Tôi thức cả đêm để tải nhạc về chiếc iPod vốn là quà Giáng Sinh và vẫn còn nằm trong hộp từ bảy tháng trước. Món quà này là của Sophie Wallen, một người luôn cố ra vẻ híp-pi không giống ai và là giáo sư dạy môn bảo tồn lịch sử tại Ðại học Charleston và cũng là, không thể giải thích nổi, bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi gặp lần đầu khi một đồng nghiệp giới thiệu tôi với Sophie nhờ nó tư vấn cho một dự án trùng tu nhà cổ mà tôi đang đăng bán cho một khách hàng trong khu di tích Harleston Village. Khi ấy, nó thậm chí chẳng thèm nói chuyện với tôi cho đến khi nó được xem bói bài cho tôi và ép tôi ngồi kiểu tọa sen yoga trên sàn nhà văn phòng của nó. Trong khi nó ngồi thiền thì tôi cứ liên tục lén lút liếc nhìn đồng hồ.
Sau đó, nàng ta đưa tôi đến tiệm bánh của dì Ruth và mua cho tôi chiếc bánh chocolate có kem đặc to nhất tiệm và nói rằng tôi bị ám ảnh quá mức, quá lãnh cảm vì hậu quả của việc lớn lên trong một gia đình nhà binh với ba tôi, và rõ ràng là tôi không có một đời sống tình dục đầy đủ bởi vì tôi cứ trơ cứng như một con búp bê người mẫu trong các khu mua sắm. Nhưng mà, sau đó nó lại nói với tôi là hai đứa chúng tôi có thể làm việc với nhau. Hai đứa thân nhau từ dạo ấy.
Sophie nói rằng tôi cần thư giãn nhiều hơn và cho rằng nghe nhạc là hiệu quả nhất, vì thế nó mua cho tôi cái iPod màu xanh nõn chuối. Tôi biết là nó sẽ nghi ngờ, nhưng không thèm hỏi, rằng một khi tôi đã bỏ thời gian ra để tải nhạc vào iPod thì tôi sẽ dành ra gần hết cả đêm để thử nhiều cách khác nhau mà sắp xếp bài hát trong đó.
Mắt đã bắt đầu lờ mờ, tôi kiểm tra lại danh sách các bài hát một lần nữa, rồi thở dài mất hết cả tinh thần khi tôi thấy mình đã nhét hết vào iPod tất cả các bài hát của ABBA, Tom Petty, Duran Duran, và nhóm the Cars.
Tắt máy tính và tháo iPod ra xong, tôi nhét cái iPod trở lại vào hộp rồi thẩy nó vào ngăn kéo bàn. Tôi lê bước vào bếp và nhíu mắt nhìn vào mặt đồng hồ điện tử trên máy pha cà phê một hồi lâu rồi mới định thần xem được khi ấy là mấy giờ. Sáu giờ ba mươi. Tôi sẽ đợi đến bảy giờ mới gọi Sophie để nó được ngủ nướng thêm một tí.
Ðúng sáu giờ năm mươi chín phút, tôi nhấn nút gọi nhanh trên điện thoại.
Sau tám lần đổ chuông, Sophie bắt máy. “Mrmphm.”
“Chào Soph, Melanie đây. Mình cần cậu đến xem giúp ngôi nhà này với mình.”
“Mrmphm.”
“Cậu có thể gặp mình trong vòng một tiếng đồng hồ được không?”
Một thoáng yên lặng. “Cậu làm cái quái quỷ gì mà lại gọi mình vào lúc bảy giờ sáng thứ Bảy thế hả?”
“Xin lỗi cậu. Mình nghĩ là giờ này cậu đã thức dậy rồi.”
“Không, cậu chẳng có nghĩ như thế. Mình sẽ cúp máy ngay đây và cậu có thể gọi lại cho mình lúc mười hai giờ trưa.”
“Ðợi đã! Ðược rồi, cho mình xin lỗi. Nhưng mà việc này thật sự quan trọng lắm.”
Lại một thoáng im lặng và tôi tưởng tượng cảnh Sophie đang trợn tròn mắt. “Ðược thôi. Nói cho mình nghe xem.”
“Dường như là mình vừa được thừa kế một ngôi nhà.”
“Ờ,” nó chậm rãi nói. “Và việc này cho phép cậu gọi mình ngay khi bình minh vừa ló dạng trong một buổi sáng thứ Bảy bởi vì...?”
“À, vì đó là một ngôi nhà cổ. Thuộc phía nam khu Broad.”
Tôi biết rằng lúc này tôi đã gây được sự chú ý nơi nó. Tôi có thể nghe được cả tiếng sột soạt của chăn mền khi nó ngồi dậy.
“Ðịa chỉ số mấy?”
“Năm mươi lăm phố Tradd.”
“Ngôi nhà của dòng họ Vanderhorst?” Nó kêu rít lên muốn thủng màng nhĩ. “Cậu được thừa kế ngôi nhà của dòng họ Vanderhorst?”
“Ờ, đúng đấy. Nhưng mà mình chẳng hề vui mừng gì về vụ này cả. Nếu cậu có thể nhìn thấy hiện trạng bên trong của nó...”
“Mình sẽ gặp cậu ở cổng trước vào tám giờ.”
Tôi mỉm cười nghe tiếng lách cách ở đầu dây bên kia rồi cúp máy. Sự vui mừng hớn hở của nó khiến tôi hơi lo, nhưng tôi cũng thấy nhẹ nhõm. Tôi sẽ nhận được ý kiến chuyên nghiệp và khách quan về giá trị của ngôi nhà để làm một quyết định đúng đắn về việc có tiếp nhận nó hay không.
“Dù cho bên trong ngôi nhà này trông có ra làm sao đi nữa, thậm chí nếu mái nhà đang sắp sập đến nơi, cậu cũng phải nhận ngôi nhà này.”
Quả là một lời khuyên chuyên nghiệp và khách quan! Sophie đứng cạnh tôi trên lề đường, tay chống hông, mắt nhìn chăm chăm vào cái của nợ ấy. Tôi đã ngồi chờ nó trong xe và vặn to radio cho đến khi nó xuất hiện, muộn hết mười một phút.
Tôi bắt đầu nhìn Sophie một cách soi mói. Cô nàng mang guốc bằng da lộn màu nâu, vận một chiếc váy dài trông giống như làm bằng băng gạc y tế với hình mấy con thằn lằn thêu chạy dọc theo đường chân váy, cùng một chiếc áo thun cổ tròn nhuộm màu loang lổ nhét vào lưng váy. Mái tóc đen xoăn dài của nó được túm lại thành một búi rối bời sau đầu và được giữ chặt bằng vật gì đó trông như hai chiếc đũa - với tên của nhà hàng Tàu gốc gác của đôi đũa ấy.
“Chỉ bộ trang phục của cậu thôi cũng đủ làm cho cậu rớt đài không được bổ nhiệm đi dạy thường xuyên rồi cậu biết không?”
Nó phớt lờ tôi. “Ngôi nhà này có mặt trong hầu hết bất cứ quyển sách giáo khoa về kiến trúc nào mà mình từng đọc. Ý mình là, ngôi nhà này là một ví dụ hoàn hảo cơ bản về nhà cổ ở Charleston. Hãy nhìn vào cửa sổ vòm này xem - kính nguyên thủy của nó vẫn còn đây. Cậu có thấy là cửa trước ngôi nhà thật ra lại nằm bên hông nhà hay không? Ðấy là để hứng gió sông vào mùa hè. Và còn nữa, hãy nhìn cái hành lang có mái vòm tuyệt đẹp này xem - và cả những cái cột kiểu tháp chuông nữa. Thật hoàn hảo.”
Bực mình, tôi nói, “Mình biết về nhà cổ chứ Sophie. Mình buôn bán chúng mà, nhớ không?”
“Cậu thì chỉ biết đủ để khoe mẽ bằng từ ngữ đao to búa lớn rồi bán chúng đi thôi, nhưng thật ra cậu chẳng biết gì sất về chúng.” Rồi nó đẩy cổng bước vào vườn. Chiếc cổng bật mở dễ dàng không chút trở ngại. Tôi nhìn cái cổng và ngạc nhiên rồi định bước đến để kiểm tra các bản lề thì Sophie nói, “Mình tưởng là ngôi nhà này vắng người ấy chứ.”
“Phải, nhà này đâu có ai ở.” Tôi nhìn theo hướng nhìn của Sophie đến ô cửa sổ trước mặt, thuộc về căn phòng có cái biểu đồ tăng trưởng trên tường. Tôi có cảm giác châm chích sau gáy vì nổi da gà và lại ngửi thấy hương hoa hồng quen thuộc. “Sao cậu lại nói thế?”
“Mình thấy cái màn cửa rung rinh.”
“Có lẽ đó chỉ là vì có gió thổi qua những kẽ nứt trên tường thôi cậu ạ.”
Nó chau mày với tôi, rồi quay vào lại ngôi nhà. “Mình có biết cỡ chục người sẵn sàng đánh đổi tròng mắt trái của mình để được sở hữu ngôi nhà này đấy.”
“Tốt lắm. Cậu nhớ làm sẵn cái danh sách ấy cho mình nhé.”
Lại phớt lờ tôi, nó leo lên những bậc thang bước vào hành lang rộng bên hông nhà và tôi bước theo nó. Sophie lại nghiên cứu ô cửa có kính hàn chì trên cánh cửa chính cùng những bóng đèn dọc hai bên tường, hai tay cô nàng vuốt ve cái ô cửa sổ ấy với vẻ tôn sùng. “Cái này có lẽ là kiểu kính Tiffany - dĩ nhiên không phải nguyên thủy của ngôi nhà, nhưng vẫn còn có giá trị. Cậu có biết rằng khó lắm mới tìm được những cột chống cửa sổ vẫn còn nguyên vẹn trong những ngôi nhà như thế này hay không? Ngạc nhiên thật đấy, nhất là khi nghĩ đến việc nó đã nằm ở đây bao lâu rồi.”
Tôi lại nhìn lên cửa sổ một lần nữa, cố nhìn chúng bằng đôi mắt của Sophie. Tuy nhiên nơi nào mà Sophie nhìn ra được một tác phẩm nghệ thuật được thực hiện tỉ mỉ chi tiết, thì tôi chỉ nhìn thấy một ô cửa sổ cũ kỹ mà nếu chẳng may nó bị vỡ thì sẽ tốn gần cả một gia tài nho nhỏ để sửa chữa. Trong một thoáng, tôi cũng muốn nhìn ra vẻ đẹp của nó, nhưng sự thật là tôi đã không còn nhìn thấy cái gì đẹp đẽ trên đời nữa kể từ khi tôi lên bảy tuổi.
Sophie lại lần hai bàn tay dọc theo một trong những chiếc cột nhà, búng tách một miếng thạch cao bị bong tróc rồi nhìn săm soi vào bên trong. “Chính xác - gạch ngói. Cột này làm bằng gạch, là điều rất tốt. Một mặt, nó cứng cáp hơn là thạch cao, và mặt khác, mối mọt không ưa gạch đá.” Khi bước lên bậc thang cuối, chiếc guốc của nó bị vẹo rồi mẻ một miếng. Nó lắc đầu. “Vẫn còn nhiều điều mình cần nói về cái hiên hè này. Nó phải được thay mới thôi, còn mấy cái cột nhà này cần phải được trát thạch cao lại. Việc này lớn đây.”
Rồi nó nhăn mũi, cái kiểu mà tôi đã quá quen thuộc và tôi trả lời cho câu hỏi trong đầu nó. “Ðúng ra thì, ông Vanderhorst đã có rất nhiều tiền - rõ ràng là toàn bộ tiền bạc được để lại cho mình để mình có thể sửa chữa cái... cái...”
“Cái nhà tuyệt đẹp này.”
“Ờ thì, mình chẳng có ý ấy, nhưng nói vậy cũng được.”
Sophie bước thụt lùi đến bậc thang dưới cùng rồi nhìn lên mặt tiền ngôi nhà. “Ôi chao! Vậy là cậu thừa kế ngôi nhà này và bây giờ cậu còn giàu có nữa. Chỉ một ngày làm việc mà được như vầy thì cũng không tệ lắm ha.”
“Không hẳn như vậy đâu cậu ạ. Toàn bộ tiền bạc sẽ bị giữ rịt trong một cái quỹ. Người quản lý quỹ này sẽ có toàn quyền quyết định chu cấp tiền bạc cho nhiều dự án trùng tu nhà khác nhau, và nếu người ấy rộng rãi một chút, thì hy vọng cũng sẽ trả lương cho mình.”
Sophie mỉm cười. Nụ cười ấy bằng cách nào đó thường làm tan chảy đàn ông ra dưới chân nó nhưng bây giờ thì chỉ tổ làm tôi bực mình. “Ông Vanderhorst thật sự là một người cực kỳ khéo léo.”
“Chẳng khéo lắm đâu nếu ông ấy cho mình làm người thừa kế. Mình chẳng muốn dây dưa gì với cái vụ này cả. Cậu biết mình cảm thấy thế nào về những ngôi nhà cổ rồi đấy. Cậu cũng biết tỏng là mình chẳng muốn sở hữu bất cứ ngôi nhà nào.”
“À há. Và mình cũng hiểu tại sao, thế cho nên mình mới cho rằng việc này có thể tốt cho cậu.”
Tôi nhìn lảng ra nơi khác, chẳng may tôi lại nhìn về nơi có những mảnh sơn tróc trên những cánh cửa chớp và sau đó là chiếc ghế đu sơn trắng mà tôi đã ngồi khi đọc thư của ông Vanderhorst. Vậy là trong tôi đang diễn ra một điều gì đó khiến tôi nghe lời Sophie và lương tâm của mình thay vì từ chối toàn bộ lời đề nghị khủng khiếp này ngay lập tức. Một cái gì đó có liên quan đến những thứ còn tồn đọng trong tim một bé gái bảy tuổi trước khi thực tế phũ phàng của cuộc sống bao trùm lấy con bé.
Quay nhìn cô bạn của mình, tôi đưa tay vào túi xách và lôi ra lá thư. “Thôi thì, xem như là mình có lẽ đã mất toàn bộ cơ hội được nghe ý kiến khách quan cho vụ này, cậu có thể đọc lá thư này trước khi bọn mình đi vào nhà.”
Tôi ngồi xuống ghế và chờ nó đọc thư, cố tập trung nhìn thẳng ra đường và phớt lờ tiếng xích đu lúc này lại phát ra từ sân vườn.
“Này - cậu có đọc phần này chưa?” Sophie xê dịch đến ngồi cạnh tôi. “Nghe này: ‘Mẹ ta yêu quý ngôi nhà này gần nhiều như bà đã yêu thương ta. Cũng có người sẽ không đồng ý về việc này, dĩ nhiên, vì bà đã từ bỏ cả con trai mình cùng ngôi nhà khi ta còn là một đứa trẻ. Nhưng chuyện đã không dừng ở đó, mặc dù ta đã không thể khám phá ra câu chuyện đằng sau việc này. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua.’”
“Phải, mình đã đọc nó. Mình không thật sự hiểu nó có ý nghĩa gì, nhưng mình hiểu là ông ấy bị mẹ mình ruồng bỏ.”
Sophie lại nhăn mũi. “Cũng giống như cậu vậy.”
Tôi nhìn đi nơi khác, vẫn không thể nào hoàn toàn quên được sự đau đớn tràn ngập trong tim một đứa bé bảy tuổi.
Sophie lại nhìn xuống lá thư. “Thật ra, dường như mình có nhớ mang máng về lịch sử của ngôi nhà này. Như mình đã nói ấy, mình đã nhìn thấy ngôi nhà này trong rất nhiều sách, và cũng có vài câu chuyện...” Nó gõ ngón tay không được cắt giũa lên tờ giấy, trán nhăn lại ra vẻ đăm chiêu.
Tôi nhìn nó, tiếng xích đu lúc này nghe to hơn.
“Cậu có nghe thấy không?” Tôi hỏi.
“Nghe cái gì?”
“Tiếng dây thừng của chiếc xích đu cạ vào thân cây?”
Nó lắc đầu. “Không, mình chẳng nghe gì cả.” Nó nhìn tôi chăm chú, nhưng tôi lại nhìn ra nơi khác, lần này cái nhìn của tôi lại rơi vào mấy viên gạch bị mất trên các bậc thang trước nhà.
Sophie lại im lặng và tôi bắt đầu ngân nga bài “Dancing Queen,” một trong những bài hát tôi đã tải vào iPod đêm qua, để giúp ngăn lại âm thanh của chiếc xích đu ấy.
“ABBA hả, Melanie?”
Tôi phớt lờ nó và bước về phía bên kia của hành lang, gót giày tôi gõ cồm cộp lên những phiến gạch bằng cẩm thạch đã nứt.
“Ðúng rồi! Bây giờ thì mình đã nhớ ra!” Sophie nhảy ra khỏi chiếc ghế đang ngồi và bước đến đứng cạnh tôi. “Ðó là việc đã xảy ra vào những năm cuối thập kỷ hai mươi hay ba mươi gì đấy, mình nghĩ là thế. Một việc gì đó có liên quan đến mối tình tay ba và rồi một người phụ nữ bỏ trốn theo một người đàn ông không phải là chồng mình - nhưng đó là tất cả những gì mà mình có thể nhớ.”
“Tuyệt lắm. Cũng vì cậu quá ưa thích những thứ như thế này, mình sẽ để cho cậu nghiên cứu lịch sử ngôi nhà và cho mình biết sau.”
“Xin lỗi cậu, mình không làm được đâu. Mình vừa bắt đầu học kỳ mới và hiện mình đang sa lầy đây. Nhưng mình sẽ rất vui mà cho cậu mượn vài quyển sách.”
“Hu ra! Nôn quá đi thôi.” Tôi bước đến cửa chính vào nhà, và chợt nhận ra một việc. “Mình không có chìa khóa cửa.”
Cửa bỗng bật mở, và một phụ nữ vừa cao vừa to bè, tay đang ẵm con chó nhỏ lông trắng đốm đen mà tôi đã nhìn thấy khi đến đây lần trước, đang đứng ở bục cửa. “Sao mà hai cô lại đứng ở ngoài trời nắng nóng như vầy? Hai cô vào nhà cho mát đi nghen.”
Giống như những quân nhân ngoan ngoãn, chúng tôi đi bước đều vào nhà. Tôi chìa tay ra. “Tôi là Melanie...”
“Tui biết cô là ai rồi. Cô là hình ảnh sống của ông nội cô khi ổng bằng tuổi cô bây giờ.”
“Dì biết ông nội của tôi à?”
Bà ấy nhìn tôi bằng một cái nhìn chỉ có thể được gọi là sự cau mày. “Dĩ nhiên là không rồi. Cô nghĩ tui bao nhiêu tuổi hả? Trước khi mít-tờ Nevin qua đời, ổng có đưa cho tui coi một tấm hình chụp ba ổng với ông nội cô. Tui nhớ là ổng nói tấm hình này chụp trong ngày cưới của ba ổng.”
“Ồ, tôi muốn xem tấm hình ấy quá. Dì cho phép chứ?”
“Dĩ nhiên rồi con gái. Nhưng mà chắc cô hổng cần hỏi ý kiến tui nữa vì giờ đây cô đã là chủ sở hữu của nó rồi.” Rồi bà cười với một âm thanh cao vút và lanh lảnh đáng kinh ngạc, nghe thật bất thường khi nó phát ra từ một thân hình to đậm như thế.
Sophie lại cười với bà ấy với cái kiểu cười dễ gây thiện cảm của nó. “Tôi là Tiến sĩ Wallen dạy ở trường Ðại học Charleston. Và dì là...?”
“Ui trời. Tui bất lịch sự quá. Tui là bà Houlihan, là người quản gia nơi đây. Và đây là” - bà nắm chân trước của con chó nhỏ lông trắng đốm đen lên và vẫy nhẹ - “là Ðại tướng Lee.”
“Dì là quản gia?” Tôi lại để ý đến đám bụi dầy và lớp mạng nhện đóng giăng thật ấn tượng bên trong những chiếc đèn chùm trên trần nhà. Cùng lúc, tôi lại để ý thấy sàn gỗ thì láng bóng và các góc trần nhà chẳng có dấu vết mạng nhện nào.
Như thể đọc được những ý nghĩ của tôi, bà Houlihan nói, “Nè, cô đừng vội kết luận gì hen. Theo ước muốn của mít-tờ Nevin, tui giữ cho nhà bếp và các phòng tắm được sạch bóng, cũng như phòng ngủ của ổng và bất cứ nơi nào mà tui có thể lau dọn mà không phải đụng chạm hoặc di chuyển bất cứ thứ gì. Ổng lo đồ cổ trong nhà bị hư hại, cô thấy đó. Mọi thứ trong nhà đang hư hại dần, và chỉ cần sơ xuất chút xíu là sẽ làm hư hại một món nào ngay. Bởi vậy, tốt nhứt là cứ để cho mọi thứ trong nguyên trạng của nó.”
Tôi liếc nhìn Sophie, nhưng nó đã te te đi ra phòng khách chính.
“Sàn nhà này và gỗ ván tường là nguyên thủy và làm bằng gỗ bách đấy. Và hãy nhìn vào những cái gờ mái này! Và cả nghệ thuật chạm khắc trên chiếc bệ lò sưởi này nữa - hoàn toàn là vào niên đại Adam cả. Dù bị nước ăn chút đỉnh, nhưng may là chúng hầu như vẫn còn nguyên vẹn.” Tiếng bước chân của nó lước nhanh qua sàn nhà, và tôi đi theo tiếng động ấy, theo sát tôi là bà Houlihan và Ðại tướng Lee. Sophie đang đứng cạnh chiếc bàn giấy đã được kéo ra xa khỏi bức tường, tay nó mân mê chạm vào phần mắc gỗ của chiếc tủ có ngăn kéo như cách mà tôi sẽ mân mê hợp đồng với người bán nhà vậy. “Ðây là đồ cổ hiệu Hepplewhite của nước Anh thời thế kỷ thứ phải không?” Nó nhón chân lên và nghía lên đỉnh của chóp tường. “Một món đồ cổ như thế này đáng giá cỡ ba chục ngàn như chơi.”
Tôi nghía cái bàn cổ ấy với niềm thích thú, thậm chí khi tôi biết đồ cổ Hepplewhite là cái gì. Và tôi không khỏi không nghĩ đến món tiền tôi sẽ kiếm được khi bán nó đi.
Con chó nhỏ tru ăng ẳng trên cánh tay bà Houlihan. “Nó muốn được đi ra ngoài đó, tội nghiệp chưa. Mấy bữa nay nó cứ khóc thương cho ông chủ của nó. Sáng nay thì hầu như là hổng thèm đụng vô dĩa thức ăn của nó nữa. Từ hồi mít-tờ Nevin qua đời thì nó hổng được đi ra ngoài lần nào. Tui có cho nó ra ngoài sân sau vài lần trong ngày nhưng tui hổng dắt nó đi dạo được. Tui là tui hổng thể nào chịu đựng nổi cái nóng này.”
Rồi bà đưa con chó nhỏ cho tôi trong khi tôi nhìn nó đầy kinh hoàng. Ðời tôi chưa bao giờ tự mình chạm vào một con chó lấy một lần. “Dì muốn tôi làm gì với nó đây?”
“Ðưa nó đi dạo. Bây giờ nó là của cô rồi.”
Sophie lúc này đã băng ngang tiền sảnh và đang nghía vào phòng chơi nhạc. “Ở đây bị nước làm hư hại nhiều hơn. Có lẽ cậu cần thay mái mới, Mel ạ.”
Bà Houlihan dúi con thú ấy vào tay tôi và con quái vật tí hon ấy sủa một lần nữa rồi liếm vào mũi tôi. “Không, không, không đâu. Không ai nói với tôi về việc thừa kế một con chó cả.”
Bà quản gia lận cái cằm vào trong cổ mình, che giấu nó một cách hiệu quả nhờ những lớp thịt. “Thực ra, giờ hổng có ai có thể nhận nuôi nó. Ông xã tui bị dị ứng với lông chó, nếu không thì tui đã mang nó về rồi. Nó dễ thương lắm. Rồi cô và nó sẽ hòa hợp với nhau thôi.”
Tôi nhìn chằm chằm vào bà mà không hiểu gì cả trong khi bà đã lôi từ trong túi áo khoác ra một cái dây xích chó rồi mắc vào vòng cổ con chó. Lúc này tôi chẳng biết mình nên đi về hướng nào thì tôi lại nhìn Sophie đang băng qua tiền sảnh bên dưới vòng cung bằng đá rồi leo lên cầu thang chính, hai tay nó lướt trên thành cầu thang bằng gỗ gụ được uốn cong. “Ngôi nhà này thật tuyệt không tưởng tượng được - thật là một ví dụ điển hình cho kiến trúc cổ Charleston. Mình không thể nào tin được.” Tôi đi theo Sophie khi nó rẽ vào góc cầu thang và tiếp tục đi lên hành lang trên lầu. Tôi nhìn nó đặt tay lên cái nắm cửa đầu tiên mà nó nhìn thấy.
Bà Houlihan, nãy giờ vẫn đi theo sau lưng tôi, bỗng hớt hãi kêu lên. “Ðừng, đừng có mở cái đó...”
Nhưng Sophie đã kéo mở cửa ra rồi, và từ đó phát ra âm thanh của một đống lông vũ sột soạt vang đến tận nơi tôi đang đứng. Nhưng thay vì đóng cửa lại và bước ra khỏi nơi ấy như hầu hết những người bình thường khác sẽ làm, thì Sophie lại bước đến bộ cầu thang nhỏ phía sau cánh cửa và bắt đầu leo lên.
Tôi quay lại hỏi bà quản gia. “Nó leo đi đâu hả dì?”
Bà Houlihan lúc này đã bắt đầu di chuyển một cách khó nhọc để đưa thân hình đồ sộ của mình lên các bậc thang. “Ðó là gác mái, trên đó có cái lỗ nhỏ nơi bọn bồ câu thường lui tới và ngủ lại. Nếu cửa mà để mở, thì chắc chắn sẽ có...”
Trước khi bà nói xong thì một con chim bồ câu lông trắng xám mập ú vừa bay ra khỏi chiếc cửa mở, bay ngang qua chúng tôi rồi sà xuống nhà dưới, sau đó lại tiếp tục bay loạn xạ vòng quanh tiền sảnh. Tôi bước từng hai nấc thang nhưng khi vừa đến cửa gác mái thì cũng là lúc Sophie chạy ào ra, đóng sầm cửa lại sau lưng nó.
“Cậu không thể tưởng tượng nổi những thứ bên trong ấy đâu! May là hầu hết mọi thứ được che bằng vải bạt bởi vì có quá nhiều phân bồ câu ở khắp nơi, nhưng đúng là trong ấy có nhiều thứ hay lắm. Trong ấy còn có cả một con trâu thuộc nhồi vải to bằng trâu thật ngoài đời ấy, ngoài ra hình như còn có thêm nhiều món đồ cổ Hepplewhite và Sheraton nữa.”
Con bồ câu lúc này lại sà xuống đầu mọi người, và trong khi chúng tôi chúi đầu xuống để né nó thì Ðại tướng Lee cũng sủa điên cuồng. Sophie chìa ra một vật trông giống như cây gậy. “Nhìn xem, mình tìm được cái gì đây này.”
Tôi nhìn xuống cây gậy thẳng trơn có khắc chữ bên hông. “Chữ viết gì thế?”
Bà Houlihan đằng hắng giọng và khiến chúng tôi ngạc nhiên khi bà nói. “Chữ khắc là: ‘tôi đi bằng bốn chân vào buổi sáng, hai chân vào buổi chiều và buổi tối thì đi bằng ba chân. Tôi là cái gì?” Bà nhìn chúng tôi chờ đợi, và khi cả tôi và Sophie chẳng đứa nào trả lời được thì bà nói. “Câu trả lời là ‘con người’. Khéo chứ ha? Gia tộc Vanderhorst luôn nổi tiếng vì sự yêu thích các câu đố của họ đấy.” Rồi bà nhìn cây gậy và mỉm cười một cách ấm áp. “Ông nội của mít-tờ Vanderhorst tặng cây gậy này cho ổng nhân dịp ổng tốt nghiệp trường luật. Tui bảo đảm ổng thích nó lắm. Ổng từng để nó trong phòng ngủ dành cho khách cho đến khi trần nhà ở đó bị dột, vậy là ổng dọn nó lên gác mái luôn. Dĩ nhiên là ở trên gác mái thì cũng có tốt đẹp gì hơn đâu.”
Sophie nhìn tôi, sự kính sợ như đong đầy trong mắt nó. “Ôi chao, giờ thì cậu sở hữu nó rồi. Cậu là cô gái may mắn nhất trên đời này đấy.”
“Ðúng rồi. Giờ đây mình sở hữu một con chó và rõ ràng thêm cả một con trâu mộng to đùng cùng với một ngôi nhà trám bằng pho mát Thụy Sỹ thay cho mái nhà. Tất cả những việc này làm thế quái nào lại có nghĩa mình là cô gái may mắn nhất trên đời?”
Tôi bỗng có cảm giác muốn khóc rất kỳ quặc, thế là tôi quay lưng lại và bắt đầu bước xuống các bậc thang với Ðại tướng Lee đang kêu ăng ẳng luôn mồm trong tay tôi cùng một con bồ câu gần gót chân mình và đang sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào. Sự việc có thể nào tệ hơn nữa được không?
Sophie lại gọi tôi. “À, thế ai là người quản lý quỹ? Cậu chưa đề cập đến vụ ấy.”
Tôi dừng bước, và nhìn lại đằng sau với một đầu óc đang xáo trộn. “Mình chưa hỏi. Chẳng hiểu tại sao, có lẽ vì khi ấy mình vẫn còn bị sốc.”
Bà Houlihan, lúc này đang thở hì hục vì ráng sức leo cầu thang tự nãy giờ, nói, “Xém chút nữa thì tui quên mất. Có một tin nhắn bằng điện thoại cho cô mà tui quên chưa báo cho cô biết. Thứ lỗi cho tui nha, việc này dĩ nhiên sẽ không bao giờ tái diễn đâu. Nhưng mà, à, có một quý ông gọi cách đây chừng một tiếng. Ổng nói muốn tìm cô vì ổng vừa được tin ổng sẽ là người quản lý quỹ cho ngôi nhà và ổng cần nói chuyện với cô. Ổng đã cố gọi về nhà cho cô trước nhưng hổng có ai trả lời.”
“Ông ấy có cho biết tên không?”
Bà ấy lôi trong túi ra một miếng giấy được gấp lại. “Có. Ông Ðại tá James Middleton nào đấy. Ổng không để lại số điện thoại, mặc dù tôi có hỏi. Ổng nói cô sẽ biết thôi.”
Tôi bắt gặp ánh mắt của Sophie, lúc này đang mở to. Phải, sự việc đúng là có thể trở nên tồi tệ hơn. Quá tệ hại.
Bà Houlihan nghiêng đầu. “Middleton. Cô có họ hàng gì với ông đại tá này không?”
Tôi phải ép cổ họng mình mới nói nên lời. “Phải. Ông ấy là ba tôi. Rõ ràng ông Vanderhorst này thật vui tính mà.”
“Ừa, ổng rất vui tính cô ơi. Nhưng ổng cũng có một sự tin tưởng mạnh mẽ vào giá trị gia đình. Có lẽ đó là tại sao ổng chọn ba cô làm người quản lý quỹ. Ổng luôn nói rằng một giọt máu đào luôn hơn ao nước lã.”
Bà ấy còn nói gì nữa đấy nhưng tôi không còn nghe thấy gì hết. Tôi cần phải đi ra khỏi ngôi nhà này ngay - trốn khỏi cả con bồ câu chết tiệt này - càng sớm càng tốt. Tôi đặt con chó xuống chân cầu thang và để cho nó đeo theo tôi mà đi đến nơi nó muốn đến cho đến khi tôi nhận ra mình đã ở trên vỉa hè ngay trước cổng ngoài, là nơi nhìn vào khu vườn.
Người phụ nữ ấy lại ngồi đấy, đong đưa cậu bé trên chiếc xích đu. Cả hai đều đang nhìn tôi, và cậu bé giơ tay lên vẫy. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi cái bóng có vẻ độc ác mà tôi nhìn thấy lần trước hiện không có ở đây, và tôi hy vọng nó chỉ là kết quả của một sự hoang tưởng quá đáng của tôi mà thôi. Ðại tướng Lee lúc này lại sủa vang và có vẻ mừng rỡ như thể nó nhận ra ai đó mà nó quen biết, và tôi ngạc nhiên nhìn nó hỏi. “Mày cũng nhìn thấy họ à?”
Tôi quay nhìn lại cảnh tượng khi nãy, nhưng lúc này người phụ nữ ấy cùng cậu bé và cả chiếc xích đu đã không còn đấy nữa, và những con dế lại tiếp tục bản hợp xướng của chúng. Tôi lặng nhìn khu vườn um tùm thêm một phút thật dài, chẳng hiểu sao tôi lại nhìn thấy những bông hoa sặc sỡ cùng cây lá xanh um trong khi tôi biết chỉ có đất bùn nâu và cỏ dại um tùm là mọc ở đây mà thôi. Cứ như thể tôi đang nhìn thấy hình ảnh ngôi nhà thời nó còn đẹp đẽ ấy. Và cả hình ảnh mà nó có thể trở thành một lần nữa.
Giật mạnh cái dây xích chó, tôi hướng về đường cái, không dám nhìn lại. Tôi không muốn lại nhìn thấy ngôi nhà trong thời hoàng kim của nó khi các cột nhà còn bằng phẳng với sơn thạch cao trắng muốt sáng chói trong ánh nắng của Charleston, bóng của những chiếc cột này như những cánh tay với ra ôm lấy tôi và bám riết không buông tha.
Tôi bắt đầu chạy chậm, mặc cho đôi gót chân đau và cái nóng oi bức, chạy cùng Ðại tướng Lee vòng quanh góc đường cho đến khi tôi không còn nhìn thấy ngôi nhà trên phố Tradd nữa.