Sáng sớm hôm sau, Chung Độ chọn bộ trang phục thoải mái dễ chịu, mặc chiếc áo len màu trắng mỏng, khoác áo lông cừu xám bên ngoài, quấn chiếc khăn quàng màu đen Trì Viễn Sơn chọn cho mình kia, lên đường đến buổi tham vấn tâm lý thứ ba của mình.
Tính bảo mật nơi làm việc của nhà tâm lý Ôn cực kỳ tốt, là một khu biệt thự biệt lập, đường đi được quy hoạch như mê cung, Chung Độ đã đến hai lần vẫn suýt nhầm đường.
Căn biệt thự được bài trí theo phong cách phục cổ tao nhã, phòng chờ lầu một có ba mặt tường lấp đầy bằng sách bìa cứng, kế bên là quầy bar lớn với đủ trò tiêu khiển cho người thân.
Chung Độ không có người nhà theo cùng, đương nhiên khu vực đó vắng người. Mà sự thật là cả căn biệt thự trước mắt chỉ có một mình anh ở đây, nếu hẹn trước hai tiếng thì sẽ trống lịch bốn tiếng, chừa một tiếng trước và sau giờ hẹn nhằm cho người đặt nặng vấn đề tư mật như Chung Độ đủ không gian và thời gian.
Chung Độ theo sự hướng dẫn của nhân viên lên thang gỗ tròn đi vào hành lang dài dặc, gõ cửa phòng nhà tâm lý Ôn lần thứ ba.
Nhà tâm lý Ôn họ Ôn tên Hòa Ngọc, con người nhẹ nhàng nhã nhặn giống hệt như tên, phong cách ăn mặc thư thả dễ chịu, từ trên xuống dưới không tìm đâu ra cảm giác xa cách và ngột ngạt.
Thấy Chung Độ vào, nhà tâm lý cười đứng dậy đưa anh vào sô pha ngồi: “Anh ngồi đi, mấy hôm rồi thế nào?”
Giọng điệu Ôn Hòa Ngọc thoải mái giống như căn phòng tham vấn này vậy, đâu đó mang lực hấp dẫn mê hoặc lòng người.
Bên cửa sổ là vài chậu cây cao tầm nửa người, rèm cửa bằng vải lụa trắng che chắn ánh nắng vừa phải, hai chiếc sô pha một người đặt cạnh góc tủ, chính giữa là bàn trà và một chậu cây sen đá con con. Trong phòng không có bất kỳ dấu vết của cuộc tham vấn tâm lý nào, đến cả trên bàn làm việc cũng chỉ có đèn bàn và laptop.
Toàn bộ không khí hệt như đang ghé nhà bạn chơi, tự nhiên và thoải mái, nhưng mọi sự sắp đặt tỉ mỉ đến từng chi tiết này không có tác dụng với Chung Độ. Anh không hề quên mình đến đây tham vấn tâm lý.
Lúc này, anh ngồi xuống sô pha, cười trả lời câu hỏi của Ôn Hòa Ngọc: “Ngủ không ngon lắm, những chuyện khác… vẫn ổn?”
Ôn Hòa Ngọc đưa ly nước đến: “Không uống thuốc tôi kê cho anh à?”
“Mấy ngày gần đây không uống, uống vào cứ thấy không được tỉnh táo.”
“Mỗi người lại có phản ứng với thuốc khác nhau, nếu anh thấy không hợp lát nữa tôi sẽ đổi. Hôm nay chúng ta cũng tâm sự với nhau chứ?”
Chỉ từ vài câu giao tiếp dạo đầu Ôn Hòa Ngọc đã đưa ra nhận định. Chung Độ ngoài mặt cười, thoạt trông có vẻ rất thoải mái nhưng môi anh hơi mím nhẹ, lúc nói chuyện bàn tay đan vào nhau vô thức bấu víu vê nắn.Ngôn ngữ cơ thể dù nhỏ nhặt nhất cũng không trốn được khỏi tầm quan sát của nhà tâm lý. Vậy nên Ôn Hòa Ngọc không vội vào bước tiếp theo, mà muốn tạo lập nền tảng tín nhiệm trước, không ngờ Chung Độ lại nói: “Nhà tâm lý Ôn, tôi không có quá nhiều thời gian, có cách nào đẩy nhanh tác dụng hơn được không?”
Ôn Hòa Ngọc hơi bất ngờ nhìn về phía Chung Độ, nhẹ nhàng hỏi: “Anh có thể cho tôi biết lý do anh vội vàng như vậy không? Là… vì người yêu anh?”
Chung Độ gật nhẹ đầu.
Ôn Hòa Ngọc cười: “Đạo diễn Chung, anh có biết bản thân là một người rất có sức hấp dẫn hay không. Tôi tin rằng người yêu anh nhất định biết rõ chuyện này, tôi nghĩ người ấy sẽ không ngại cho anh thêm thời gian.”
“Tôi là người quan ngại, nhà tâm lý Ôn.” Chung Độ nhìn thẳng vào mắt Ôn Hòa Ngọc, không còn vờ như mình mệt mỏi, chỉ nói nửa câu rồi để Ôn Hòa Ngọc nhìn thấy quyết tâm của mình.
Mỗi lần Trì Viễn Sơn ngẩn ra nhìn những vết sẹo trên cánh tay anh; mỗi lần Trì Viễn Sơn cũng giật mình tỉnh giấc vì anh gặp ác mộng; rõ ràng biết cảm xúc anh không ổn vẫn phải vờ như không hay giúp anh tô đậy khoảnh khắc bình yên; và cả khi nói chuyện với nhau cũng phải cân nhắc chạm phải “vùng cấm” của anh. Chung Độ vừa tự trách lại vừa đau lòng, đến mệt mỏi thay phần y.
Ôn Hòa Ngọc nhìn anh vài giây, thoáng thở dài, từ bỏ bước rào thận trọng: “Tôi hiểu, vậy chúng ta vào thẳng câu chuyện đi. Lần trước anh nói với tôi anh mắc chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn, dù thoát khỏi môi trường ấy đã gần hai mươi năm nhưng nó vẫn liên tục ảnh hưởng đến anh. Căn cứ theo triệu chứng anh mô tả, tôi cho rằng anh tự chẩn đoán chính xác ở một mức độ nào đó. Nhưng nếu chúng ta không tiến hành trao đổi sâu hơn, tôi không thể nào đưa ra nhiều nhận định hơn.”
Ôn Hòa Ngọc là một nhà tâm lý xuất sắc và chuyên nghiệp, đừng nói đã gặp hai lần, đại đa số thân chủ vừa bước chân vào cửa trong chưa đầy mười phút Ôn Hòa Ngọc đã có thể đưa ra chẩn đoán sơ bộ.
Chung Độ là một ngoại lệ. Anh sẽ tâm sự về cuộc sống, kể về người yêu mình, phim ảnh và thậm chí những nỗi đau vây hãm anh suốt ngần ấy năm, nhưng trong tiềm thức lại xây dựng bức tường đồng vách sắt với nỗ lực bỏ qua bản chất vấn đề đi kiếm tìm một đáp án. Đến nỗi Ôn Hòa Ngọc không thể chạm đến nội tâm thật của anh, đến nỗi hoài nghi có phải anh vốn hoàn toàn không muốn trị liệu. Nhưng giờ phút này, nhìn vào đôi mắt chấp nhất của Chung Độ, Ôn Hòa Ngọc biết mình đã sai.
Chung Độ chỉ bị vây hãm quá lâu, đã quen sống với những vết thương được giấu kín, quen chịu đựng khổ đau, và không biết cách cầu cứu.
Dựa vào đó, Ôn Hòa Ngọc thả chậm tốc độ nói: “Anh đừng tạo cho bản thân áp lực quá lớn, cũng đừng cảm thấy nó là thứ bệnh tật vô phương cứu chữa. Anh chỉ có một quá khứ không mấy vui vẻ mà thôi, không hề khó vượt qua, đối diện với nó, chiến thắng nó là được.”
Chung Độ trơ mắt nhìn trong phút chốc, bất giác chạm vào chiếc vòng trên cổ tay, im lặng một lát rồi nhẹ gật đầu: “Tôi sẽ cố gắng.”
“Không sao, chúng ta đi từng bước một. Nếu anh thấy kể chuyện cụ thể áp lực, vậy trước hết có thể cùng ngồi lại hồi tưởng khung cảnh đó.” Ôn Hòa Ngọc nói: “Anh có thể nhắm mắt lại, dựa lưng vào sô pha, thả lỏng, ở đây rất an toàn, sẽ không ai đến quấy rầy chúng ta.”
Chung Độ gật đầu làm theo, cổ họng anh khô khốc, anh không nói gì.
Trước mắt là khoảng không tăm tối, giọng nói êm ái của Ôn Hòa Ngọc vang bên tai: “Có thể cho tôi biết nơi xảy ra chuyện khiến anh đau khổ là ở đâu không?”
“Căn nhà khi tôi còn nhỏ… tầng hầm.”
“Tầng hầm trông như thế nào?”
Chung Độ lặng tiếng một thoáng, Ôn Hòa Ngọc nhìn thấy đôi mi anh run run, hai tay bấu chặt tay vịn ghế sô pha, đầu ngón tay trắng bệch, lúc lên tiếng đến giọng nói cũng run rẩy: “Trống rỗng, sàn nhà ẩm ướt và bẩn thỉu, tối lắm, trên tường có mấy bức tranh gớm ghiếc, lúc nào cũng có mùi tanh tưởi mốc meo.”
“Anh nhớ lý do mình phải ở tầng hầm là gì không?”
Chung Độ cắn môi, lắc đầu không đáp. Ôn Hòa Ngọc lại hỏi: “Trong tầng hầm chỉ có một mình anh?”
“Không, thỉnh thoảng có gà, thỉnh thoảng có cá, thỉnh thoảng có chuột bạch, nhưng bọn chúng sẽ chết sớm thôi.”
“Chúng ở đâu?”
“Bị ném xuống đất.” Giọng Chung Độ căng lên, như phải dồn đủ sức mới có thể nói tiếp: “Gà đập cánh chạy loạn, chuột chạy chốn nháo như ruồi không đầu, cá liều mạng thoi thóp, há to miệng, bọn chúng chỉ sống được ít lâu rồi chết.”
Giọng anh không có bất kỳ biểu cảm nào, như người máy lạnh lẽo, nhưng trán lại túa mồ hôi.
Ôn Hòa Ngọc không để anh nói tiếp, dời sự chú ý đi đúng thời điểm: “Anh có nhìn thấy cửa tầng hầm ở đâu không?”
Ôn Hòa Ngọc vừa dứt câu, cả cơ thể Chung Độ run rẩy, anh thình lình mở mắt, đôi người đen đặc chất chứa nỗi sợ hãi tuổi thơ xa xôi đến rùng mình.
Một lát sau Ôn Hòa Ngọc mới nhẹ chân đi đến, bán ngồi trước mặt anh nói: “Ngày nhỏ anh rất dũng cảm, hôm nay anh cũng đã làm rất tốt. Tạm thời chúng ta đến đây, anh nghỉ ngơi đi, để tôi rót cho anh ly nước.”
Chung Độ lại gật gật không đáp, ánh mắt vẫn đờ đẫn, tay phải đặt trên cổ tay trái, lòng bàn tay ôm lấy “may mắn” Trì Viễn Sơn tặng anh.
Mãi lâu sau, trước mắt anh xuất hiện ly nước, anh mới ngẩng lên cảm ơn rồi gượng cười.
Chờ anh uống từng ngụm nhỏ hết nửa ly, Ôn Hòa Ngọc nói: “Anh đang dần thoát ly khỏi quá khứ, đang dần trở nên mạnh mẽ, còn tầng hầm ấy chỉ ngày càng tàn tạ. Tôi tin, bây giờ anh chỉ cần ngoắc ngón tay sẽ biến nó thành nơi đổ nát, và mong anh hãy tin tôi đủ khả năng giúp anh.”
Chung Độ gật đầu đáp: “Được.”
Anh vẫn cười, chỉ là ý cười không đến được đáy mắt, khiến người ta không tài nào nhìn thấy chữ “Được” ấy xuất phát từ đáy lòng hay từ phép lịch sự.
Ôn Hòa Ngọc không nói gì thêm, nhìn ra lúc này Chung Độ không muốn nghe những lời súp gà tâm hồn, chỉ muốn đi khỏi đây thật mau chóng. Vậy nên Ôn Hòa Ngọc nói: “Hôm nay chúng ta đến đây, tôi cho anh thuốc mới. Nếu lúc uống cảm thấy khó chịu cứ liên lạc cho tôi mọi lúc, đừng tùy tiện ngừng thuốc.”
“Được, lần sau gặp.” Quả đúng như suy nghĩ của Ôn Hòa Ngọc, Chung Độ gật đầu, không do dự bước thẳng ra cửa.
Có người lấy thuốc giúp, Chung Độ ngồi tạm ở khu vực chờ. Chưa đầy hai phút sau, anh bỗng đứng dậy, vội vàng vào phòng vệ sinh.
Anh mở vòi nước mạnh tối đa, ấn nước rửa tay tới đáy, cẩn thận chà rửa mỗi một ngón tay, xả nước sạch sẽ, lặp đi lặp lại ba lần, tiếp đó rửa mặt rồi sửa sang tóc tai.
Làm xong xuôi, nhịp tim điên cuồng không dịu đi được mấy. Anh vô thức lấy điện thoại trong túi ra, nhắn tin Wechat cho Trì Viễn Sơn, vỏn vẹn ba chữ: “Em bé nhím.”
Nhắn xong mới nhớ ra hôm nay Trì Viễn Sơn lên núi trà, bây giờ hẳn vẫn đang trên đường, thế là thở dài, đút điện thoại về túi, sửa sang quần áo mở cửa bước ra.
Vẻ bình tĩnh trên gương mặt Chung Độ đã hoàn toàn biến mất, hoàn toàn không để những lời Ôn Hòa Ngọc nói lúc sau vào tai, thậm chí quên hỏi cả cách không cần uống thuốc mà vẫn ngủ được. Cũng may mà Ôn Hòa Ngọc đổi thuốc giúp.
Anh đang ngồi trong căn phòng ngập nắng, từ đầu đến chân lại như cạn kiệt hơi ấm, thứ mùi ẩm mốc lạnh lẽo bám riết trong xoang mũi, đôi mắt trong đầu như hiện hữu trước mặt.
Chung Độ có câu trả lời rõ ràng cho hai câu hỏi mình giữ im lặng vừa rồi.
Anh nhớ vì sao mình phải ở tầng hầm, là vì mẹ nhốt anh vào. Anh cũng nhìn thấy cửa thoát nằm ở đâu, biết rằng đôi mắt cười của mẹ ẩn giấu đằng sau cánh cửa ấy.