ăn của tôi và tivi là thứ để tôi đập phá. Tôi luôn bị đau đầu khi xem TV, cảm giác giống như say tàu xe vậy. Điều này là do nó cứ luôn lần lượt chuyển cảnh này sang cảnh khác.
Thứ mà tôi thấy là biển sẽ trở thành núi. Đang là một ngọn núi lại chuyển sang một thành phố. Điều đó thật vô lí. Ít nhất là tôi không thể hiểu được nó. Vì vậy tôi sẽ phá hỏng nó.
Cửa hàng tôi cũng từng có một cái TV từ thời chủ cũ. Người chủ tiền nhiệm của tôi từng bị ám ảnh bởi nó nhưng tôi đã đập vỡ chiếc TV ngay sau khi ông qua đời. Tôi chộp lấy chiếc TV ống tia âm cực bằng cả hai tay, rồi nghiền nát nó như một cái mỏ kẹp.
Xét về thời gian điều trị ngắn này, có lẽ chỉ cần đi đến bệnh viện vài lần là đủ. Nhưng chắc là Shinohara và Matsumura đã quyết định nhập viện cho tôi. Chẳng biết họ sẽ làm gì nếu rời mắt khỏi tôi nữa. Tôi cũng đồng ý với Shinohara và Matsumura. Tôi không biết mình phải làm gì.
Cục thiên thạch mặt trăng đang nằm trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường trong phòng bệnh của tôi. Tôi chỉ mang mỗi nó từ nhà đi mà thôi. Còn những thứ khác thì mua ngoài cửa hàng.
Tôi thiền định trên giường với cục đá mặt trăng trên đầu. Đặt nó lên gan và cầu nguyện cho sự bình phục hoàn toàn. Tôi cắn vào nó như cắn một quả táo.
Đó là cái gì vậy?
Bác sĩ phụ trách của tôi nhìn vào thiên thạch và hỏi tôi câu đó.
Khi tôi trả lời rằng đó là đá mặt trăng, anh ta khịt mũi và cười như một kẻ ngốc.
“Ông đừng nên ngủ suốt như vậy và thỉnh thoảng đi dạo xem?”
Một kẻ kiêu ngạo. Mặc dù đối với tôi, tên đó chỉ là một đứa con nít nhưng lại không sử dụng kính ngữ và nói chuyện lễ phép với tôi.
Dù Matsumura đã nói, “Một bác sĩ tay nghề giỏi là như vậy ạ,” nhưng tôi lại không ưa tên này chút nào. Khi nào hắn muốn chết, tôi sẽ thọc ngón tay vào hậu môn của hắn.
Có ba cô y tá thay nhau chăm sóc tôi, họ mang đồ ăn, thuốc men và đo huyết áp cho tôi.
Lúc đầu, cả ba người đều có vẻ bối rối vì trông thấy tôi đồ sộ như thế này, nhưng họ sớm bắt đầu đối xử với tôi như một đứa trẻ. Có lẽ họ xem tất cả bệnh nhân như là trẻ em chăng.
Khi đang đo huyết áp, tôi căng cơ bắp tay và giật dây đai nhưng họ mắng tôi và kêu tôi dừng lại.
Một cô nhìn vào thiên thạch và hỏi, “Đây là cái gì?” Tôi đáp: “Là phân.” Cô ấy bật cười.
Tôi nhìn chằm chằm vào thân hình của các y tá. Ai cũng đều gầy trơ xương. Như Kumaru thì sẽ đẹp hơn nhiều. Tôi nhớ vòng eo và đôi chân dày dặn của nàng, mà hình như nàng không có eo thì phải.
Tôi đã nhập viện vào một ngày trăng non. Sau khi trăng tròn xuất hiện và trở lại thành trăng non thì tôi có thể xuất viện rồi. Ngay qua ngày, tôi đều nhìn lên trăng từ cửa sổ. Rồi lại nhớ đến hòn đảo nơi tôi sinh ra và lớn lên.
Tôi đã từng kể câu chuyện đó rồi nhỉ? Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường chặt cây tre trên khắp đảo bằng dao rựa. Có người đã kể cho tôi nghe câu chuyện cổ tích Nàng tiên trong ống tre khi tôi đang ngắm trăng. Rồi tôi cố gắng tìm một bé gái nào đó trong bụi tre. Nếu bé gái đó trưởng thành và quay trở về cung trăng, mình cũng muốn cô ấy đưa mình đi cùng. Tôi nghĩ vậy đấy. Mình đã chặt được bao nhiêu cây tre rồi? Đương nhiên là một cô bé không thể nào ở trong cây tre được. Nhưng vì lý do nào đó, tôi lại tìm thấy một con chuột bên trong. Con chuột nhỏ bé đang nằm ngủ trong cây tre. Những ngày này tôi nhớ đến con chuột đó rất nhiều. Con chuột đến từ đâu? Nó đã đi đâu rồi?
Liệu tên Bù Nhìn Nhảy Múa lái cỗ Xe Tăng Rừng có đến được mặt trăng an toàn không nhỉ?
Ngoài ra tôi còn nghĩ về Kumaru nữa. Nàng ăn có ngon không? Có ngủ ngon không? Tôi là người duy nhất có thể hiểu tiếng nước ngoài mà Kumaru nói. Chính vì vậy trước khi nhập viện, tôi đã chất đầy thịt vào tủ lạnh và rất nhiều đồ hộp cho Kumaru, vì nàng thậm chí còn không thể đi mua sắm mà. Chắc nàng đang ngấu nghiến đồ cay với cái miệng và hàm răng khấp khểnh, đôi môi ướt át phải không nhỉ? Nàng có nhớ cơ thể này của tôi, và giữa hai chân nàng có ướt đẫm không?
Ngoài ra, tôi còn nhớ đến nhiều câu chuyện trải lòng khác.
Bên trong tôi ẩn chứa lời giãi bày của những người mà tôi đã giết.
Bằng cách nhớ lại những câu chuyện ấy, tôi sẽ sống cuộc đời của những người đó.
Tôi đã đi bộ rất nhiều mà không cần bác sĩ phải yêu cầu.
Tôi đi xuống cầu thang lên tầng một, băng qua những chiếc ghế dài nơi mọi người ngồi chờ khám và đi ra ngoài qua cổng chính. Khi đi dọc theo vỉa hè lát gạch và vòng qua phía bên trái của bệnh viện, một khu vườn rộng rãi sẽ chờ trước mặt.
Tôi đi quanh quẩn trong khu vườn mùa đông. Những cây thông được trồng đây đó trên bãi cỏ sắp chết, và những tấm bảng nhỏ ghi tên các loài hoa được dán trên bồn hoa.
Tôi rất ghét mùa đông.
Cảm giác tĩnh lặng ở đâu đó dưới tận đáy thật đáng ghét.
Tôi cũng không ưa cơn gió lạnh thấu như đang muốn gây sự với mình.
Tôi ghét cả những kẻ ôm vào vai nhau để sưởi ấm.
Có đàn cá chép đủ loại màu sắc đang tụ tập lại vào nhau trong một cái ao nằm giữa khu vườn.
Tôi ném số cơm thừa từ bữa trưa xuống ao. Cá chép nổi lên mặt nước, chúng há cái miệng tục tĩu và bú lấy thức ăn, quay tròn rồi lại chìm xuống đáy.
Tôi cúi xuống quan sát những con cá chép cho đến khi mực nước lắng xuống, và bóng hình của tôi trở lại bình thường.
Có một khu vực nghỉ ngơi nằm trong góc, dường như là nơi lui tới của những bệnh nhân thường xuyên. Tôi nghe thấy tiếng cười. Họ đang đánh cờ tướng và cờ vây, cho nhau xem những bức ảnh gia đình. Tôi sẽ không đến gần đó đâu.
Một lần, tôi tình cờ gặp một ông lão, đó chính là người đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc.
Ông ấy đang lắc đầu trên chiếc xe lăn, có một ống dây nối với bình oxy, dây được đưa vào lỗ mũi của ông. Chiếc áo khoác sang trọng quấn quanh thân hình nhăn nheo của ông thật không cân xứng. Bộ lông không rõ của con gì trên áo khoác nổi bật một màu vàng óng dưới ánh nắng mùa đông.
Ông lão đó là người nhỏ con nhất và có lẽ là người già nhất mà tôi từng gặp. Lão nhỏ bé như búp bê, héo úa như xác ướp vậy. Đôi mắt khép hờ của lão có màu trắng đục ngầu.
Người đẩy chiếc xe lăn là một thanh niên với khuôn mặt sắc sảo. Hắn ta mặc vest có cổ áo và áo khoác dài hoàn toàn một màu đen. Một viên kim cương lớn tỏa sáng trên ngón tay hắn.
Khoảnh khắc chúng tôi lướt qua nhau, hắn ta trừng mắt nhìn tôi với ánh mắt sắc bén.
Mà thỉnh thoảng thì Shinohara cũng hay đến thăm tôi.
Ban đầu gã mang cho tôi một bó hoa, nhưng từ khi tôi bảo gã mang về đi thì gã luôn đi người không.
Ông khỏe không? Tình trạng thế nào rồi ạ?
Đó là điều Shinohara luôn hỏi khi nhìn thấy mặt tôi.
“À. Không sao.”
Tôi đáp lại.
Sau đó cả hai chúng tôi đi dạo trong vườn.
Chúng tôi không nói chuyện nhiều lắm.
“Trời lạnh thật đấy ạ.”
“Ờ.”
“Có vẻ như một thiên thạch đã rơi xuống Canada vào ngày hôm nọ. Khi nào ông xuất viện thì ta cùng đi nhé.”
“Tôi ghét đi máy bay lắm.”
“Vậy đi thuyền thì sao ạ?”
“Thuyền à? Tôi không có hứng đâu.”
Chuyện là vậy đó. Sau đó, hai chúng tôi ngồi bệt xuống bờ ao một cách vu vơ.
Khi tôi đang nhìn vào vô số miệng cá chép đang phát ra tiếng thì một chiếc xe lăn xuất hiện ở bên kia ao.
Lũ cá chép hoảng sợ bơi vội xuống đáy ao.
Ông lão kia dường như đang có tâm trạng không tốt lắm. Lão rút ống trong mũi ra và ngọ nguậy đôi chân nhỏ bé của mình.
Khi tôi đến gần để trở lại phòng bệnh, tên thanh niên đi cùng ông lão đứng chắn đường như muốn bảo vệ chiếc xe lăn và trừng mắt nhìn tôi. Hắn ta làm động tác như thể đuổi ruồi bằng bàn tay có viên kim cương.
Thật là một kẻ thô lỗ. Tôi dừng lại và trừng mắt nhìn gã đeo viên kim cương. Hắn thấp hơn tôi, nhưng người ngợm hắn trông không tệ chút nào. Tôi đến gần định chơi đùa với hắn một lúc, Shinohara liền nắm lấy tay và kéo tôi đi.
Khi tôi leo cầu thang lên phòng bệnh để tiễn Shinohara, tôi cảm thấy có thứ gì đó đang lôi cuốn mình. Khi đến gần kẻ đeo kim cương, có một mùi hương thoang thoảng nhưng lại khiến tôi chú ý. Một mùi hương hoài niệm mà tôi đã từng ngửi thấy ở đâu đó trước đây.
Tôi nhớ nó ra ngay lập tức. Đó là mùi mà tôi từng ngửi thấy trên hòn đảo gái điếm đó cách đây từ lâu, và cả lúc được trị liệu bằng tinh dầu nữa, đó là mùi hương thảo.
Ngày hôm sau, khi đang thực hiện liệu pháp chữa trị bằng tia proton bên trong một buồng kén màu trắng, tôi nhận ra một điều. Mùi hương thảo có thể là mùi nước hoa của kẻ đeo kim cương, hay đó là của ông già ngồi xe lăn?
Tôi quyết định đi vòng quanh bệnh viện. Tôi nhanh chóng tìm thấy phòng bệnh của ông lão đó. Nó ở phía sau tầng trên cùng của bệnh viện sáu tầng này, cao hơn phòng tôi một tầng. Có hai người canh gác đứng trước cửa nên nhất định không thể sai được. Rất ít bệnh nhân có người bảo vệ. Dù được gọi là vệ sĩ nhưng họ vẫn còn trẻ và trông như lính mới vậy. Cả hai đang trò chuyện với hai tay đút trong túi áo khoác.
Họ nhận ra khi tôi từ từ đến gần, và sắc mặt của họ nhanh chóng thay đổi.
Tôi đang mặc một chiếc áo phông nên những thớ cơ bắp giống như áo giáp của tôi nổi bật lên rõ ràng.
Tôi dừng lại và trừng mắt nhìn hai thanh niên kia. Chiều cao của tôi và hai kẻ đó như một trời một vực vậy.
“Là tôi đây. Vào nhé.”
Hai tên kia nhìn nhau rồi tránh đường mà không nói một lời. Cả hai đứng thẳng và cúi đầu.
Tôi mở cửa và bước vào phòng bệnh.
Ở đây khá rộng rãi, có lẽ lớn gấp đôi, không, gấp ba lần phòng tôi.
Trên sàn có một tấm thảm màu đỏ tươi và một bộ ghế sofa cùng màu. Có món sukiyaki chưa ai ăn vẫn nằm ở bếp ga trên bàn.
Có lẽ là của hai tên ở trước cửa chăng.
Một bộ lông màu vàng kim được treo trong tủ quần áo mở toang.
Ông lão đó đang ngủ bên cửa sổ.
Tôi đến gần chiếc giường và nhìn chằm chằm vào ông già nhỏ bé không hề giống con người. Mặt lão to như viên đá mặt trăng mà tôi sở hữu vậy. Chẳng thể đọc được bất cứ điều gì từ biểu hiện của ông lão. Một ống trong mũi của lão được nối với bình oxy.
Tôi áp mặt mình vào gáy ông lão và ngửi mùi hương của lão. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là hương thảo.
Tôi cởi phía trước bộ kimono, kéo áo thun lên và kiểm tra cơ thể ông lão. Vẫn còn một chút màu hình xăm sót lại dưới làn da sẫm màu và chảy xệ.
“Chủ nhân.” Tôi gọi lão.
Không có phản ứng gì. Tôi vẫn chưa chắc chắn điều đó. Nếu ông già này là gã Ma Cô mà tôi từng biết thì chắc lão đã phải hơn trăm tuổi rồi. Ngoài ra, người cai trị hòn đảo và từng được dân làng kính sợ thực sự tí hon đến thế này sao?
Tuổi già đã làm lão ta teo nhỏ lại hay tôi đã to lớn quá rồi?
“Này, chủ nhân.”
Khi tôi gọi lại lần nữa, cánh cửa bật mở. Gã thanh niên đeo kim cương và hai tên đàn em nhảy vào. Một đứa vấp phải chiếc bàn,
phần còn lại của sukiyaki rơi xuống sàn.
Ngươi đang làm gì thế?
Tôi không trả lời câu hỏi của gã đeo kim cương. Hắn lấy ánh sáng lấp lánh của chiếc nhẫn kim cương làm tín hiệu, hai tên đàn em tấn công với con dao bấm trên tay.
Tôi cúi xuống và đặt tay xuống đáy giường, rồi nhấc giường một phát lên tới ngực.
Một đứa dừng lại còn đứa kia ngã khỏi giường và lộn nhào.
Khi tôi lặng lẽ hạ giường xuống, ông già đã tỉnh dậy sau giấc ngủ.
Lão nhìn chằm chằm vào tôi với đôi mắt bé nhỏ đầy gỉ mắt.
“Chủ nhân.”
Đôi mắt mơ hồ đó tập trung vào lời nói của tôi.
“Là con đây. Ông đã từng cưu mang con trên đảo ấy.”
Đôi mắt lão run rẩy như một chiếc la bàn điên cuồng.
“Ông đã từng ném con xuống biển, từng sai con giết cá voi.”
Khi tôi nói vậy, sự run rẩy trong mắt ông lão dừng lại. Lão nhìn chằm chằm vào tôi một lúc:
Là mày đấy hả?
Lão rên rỉ và siết chặt tay lại.
Tên đeo nhẫn kim cương đút tay vào túi áo khoác và nhìn chúng tôi. Có lẽ bọn chúng không biết phải giải quyết thế nào nữa.
Khi lão Ma Cô để ý đến tên đeo kim cương, lão xua tay tỏ vẻ khó chịu và ra lệnh cho hắn ta rời đi.
Mặc dù vậy, tên đeo kim cương đang dơ dự và lão bắt đầu động đậy tay chân, trở nên hung dữ. Mùi hương thảo bỗng nồng nặc hơn.
Khi tên đeo kim cương và đám đàn em biến mất, lão Ma Cô lại nắm lấy tay tôi.
Là mày đấy hả?
Lão lại lẩm bẩm.
“Vâng, là con đây.”
Tôi nhìn lại lão Ma Cô. Thật là thấp bé. Khi tôi rời mắt khỏi lão rồi nhìn trở lại, lão thậm chí còn bé nhỏ hơn nữa. Bàn tay đang nắm tay tôi có kích thước chỉ bằng một cái kẹp quần áo.
Ông ta sắp tan biến rồi, tôi nghĩ. Lão dần dần trở nên li ti và rồi biến mất.
“Ông có muốn chết không?”
Tôi hỏi.
Lão Ma Cô lắc đầu chán ghét, lão kéo tay tôi ra và đặt lên ngực mình.
Tôi biết lão Ma Cô đang tìm kiếm điều gì.
Khi còn ở trên đảo, tôi đã chữa trị cho nhiều người bằng cách đặt tay lên họ, kể cả gái điếm và lũ đàn em. Chắc hẳn lão Ma Cô đã nhớ ra điều đó. Chẳng rõ hiệu quả thế nào, nhưng có gì đó như một quả cầu nằm sâu trong bụng tôi trở nên nóng ran, và khi hơi nóng đó truyền qua lòng bàn tay thì họ sẽ cảm thấy nhẹ nhõm phần nào. Nhưng tôi không thể làm được vậy vào lúc này nữa. Chắc hẳn lần cuối cùng tôi trị thương là cho vợ của Matsumura cách đây mười, mười lăm hay hai mươi năm rồi.
Tôi đã hoàn toàn quên mất năng lực này. Hay là nó đã cạn kiệt rồi chăng.
Dù có tập trung đến đâu thì quả cầu nằm sâu trong bụng cũng không xuất hiện. Thậm chí không có một dấu hiệu nào cả.
Tuy nhiên được một lúc thì lão Ma Cô cũng bắt đầu ngủ yên.
Ngày hôm sau, khi đã ăn xong bữa trưa nhạt nhẽo và điều trị bằng tia proton, tôi đến thăm phòng bệnh của lão Ma Cô.
Bọn lính mới đang ăn sukiyaki trên ghế sofa, còn kẻ đeo kim cương đang thay tã cho lão Ma Cô.
Khi bọn lính nhận ra tôi thì chúng liền đứng thẳng và cúi đầu. Gã đeo kim cương lấy thân mình che đậy của quý của lão già. Sau khi ném chiếc tã bẩn thỉu vào thùng rác và sửa sang lại bộ kimono, gã ra lệnh cho lính chuyển ghế sofa sang một bên giường.
“Mời vào.” Gã mở cửa mời tôi vào.
Khi chỉ còn tôi và lão Ma Cô, lão nắm lấy tay tôi và đặt lên ngực mình như một kẻ sắp chết đói.
“Ông xin lỗi.” Lão xin lỗi tôi bằng cái miệng còn nhỏ hơn cả miệng cá chép.
“Vì cái gì ạ?” Tôi hỏi.
“Ông rất yêu hòn đảo đó.” Lão Ma Cô đáp. Lão nói rằng lão yêu quý tôi, yêu đám đàn em và cả gái điếm.
Giọng của lão ngập ngừng và lí nhí vì khản đặc. Nhưng với tôi thì không có vấn đề gì cả. Giống như tôi có thể hiểu được lời của Kumaru vậy, những gì lão Ma Cô muốn nói vang vọng trực tiếp vào đầu tôi.
“Lúc đó, hòn đảo của ông sắp bị hủy diệt rồi. Ông nghĩ điều đó sớm muộn cũng sẽ xảy ra.”
Khi lão nói vậy, cái nắm tay của lão càng trở nên chặt hơn.
“Chẳng thể nào đi ngược lại dòng chảy của thời đại. Một hòn đảo chứa đầy gái điếm vô pháp không thể dung thứ được mãi. Thế là ông rời khỏi đảo. Có lẽ mày không tin nhưng ông đã đến đất liền và làm mọi việc có thể để giữ cho hòn đảo tồn tại. Ông đến thăm các vị luật gia có tiếng tăm, phục chờ để trình bày với các bộ trưởng, thậm chí còn thuê cả người thu thập chữ ký. Nhưng tất cả chỉ là nỗ lực vô ích. Ông đã nhận ra điều đó. Ông có thể là vua chúa trên hòn đảo, nhưng trên đất liền thì ông chẳng khác gì loài chó hoang. Thế là ông quyết định sống như một con chó hoang. Ông nghĩ rằng mình sẽ từ bỏ nhân tính và nuốt chửng những kẻ khác. Ông không quên lời hứa với những thằng đệ của ông. Chắc mày cũng còn nhớ mà. Ông từng nói rằng một ngày nào đó sẽ đến đất liền, trở nên vĩ đại và chăm sóc bọn mày. Nhưng ông chẳng hề có học thức lẫn tài năng. Điểm mạnh duy nhất của ông là sự gan dạ và khả năng sử dụng dao. Ông đã không còn cách nào khác. May mắn thay, Nhật Bản lúc đó vẫn đang trong quá trình phát triển và đầy rẫy những lỗ hổng. Nếu có lỗ hổng thì sẽ có những kẻ đục nước béo cò. Nói cách khác, lỗ hổng giống như con đường từ chiều không gian khác để kiếm lời nhanh chóng mà không cần bất kỳ sự pháp lý nào. Trong bóng tối đó có rất nhiều những kẻ yêu ma quỷ quái, bọn chúng thậm chí không đáng gọi là người. Trong một thế giới nơi bọn quái vật hình thành bè phái và tham gia vào các cuộc xung đột đẫm máu hàng ngày, các ngón nghề của ông đã có tác dụng. Ông mày không bao giờ do dự dù công việc có nguy hiểm hay bẩn thỉu đến nhường nào. Ông đã phải khốn cùng nhiều lần nhưng lần nào cũng có một bàn tay từ thế giới bên kia đưa ra giúp đỡ. Ông luôn được ai đó cần đến. Ông đã từng xu nịnh bọn chúng và rồi phản bội chúng. Dần dần ông có được sức mạnh và đồng thời loại bỏ những kẻ cản đường mình. Cũng giống như bọn đàn em trên đảo, một vài tên côn đồ đã tụ tập xung quanh ông trước khi kịp nhận ra. Ông tiếp tục đi và đã nổi danh trong thế giới ngầm tối tăm đó. Ông đã tận tụy hết mình để mở rộng tổ chức. Mọi người đều sợ hãi, kính trọng và quỳ xuống trước ông. Nhưng ông chẳng thấy hạnh phúc chút nào. Không có cảm giác thành tựu. Ông vẫn luôn nghĩ về hòn đảo đó. Nó khác với việc nhớ về quê hương. Quê của ông còn ở xa hơn về phía nam. Nhưng đối với ông, hòn đảo đó là một chốn thiên đường. Tổ chức của ông đã phát triển ngoài sức tưởng tượng, một tổ chức kỳ lạ. Nó tự phát triển như một quả cầu tuyết lăn xuống dốc sau một khoảng thời gian nhất định. Ông tin rằng một ngày nào đó ông sẽ có thể thoát khỏi thế giới ngầm tăm tối này. Ông nghĩ nếu đứng ở vị trí cao nhất, tổ chức sẽ phát triển đến khổng lồ, rồi nâng tầm ông lên và đưa ông ra ánh sáng. Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Ông không đứng đầu tổ chức, mà ông đang phải gánh vác nó. Ông bị đẩy xuống bởi sức nặng của một thứ gì đó khổng lồ rồi càng chìm sâu vào bóng tối. Ông bị mắc kẹt trong tăm tối và không thể di chuyển. Vợ không có, con cái cũng không. Thậm chí ông không còn có thể cầm dao nữa. Chẳng rõ nó xảy ra từ khi nào. Ông bắt đầu thấy lạnh lẽo ngay cả giữa mùa hè. Và bây giờ ông đang ở đây.”
Nói xong, lão Ma Cô im lặng. Lão thở dài một tiếng và thân hình lão lại trở nên nhỏ bé hơn.
Ông xin lỗi.
Đó là lời cuối cùng của lão Ma Cô mà tôi có thể hiểu được. Lão vẫn đang nói gì đó với giọng rất yếu ớt, nhưng tôi không thể nghe rõ được nữa.
“Đừng lo lắng nữa.” Tôi sửa lại cái đường ống mũi bị lỏng của lão. “Ông là ân nhân của con mà.”
Tôi nghĩ rằng lão là một người hạnh phúc. Suy cho cùng thì lão Ma Cô cũng có một nơi mà mình muốn trở về.
Sau khi chờ lão Ma Cô ngủ say, tôi rời khỏi phòng bệnh và thấy gã đàn ông đeo kim cương đang tựa lưng vào bức tường hành lang. Khi nhìn thấy tôi, hắn đứng thẳng lên và nói: “Cảm ơn ông rất nhiều” và cúi đầu.
Khi tôi chuẩn bị rời đi, hắn ngăn tôi lại bằng cách nói: “Tôi có một việc muốn nhờ ông.”
Hắn không muốn ai biết chuyện nên dẫn tôi đến một căn chòi trong vườn. Không có dấu hiệu của những kẻ hay đi chung.
“Tôi rất xin lỗi ông về chuyện hôm nọ.”
Tên đeo kim cương cúi đầu thấp hơn nữa trước khi ngồi xuống trước mặt tôi.
“Đủ rồi. Ngồi xuống đi.”
“Mà tôi chợt thấy ông có một thân hình thật tuyệt vời, đấy là do một loại võ thuật gì đó ạ?”
Hắn hỏi khi ngồi trước mặt tôi. Gã đàn ông đeo kim cương đặt tay vào lòng và vuốt ve chiếc nhẫn bằng đầu ngón tay. Viên kim cương đang tỏa sáng. Tôi nghĩ đó là ánh mắt đó của gã là thật.
“Không.” Tôi trả lời ngắn gọn. Không có gì khác để nói.
Có một bàn cờ tướng Nhật được các bệnh nhân thường xuyên sử dụng và một số tạp chí hàng tuần nằm cạnh chỗ tôi đang ngồi.
Cảm thấy cái bụng đói đang râm ran, tôi xé một trang trong tạp chí hàng tuần và cho vào miệng. Vị đúng là dở tệ. Sách thì tôi ăn được nhưng tạp chí hàng tuần thì quá dở. Trên hòn đảo đó, những cuốn sách cũ tôi lấy từ kệ của Bà Cót Két là những cuốn sách ngon nhất tôi từng ăn, và chúng khô như bánh gạo vậy.
“Cái gì?”
Gã đàn ông đeo kim cương hỏi khi tôi đang nhai trang giấy.
Tôi không bao giờ nôn ra bất cứ thứ gì đã cho vào miệng, bất kể nó dở tệ đến thế nào. Tôi sẽ không làm hành động bẩn thỉu như vậy đâu.
“Tôi chỉ đang ăn uống thôi mà.”
Ngay cả với câu trả lời đó, tên Kim Cương này dường như vẫn chưa bị thuyết phục. Hắn đang cau mày, bối rối. Chắc là hắn mới chỉ biết đến một vài loại người thôi.
“Ngay từ lần đầu nhìn thấy ông trong khu vườn này, tôi đã biết ông không phải là người bình thường.”
Tên Kim Cương dường như đã thay đổi thái độ khi nói vậy.
“Đó là vì tôi phải thận trọng. Thực sự xin lỗi ông.”
Hắn vẫn kiên trì mặc dù tôi đã nói không sao cả. Tôi nhét một tờ tạp chí hàng tuần khác vào miệng.
“Hình như ông đang quản lí một cửa hàng đồ cổ nhỉ.” Tên Kim Cương đợi tôi ăn xong rồi mới tiếp tục. “Ông có mối quan hệ như thế nào với sensei ạ?”
“Không phải là cửa hàng đồ cổ đâu. Đó là một cửa hàng đồ cũ.”
Có vẻ như bọn chúng đã điều tra về tôi. Nhưng chắc là đã có ít thông tin có sẵn từ trước. Hắn nói Sensei tức là lão Ma Cô đúng không nhỉ? Tôi sẽ nói rằng mình là một người quen cũ.
“Đã lâu rồi tôi mới thấy sensei trông vui vẻ như vậy sau khi gặp ông. Có vẻ như hai người khá thân thiết.”
“Lão ta từng ném tôi xuống biển.”
Hắn lại tỏ ra bối rối.
Rồi Gã Kim Cương lại kể tiếp:
“Như ông thấy rồi đấy, sensei đang khá yếu. Ý thức của ngài ấy cũng mờ mịt, không rõ liệu ngài có còn biết mình là ai không nữa.”
Đó là những gì hắn nói. Gã Kim Cương này đúng là một kẻ không biết tí gì. Mặc dù lão Ma Cô yếu ớt, nhưng đầu óc của lão lại rất minh mẫn. Đủ minh mẫn để kể cho tôi nghe về quá khứ của chính mình.
“Xin lỗi ông nhưng có vẻ như đó là bệnh ung thư gan nhỉ? Tôi đã điều tra qua một chút rồi.”
Hắn thay đổi trọng tâm câu chuyện và hỏi tôi.
“Đó là một chẩn đoán sai. Tôi không sao hết.” Tôi nói.
“Chẩn đoán sai à, phải vậy không nhỉ?”
Gã Kim Cương cười toe toét. “Tôi tin ông mà. Tôi đã tận mắt chứng kiến sức mạnh cánh tay của ông rồi.”
“Cậu muốn nhờ gì đây?”
Mệt mỏi với hắn lắm rồi. Tôi muốn chấm dứt tại đây.
“Tôi muốn ông bảo vệ sensei.”
Tôi im lặng, chờ hắn nói tiếp.
“Dù sao thì sensei cũng không sống được bao lâu nữa nên mặc kệ cũng được. Nhưng tôi vẫn rất lo lắng. Có thể vẫn còn có kẻ đang nhắm đến tính mạng của sensei.”
Cá chép trong ao nhảy lên. Hôm nay trời tương đối oi bức. Những con cá chép nóng nực có thể đã nhầm bầu trời thành một cái ao khác.
“Cũng có thể tôi đã suy nghĩ quá nhiều rồi.” Gã Kim Cương tiếp tục.
“Sensei không còn quyền lực gì nữa. Rõ ràng là sẽ không ai được hưởng lợi khi giết sensei. Nhưng còn có thứ gọi là phẫn uất và oán hận vẫn đang tiếp tục bùng cháy. Sensei đã gây ra những điều đó. Thật chẳng hay ho gì nếu nhờ một người lạ như ông làm việc này dù ông có giỏi đến đâu. Tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Tuy nhiên sensei đã bị cướp đi mọi thứ như thể tứ chi đã bị xé toạc vậy, ngài chẳng còn lại gì nữa. Cả người lẫn tiền. Thật xấu hổ khi nói ra nhưng tôi cũng là người đã xa cách sensei. Vậy nên cuối cùng, tôi muốn báo đáp công ơn của sensei. Tôi muốn bảo vệ ngài ấy. Tôi không muốn nghĩ đến việc sensei sẽ bị ai đó giết. Ít nhất thì tôi cũng muốn ngài ấy có một cái kết yên bình.”
Cuối cùng, giọng điệu của hắn trở nên nóng nảy.
Dù vậy, tôi vẫn đang im lặng.
“Sensei là người đã thu nạp tôi, từ khi tôi mới chỉ là một thằng nhóc chưa biết gì và thích ra vẻ.”
Hắn nói với một cảm xúc chân thành.
“Hồi đó sensei vẫn còn rất khỏe mạnh. Cách ngài ấy nói giọng Pháp cũng rất ngầu. Tôi rất ngưỡng mộ.”
“Giọng Pháp?”
“Vâng. Khi sensei còn trẻ, ngài đã đến châu Âu du học vài năm. Ngài thông thạo không chỉ tiếng Pháp mà còn tận bốn thứ tiếng. Đó cũng là câu chuyện trước chiến tranh rồi. Có lẽ ngài đã có một cuộc đời thật đặc biệt.”
Tôi tự nghĩ: Hắn đang đùa với mình sao?
Cuộc sống của lão Ma Cô trước đây chẳng hào nhoáng chút nào. Lão xuất thân là một ngư dân, rồi trở thành người đứng đầu hòn đảo gái điếm, nhưng cuối cùng lão lại bỏ rơi mọi người và đi đến đất liền. Đó mới là lão Ma Cô.
Tôi biết rất rõ về lão.
Dù có đôi mắt sắc bén nhưng gã Kim Cương lại khá ngu ngốc. Hắn bị lừa bởi những trò đùa ngu ngốc của lão Ma Cô như thể bị mê hoặc trước sự lấp lánh của kim cương vậy.
Tôi ngấu nghiến tờ tạp chí hàng tuần tận ba lần. Đôi khi ngay cả những điều khó chịu cũng trở nên gây nghiện.
Đặc biệt là bây giờ tôi đang trong cơn đói dai dẳng.
“Cậu ăn thử không?” Ăn một mình thì dở quá nên tôi cũng mời gã Kim Cương.
“Tôi xin phép ăn.”
Gã Kim Cương bắt chước tôi, gã vò nát trang giấy nhận được và bỏ vào miệng.
“Tôi từ chối.” Tôi nói và đứng dậy. “Tôi không phải vệ sĩ.”
Trong khi gã Kim Cương đang ngấu nghiến tờ giấy, tôi rời khỏi đó.Shinohara đang đợi trong phòng bệnh.
“Tình trạng của ông sao rồi ạ?”
“Ờ. Không vấn đề gì.”
Sau khi chúng tôi kết thúc cuộc trò chuyện như thường lệ, gã rủ tôi: thi thoảng ta ra ngoài được chứ ạ?
Tôi đang chán nên là đã đồng ý.
Shinohara lái xe khoảng 30 phút và dừng lại ở một góc khu dân cư, nằm ở phía trước một ngôi nhà bình thường. Không có gì bất thường cả. Nhưng có một dòng chữ: “Ăn uống khoa học” được ghi trên tấm bảng tên trên tường khối.
Tôi không biết nó có nghĩa là gì nên đã hỏi Shinohara, gã cho biết: “Nghĩa là tốt cho cơ thể ạ.”
“Đó là một quán ăn, hay còn gọi là một nhà hàng ẩn ạ.”
Chúng tôi đậu xe ở một bãi chỉ đủ chỗ cho một chiếc xe, sau đó bấm chuông cửa. Trong quán có tiếng chuông reo, tiếng dép lê lộp cộp chạy dọc hành lang.
Một cô gái vẫn đang học cấp ba mở cửa và nói: “Xin chào quý khách ạ.”
Mái tóc dài của cô gái được buộc lại và cô đeo một chiếc tạp dề màu nâu. Nụ cười rạng rỡ thật phù hợp để chào đón khách hàng.
Cô gái nở một nụ cười trông như thể đang rất mong chờ chuyến thăm của chúng tôi.
Khi chúng tôi bước dọc hành lang theo sự thúc giục của cô gái, những tấm ván sàn đen bóng kêu lên cót két.
Có lẽ là do cân nặng của tôi, nhưng cũng có thể là do ngôi nhà cũ kỹ đến không ngờ.
Có thể thấy khu vườn phía sau cánh cửa kính ở hành lang, nơi có những bức tranh nhỏ được treo khắp trên bức tường trắng bên trái. Sân trong là một rừng trúc hẹp, giữa rừng trúc có một cái giếng cổ được bịt kín bằng bê tông. Tất cả các bức tranh mô tả các con vật như chim, ngựa và lợn với độ chi tiết cực kỳ tinh tế. Chúng đều được đặt trong khung có kích thước bằng hộp thuốc lá.
Một lò sưởi đang cháy trong phòng ăn.
Cô gái kéo ghế cho chúng tôi. Ngay khi ngồi vào chiếc bàn trải khăn trắng, một cặp vợ chồng trung niên đeo tạp dề trắng giống nhau đến chào chúng tôi. Một cặp đôi mà thoạt nhìn có thể nhận ra là vợ chồng. Người ta thường nói rằng nếu một cặp đôi ăn cùng một món ăn thì khuôn mặt của họ bắt đầu giống nhau, đó chính xác là những gì đã xảy ra với cặp đôi này. Cả hai đều đầy đặn và điềm đạm.
“Đây là một kiểu kinh doanh gia đình ạ.” Shinohara nói. “Khách hàng sẽ được giới hạn một nhóm mỗi ngày. Hôm nay ông hãy ăn cho thỏa thích nhé. Tôi đã xin phép bác sĩ rồi. Nhà hàng này phục vụ kết hợp các món ăn chữa bệnh và đồ ăn chay. Thực đơn sẽ được bàn bạc và quyết định trước.”
Củi trong lò kêu lách tách bập bùng.
Ánh lửa màu xanh lục thi thoảng lại chập chờn.
Cô gái mang món ăn đầu tiên tới. “Đây là súp củ cải xay nhuyễn ạ.” Cô ấy giải thích. Tôi nuốt nước bọt và húp hết trong một hơi. Thật là sảng khoái.
Món thứ hai là tổ yến luộc nguyên hình. Thông thường, nó được nấu thành súp bằng cách luộc chín, nhưng món này được luộc với hình dáng nguyên vẹn. Nước sốt màu trắng đặc và có cà rốt Hàn Quốc ở bên cạnh.
Đó là một hương vị tôi chưa bao giờ nếm thử trước đây. Nó thoang thoảng mùi hương của đất có lẽ là do cà rốt Hàn Quốc. Tôi không chỉ ăn tổ yến mà còn cả cà rốt và nước sốt nữa. Tôi dùng thìa vét từng giọt cuối cùng dưới đáy đĩa.
Món tiếp theo được mang ra rõ ràng là bít tết.
Đó là loại protein động vật mà thân thể tôi cần nhất lúc này, nhưng nó đã bị bác sĩ cấm.
Cô gái cũng cười và nói: “Đây là bít tết ạ.”
Shinohara giục tôi ăn thử nên tôi cắn một miếng. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là thịt. Và nó ngon tuyệt. Tôi có thể biết qua kết cấu của nó. Quá là ngon. Thân tôi còn run lẩy bẩy.
“Thực ra đấy là đậu phụ Koya ạ.” Shinohara nói trong khi nhai ngấu nghiến món tôi đang ăn. “Nó được gọi là món thịt giả được làm bằng đậu phụ.”
Thật không thể tin nổi. Phép thuật nào biến đậu phụ thành thịt vậy?
Cô gái nói rằng hôm nay mình không sử dụng nhiều muối khi nấu nướng. Cô cho biết gia vị được tạo ra bằng cách kết hợp nhiều loại nước hầm súp, và các hương liệu khác chẳng hạn như tảo bẹ, vảy cá ngừ, vảy cá thu.
Món tiếp theo cũng là món tương tự như món lươn kabayaki, nó là đậu phụ được nhào với khoai tây. Rong biển được dán lên một mặt như một lớp da. Nó được phủ một lớp nước sốt ngọt và nướng cho đến khi vàng và mịn. Lươn cũng là món ăn yêu thích của tôi. Vừa cắn vào, miệng tôi đã tràn ngập mỡ. Không thể nào, tôi khóc trong lòng. Mặc dù được làm bằng đậu phụ và khoai tây nhưng tại sao nó lại béo ngậy đến thế? Đây là hàng thật rồi. Đây chính là lươn thật. Chắc chắn là phải như thế.
“Không đâu, vẫn là một món giả lươn thôi ạ.” Shinohara nói.
Tôi bối rối đến mức không thể nhớ mình đã ăn món gì nữa. Ngọn lửa trong lò sưởi bập bùng, chuyển sang màu xanh lục, rồi tím, rồi đỏ rực.
Nồi nhỏ chứa sữa đậu nành đằng kia cũng rất ngon. Có nhiều loại rau củ khác nhau nằm xung quanh, một số có thứ gì đó giống như thịt bên trong, cùng những quả mọng nhỏ màu đỏ được rải bên trên.
Cô gái cho biết rằng đó là quả kỷ tử.
Chúng hòa quyện với súp sữa đậu nành pha loãng với dashi. Tôi cảm thấy vô cùng phấn khích. Thật là hào hứng. Thật là sốt ruột. Tôi muốn ăn nhiều hơn nữa. Phải ăn cho đã cái miệng. Tay tôi run cầm cập. Mồ hôi trên trán nhỏ xuống từng giọt làm nhòe cả mắt tôi.
“Quả kỷ tử tốt cho gan lắm ạ.”
Tôi muốn nói với cô ấy là đừng nói nữa. Nhanh lên và mang món tiếp theo ra đi.
Tôi đã hoàn toàn thưởng thức ẩm thực chay chữa trị trong ba tiếng đồng hồ.Năm ngày sau, có ba cái bóng xuất hiện.
Kể từ khi nghe chuyện của gã Kim Cương, tối nào tôi cũng trông ra ngoài cửa sổ.
Nếu kê giường vào bên tường cạnh cửa sổ rồi ngồi thẳng lưng, tôi sẽ nhìn thấy lối thoát hiểm ở tầng một của phòng bệnh. Cổng chính được khóa lúc 8 giờ nên nếu muốn vào bệnh viện, chỉ còn cách sử dụng lối thoát hiểm. Tuy nhiên, có hai lối thoát hiểm. Nếu có ai đi vào từ lối phía nam thì cũng khó mà thấy được.
Mặc dù nói là canh chừng nhưng tôi không nghiêm túc đến thế. Khi tôi buồn ngủ thì sẽ đi ngủ, và thỉnh thoảng sẽ đi dạo. Ban ngày đi dạo với Shinohara cũng không tệ, nhưng vào ban đêm trái tim tôi lại nhảy múa nhiều hơn.
Tôi dạo bước quanh khu vườn yên tĩnh, khi nào có hứng thì sẽ đi vòng qua cửa trước, trèo qua cổng sắt rồi đi ra ngoài. Không hẳn là tôi muốn đi đến một nơi nào đó đâu. Mà tôi sẽ chọn một con đường ngẫu nhiên và đi bộ loanh quanh.
Khu vực xung quanh bệnh viện là một khu dân cư cũ. Có nhiều ngôi nhà là nhà gỗ một tầng được ngăn cách bằng hàng rào trúc hoặc hàng rào thường xanh.
Tôi chỉ đi dạo đêm trong vài giờ sau nửa đêm khi không có người xung quanh.
Tôi không muốn gặp bất cứ ai cả.
Dù có là ai, nếu họ gặp một kẻ khổng lồ chỉ mặc một chiếc áo phông trong mùa đông như tôi thì người đó sẽ rất bối rối. Tôi không muốn điều đó chút nào.
Đôi lúc có một con mèo chạy qua từ hàng rào này sang hàng rào khác.
Tôi đã nhiều ngày mất ngủ kể từ khi nhập viện, có lẽ là do Kumaru không có ở đây.
Khi Kumaru ngủ, nàng bám vào tôi như một con cá ép nhỏ vậy. Để có thể ngủ ngon, tôi rất cần sức nặng của Kumaru để giữ cho tôi yên.
Kumaru vẫn khỏe chứ nhỉ?
Kumaru thường xuyên bị ngã ngay cả khi nàng ở nhà. Nàng hay vấp phải thứ gì đó và ngã nhào ra.
Kumaru nấu ăn ngon tuyệt nhưng rửa bát lại rất tệ. Lúc nào cũng sót lại vài vết bẩn.
Nàng tắm rất lâu, nhưng đi vệ sinh thì nhanh.
Tôi đi dạo quanh thành phố, tìm một nơi mà đèn đường và đèn nhà không thể chiếu tới.
Ánh trăng đổ xuống cả một vùng tối tăm như vậy thật là trong veo. Tôi nhìn lên bầu trời, hít một hơi thật sâu và để ánh trăng trong trẻo, tinh khiết tràn ngập vào tôi. Đó là cách chữa trị của tôi. Chắc chắn ánh trăng phù hợp với tôi hơn là tia proton rồi.
Tôi trở lại phòng bệnh sau khi đi dạo đêm thì đã khoảng 1 giờ sáng.
Tôi lên giường và nhìn ra cửa sổ. Ở phía dưới, ánh sáng màu đỏ của lối thoát hiểm lờ mờ tỏa ra, và trăng có hình bán nguyệt. Tôi đã nhập viện vào ngày trăng non. Nếu lời Shinohara là thật thì khi trăng biến mất lần nữa, mây mù trong tôi sẽ tiêu tan và tôi sẽ được xuất viện. Ngày ấy không còn xa nữa.
Thật không dễ để có thể buồn ngủ.
Tôi nhớ đến những câu chuyện giãi bày.
Khi tôi đang trầm ngâm câu chuyện thứ hai, có bóng dáng ai đó xuất hiện bên dưới.
Ba bóng người đi qua ánh đèn đỏ và vào bệnh viện.
Tôi ra khỏi giường và leo lên cầu thang tối tăm để lên tầng 6. Đèn sáng nhỏ bé từ chuông báo cháy chiếu xuống hành lang dài. Tôi đã kiểm tra thang máy đang di chuyển. Màn hình hiển thị số tầng đi lên tầng 3 và tầng 4.
Tôi dừng lại trước phòng bệnh của lão Ma Cô.
Không có phản hồi nào khi gõ cửa.
Tôi mở cửa và đi vào trong. Có mùi thơm thoang thoảng của hương thảo.
Không có người bảo vệ nào. Không có tên Kim Cương hay tay sai nào cả.
Lão Ma Cô đang ngủ yên lặng. Mặt trăng trên cửa sổ soi sáng xuống, lão khoanh tay trước ngực như thể đang cầu nguyện vậy. Phải chăng nhờ ánh trăng mà hình dáng xấu xí, teo tóp đó trông như thể thiên thần?
Tôi đợi lão Ma Cô một lúc lâu.
Tay nắm cửa đã chuyển động. Nó chậm dãi một cách khó chịu, và xoay theo nhịp thở của lão Ma Cô.
Lão Ma Cô thở ra một hơi dài. Tay nắm xoay.
Hơi thở dừng lại. Tay nắm cửa cũng dừng lại.
Sau vài hơi thở, ba cái bóng lọt qua khe cửa.
Những cái bóng rút dao găm của mình ra gần như cùng lúc, kẻ đầu tiên xông vào không chút do dự. Tôi dùng nách chặn con dao đang lao đến rồi vung tay đấm sang một bên. Rồi một phản ứng rất nhanh, cái bóng va vào tường và bị hạ gục.
Tôi ôm đầu và vặn cổ kẻ thứ hai lao đến khi hắn và tôi lướt qua nhau.
Có tiếng xương gãy và cái bóng ngã xuống.
Kẻ cuối cùng xông đến trong nháy mắt. Hắn vung con dao xuống, rồi từ dưới lên trên. Động tác như đang vẽ hình số 8 vậy, nhanh đến lạ thường. Nếu chuyện này xảy ra vào ban ngày hoặc vào một đêm không trăng thì tôi cũng sẽ gặp nguy hiểm.
Nhưng dưới ánh trăng, mọi thứ dường như chậm lại.
Vào đêm trăng, tôi tồn tại ở một chiều không gian khác.
Tôi hất con dao găm ra, nắm lấy ngực đối phương rồi nhấc hắn lên.
Có một tiếng uỵch và đầu của gã nào đó đập vào trần nhà.
Cánh cửa mở ra và đèn bật sáng.
Gã Kim Cương lao vào với con dao găm vỏ trắng trên tay, nhìn hai kẻ dưới sàn và một kẻ bị treo trên trần nhà, rồi hắn nhìn chằm chằm vào tôi. Hắn ta không có biểu hiện nào. Sau khi chạy đến giường và chắc chắn rằng lão Ma Cô vẫn ổn, hắn cúi chào tôi trước tiên.
“Bọn đàn em này là những kẻ phản bội.” Gã Kim Cương giải thích. Có vẻ như chúng đã bán đứng lão Ma Cô vì tiền.
Chuyện đó thì như nào cũng được.
Tôi trở lại phòng bệnh và ngủ ngon lành.
Ngày hôm sau, khi tôi lên phòng lão Ma Cô thì không còn gì ở đây nữa.
Chiếc áo khoác vàng kim trong tủ đã biến mất. Không có thảm, không sofa, không có vết máu nào.
Một vết lõm nhỏ vẫn còn trên chiếc giường trống trơn. Có chùm ánh nắng mùa đông hình cửa sổ chiếu xuống sàn nhà bóng loáng.