Tôi mất cả một tháng để đọc xong một xấp bản thảo mỏng. Chỉ việc đọc những ký tự lạ hoắc đã đủ khó rồi, chưa để đến đây còn là bản viết tay nữa. Mà dù vậy, lý do khiến tôi mất nhiều thời gian như thế chủ yếu là vì thiếu thời gian rảnh.
Vụ thu hoạch mùa thu đã xong từ tháng trước, việc đồng án cũng giảm xuống ít nhiều nhưng điều này không nghĩa là những người nông dân có cho mình thời gian rảnh. Nếu không trồng lúa mì mùa đông để thu hoạch trong mùa xuân tới, chúng tôi sẽ phải đối mặt với nạn đói và nếu không chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua mùa đông, chết rét là chuyện hiển nhiên. Cảm giác như đang chơi một trò chơi ở chế độ ác mộng vậy, kể cả một sự sơ xuất nhỏ thôi cũng đủ gây chết người. Điều an ủi duy nhất là tỉ lệ tử vong của chúng tôi không cao như những chỗ có mùa động quá lạnh bởi lẽ ở đây không có nhiều tuyết cho lắm. Một tiêu chuẩn thật tệ hại cho ‘sự an ủi’.
“Vậy tôi có thể mượn quyển sách tiếp theo không, làm ơn?”
“Gì cơ, chú mày chán rồi đó à?”
Như thường lệ gã Folke-bị-tước-đoạt-giấc-ngủ đảo mắt. Tôi không hiểu nổi thứ gì lại làm ông ta khó chịu đến thế.
“Ý ông một tháng là hơi dài cho cho cái xấp bản thảo này à?” Tôi cãi lại.
“Phải là chỉ một tháng. Không đời nào khả năng đọc hiểu của cậu phát triển đến nhường này chỉ trong một tháng được. Đặc biệt là khi chỉ tự học một mình.”
“Hả?” Có vẻ như chúng tôi đang không nói về cùng một chủ đề. Gã ta nghĩ tôi đã từ bỏ chuyện tự học cách đọc quyển sách, hơi xúc phạm nhưng đó lẽ ra sẽ là một giả thuyết đúng đắn nếu tôi không sở hữu ký ức tiền kiếp. Tôi cố tỏ ra mình là một người có danh dự, nhớ lại món nợ ân tình của người linh mục đã cho tôi mượn sách, rồi cất lời. “À không, tôi đã nhớ tất cả những chữ cái trong đó rồi nên có thể cho tôi mượn thêm một quyển khác được không?”
“Đừng có nghĩ ta ngốc như vậy. Nếu muốn nói dối, chú mày nên làm cho nó đáng tin hơn một chút đi.”
Trong khi gã ta mãi cười đùa, giễu cợt, mọi sự biết ơn còn lại của tôi đã bốc hơi ngay tức khắc. “Tôi hiểu rồi, ông gọi tôi là một thằng nhóc tám tuổi ngây thơ, một đứa dối trá mà không có bất kỳ bằng chứng nào chứ gì?”
“Ta không cần bằng chứng. Học đọc chỉ trong một tháng là điều bất khả thi; không thể nào có chuyện đó! Ý ta là, cậu chỉ có thể đọc được câu đầu tiên thôi, mà kể cả thế, đó cũng bởi vì ta đã dạy cậu!”
Có vẻ như ông ta không hề có ý định lắng nghe lời tôi nói. Trong trường hợp này, không còn lựa chọn nào nữa. Nếu không còn có thể nói chuyện như một con người văn mình, chỉ còn một con đường duy nhất: tôi phải đấu tranh. Và không chỉ là đấu tranh – một cuộc thánh chiến, sự đối đầu không thể chính đáng hơn với tên giáo sĩ dám tỏ ra nghi ngờ ý định của người khác trước cả khi tin tưởng họ. Tôi sẽ kéo tấm thảm dưới chân gã linh mục đáng thương và khiến hắn ngã sấp mặt.
“Thế ông định là gì nếu tôi chứng mình được rằng ông sai?” Tôi thách thức gã.
“Không đời nào!”
“Chà, vậy tôi yêu cầu quyền được mượn bất cứ cuốn sách nào thuộc sự kiểm soát của ông nếu tôi chứng minh được việc mình biết đọc.”
“Theo ý cậu. Nếu chứng minh được ta sai, ta sẽ để cậu mượn bao nhiêu quyển sách tuỳ thích.” Folke thách thức tôi bằng giọng nhạo bán khinh thường.
“Để rồi xem…” Cách nhanh nhất là đọc một quyển sách khác từ bộ sưu tập của gã, tuy nhiên toàn bộ lại đều là chữ viết tay. Nếu lỡ may chọn phải một quyển sách với bút tích kỳ quặc, tôi sẽ gặp rắc rối mất. Tất nhiên, mặt khác – chữ của Folke cũng thuộc vào hàng lập dị - cũng có khả năng xảy ra. “Tôi đã nghĩ ra cách hay để minh chứng rồi! Ông có thể cho tôi mượn giấy và bút được không?”
“Chú mày đang cố làm cái gì vậy?”
“Tôi sẽ viết một bản giao kèo, quy định rằng ông phải cho phép tôi mượn sách như là hình phạt vì đã gọi tôi là đồ dối trá, một mũi tên trúng hai con nhạn.”
Bởi dùng chữ của Folke để làm ví dụ học tập, không thể nào ông ta lại không đọc được chữ viết của tôi. Nếu tôi lỡ làm sai một thứ gì đó, bản giao kèo coi như vô dụng nhưng nếu cố gắng viết thật chính xác, tôi sẽ buộc được ông ta ký nó.
Như dự đoán, Folke đang tỏ ra lo lắng sau khi lắng nghe kế hoạch của tôi. Mặc dù không nghĩ chuyện thật sự khả thi, có vẻ như gã đang bắt đầu nghi hoặc về thứ giấy tờ mang tính trói buộc như bản giao kèo.
“Thế giờ chúng ta làm gì tiếp theo đây? Sẽ không cần làm bất cứ việc gì kể trên hết nhưng trong trường hợp đó, ông phải xin lỗi tôi. Tôi đã bị tổn thương sâu sắc khi bị ông gọi là một đứa trẻ ngây ngô, một kẻ lừa dối. Tôi buồn lắm, tôi không thể nào ngừng khóc được đây này.”
Tôi cố gắng để trông có vẻ buồn bã và vờ như muốn khóc thiếu tự nhiên nhất có thể. Tôi muốn khiêu khích gã ta. Sẽ vui hơn nhiều nếu đưa gã đến một mức mà sẽ hoàn toàn từ chối việc xin lỗi thằng nhãi gan dạ như tôi. Và có vẻ như nó đã hoạt động.
“Đang nói cái gì đấy, thằng nhãi này, nhà người thậm chí còn chẳng đau đớn dù chỉ là một chút. Ta sẽ xé toạt lớp da mỏng manh, quỷ quyệt đó và cho chú mày thấy ai mới là người đúng đắn.” Đôi vai Cha Folke căng cứng trước khi tìm kiếm giấy và bút. Tôi thắng rồi.
Nhân tiện, thứ ‘quỷ’ gã đàn ông kia đề cập đến… Bọn chúng có thật sự tồn tại không nhỉ? Tôi luôn nghĩ thứ đó chỉ giống như Ông Kẹ để doạ bọn trẻ tránh xa khỏi hiểm nguy. Tuy nhiên, sau khi trải qua một trải nghiệm tâm linh như sở hữu ký ức tiền kiếp, tôi không thể nào dễ dãi bật cười trước nhưng hiện tượng kỳ bí khác được.
“Của chú mày đây. Cho ta xem nhà người có thứ gì đi, thằng nhãi ngu ngốc.”
“Vâng ạ.” Ông đang khoanh tay và trông có vẻ nghiêm nghị nhưng tôi vẫn có thể nhìn thấy sự dao động trong đôi mắt ông đấy.
Tôi nhúng cái bút lông ngỗng vào mực rồi chậm rãi bắt đầu viết. Không được mượt cho lắm, bởi tôi không quen với việc viết hay cả dùng bút lông ngỗng.
“Xin lỗi vì chữ xấu nhưng ông vẫn đọc được chứ?” Sau khi hoàn thành, tôi lau qua trán mặc dù tôi chẳng hề đổ mồ hôi. Khi nhìn thấy khuôn mặt Cha Folke trở nên nhợt nhạt, tôi biết rằng ông ta có thể đọc nó. “Liệu ông có thể tốt bụng đọc to nó lên được không ạ?”
“Không thể nào tin được. Cậu thật sự học cách đọc và viết chỉ trong một tháng trời.”
Ông ta quá bất ngờ để có thể đọc thành tiếng câu văn của tôi nhưng đây là những gì tôi đã viết:
‘Như một hình phạt cho việc vô cớ gọi cậu ta là kẻ dối trá, linh mục Folke sẽ trao cho Ash quyền được mượn không hạn định bất cứ quyển sách nào nằm dưới sự giám sát của mình.’
May mắn thay, tôi chỉ phải đối mặt với chữ tượng thanh. Nếu là tượng ý, không đời nào tôi có thể học trong vòng một tháng được. Chữ tượng ý thường nhiều và phức tạp hơn chữ tượng thanh, loại chữ mà sẽ thật dễ để viết được dạng thông thường chỉ cần ghi nhớ cách phát âm và những ký tự tương ứng. Chính vì vậy, trường hợp sau tiện lợi hơn rất nhiều.
“Cái thằng… À không, Ash! Làm thế nào cậu nhớ được các chữ cái? Chú mày thậm chí còn chẳng biết đọc!”
Gã ta chất vấn trong khi nắm chặt lấy vai tôi. Tôi đã sợ hãi. Bị một gã thường được gọi là linh mục xác sống đến sát gần mặt khiến tôi có cảm giác như mình sắp bị cắn.
“Chà, tất cả những gì tôi làm là ghi nhớ các ký tự từ câu đầu tiên ông dạy tôi, áp dụng chúng vào các câu khác và dựa vào ngữ cảnh mà đoán những chữ mình không biết.”
Cứ như bẻ khoá mật mã vậy. Sử dụng những câu từ mình đã từng nghe được trong suốt tám năm qua như bước khởi đầu để giải mật, tôi đã phải điền vào rất nhiều lỗ khuyết. Tuy nhiên, vẫn còn những ký tự mà tôi chưa biết, cũng có những từ tôi có thể đọc nhưng ý nghĩa vẫn mù mờ. Cảm giác như tôi đang học hơn là đang đọc sách.
Cha Folke ngả mình xuống ghế. Không việc gì phải làm quá lên như thế. Mặc dù xét đến việc tôi là một thằng nhóc tám tuổi ở cái làng có trình độ học vấn gần như bằng không thì có lẽ Folke cũng không quá phóng đại.
Dù sao đi nữa, với việc này, bản giao kèo đã được thiết lập. Tôi buộc ông ta ký vào và vì vậy cũng sẵn sàng để mượn quyển sách tiếp theo.
“Nếu có thể, tôi muốn đọc một quyển sách tôn giáo khác hoặc một câu chuyện đơn giản với những từ vựng tương tự.”
Tôi đang nghĩ về thứ gì đó đại loại như câu chuyện về một vị thánh hoặc có thể là sách giáo khoa. Trong đó thường không có quá nhiều từ ngữ khó và đọc cũng vui. Trong khi nhìn Cha Folke chọn sách, khuôn mặt tôi nở ra một nụ cười xán lạn.