Càn Nguyên năm thứ tám, thiếu đế nước Lương tự mình chấp chính, sủng ái gian thần nịnh tặc, ghẻ lạnh quan hiền lương dân, tuyển mỹ nữ lấp đầy hậu cung, rầm rộ xây dựng hoàng lăng, cho dù đang vào năm đại hạn, dân oán thấu trời, nhưng đế vương hằng đêm sênh ca, che tai bịt mắt, mặc cho thiên hạ đại loạn, bị chiến tranh tàn phá. ——【Trích đoạn “Thiên hạ đệ nhất cung”】
Khi Chu Chính Kình hai tuổi, nghe nói đây là nước Lương, Càn Nguyên thiếu đế cầm quyền, liền biết mình đời này đã xuyên vào trong tiểu thuyết《Thiên hạ đệ nhất cung》 của Chu Ngẫu Phiến.
Một lần lạ, hai lần quen, ba lần tâm vững như chó già.
Y cảm thấy Chu Ngẫu Phiến có lẽ không phải người bình thường, ít nhất cũng là thần bút Mã Lương chuyển thế. Vô luận viết ra tiểu thuyết gì cũng đều biến thành thế giới thật. Thứ thần lực khai thiên tích địa từ không thành có này, kiểu gì cũng phải có cùng một loại cấp bậc với Bàn Cổ, thượng đế hay Thần Sáng Thế gì đó.
Còn chính bản thân y, sống sống chết chết lăn lộn luân hồi chuyển thế, ước chừng cũng không tầm thường. Ờmm, là chồng của Bàn Cổ, thượng đế, Thần Sáng Thế?
Thôi, y vẫn là nên tắm rửa rồi đi ngủ, ở trong mộng thì muốn mơ cái gì cũng được.
Cho dù Chu Ngẫu Phiến có thân phận gì, tóm lại đó vẫn là vợ của y, mà thể chất của y ngoại trừ kế thừa sức mạnh Alpha từ thời đại tinh tế thì cũng không có chỗ nào thần thông quảng đại, sinh lão bệnh tử đều không thiếu cái nào, thành thành thật thật mà sinh hoạt mới là vương đạo.
Chu Chính Kình đợi mười sáu năm vẫn không chờ được ngày vợ chủ động tới cửa tìm mình. Ở nhà mãi cũng không được, y bỏ nhà ra đi ngao du giang hồ, như mò kim đáy bể mà đau khổ tìm vợ giữa biển người.
Cứ thế, năm nữa đã trôi qua.
Trong lúc Chu Chính Kình đã hoàn toàn dung nhập vào đại bản doanh Bạch Hạc quan của nhân vật trong《Thiên hạ đệ nhất cung》, trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ tứ đệ tử của Từ An đạo nhân, mượn thân phận của mình mà rà soát từ trên xuống dưới Bạch Hạc quan, trong ngoài đều nhìn qua một lần.
Nhưng vẫn không hề có thân ảnh của vợ.
Cả người Chu Chính Kình đều không khỏe, chẳng lẽ lần này vợ và y không đầu thai đến cùng một thế giới? Chẳng lẽ đời này y chỉ có thể le loi hiu quạnh, làm cẩu độc thân cả đời sao?
Y cự tuyệt cuộc sống hư không tịch mịch lạnh lẽo như vậy, nhưng lại càng lo lắng ở một góc nào đó mà y không tìm thấy, vợ y đang ở đó chịu khổ chịu nạn. Bất luận là đời thứ nhất hay thứ hai, trước khi hai người tìm được nhau, vợ y đều phải trải qua cuộc sống cực kỳ nhấp nhô.
Nội tâm buồn khổ lo âu không có chỗ để kể ra, y liền chỉ có thể phát tiết bằng bạo lực.
Trong bất tri bất giác, danh hiệu võ si của Chu Chính Kình đã lưu truyền khắp chốn võ lâm, còn đơn phương độc mã dọn dẹp mười mấy băng nhóm thổ phỉ, chiến bại trên trăm cao thủ, vinh đăng bảo tọa đệ nhị giang hồ.
Sở dĩ không phải đệ nhất là bởi vì sư phụ của y – Từ An đạo nhân luôn có một trăm loại lý do để cự tuyệt lời khiêu chiến của y, tỷ như uống nước bùa đau răng, ăn đan dược đau bụng, cho rằng mình sắp phi thăng nhưng lại té xuống từ trên nóc nhà chân cẳng đau nhức, lại còn có cả phát hiện ra một quyển tuyệt thế võ công bí tịch được Tổ sư gia bí mật cất giữ, muốn huy đao tự cung nhưng kết quả không cẩn thận nên trứng đau.
Nhiều vô số kể, hoa hòe lòe loẹt, việc lạ gì cũng có.
Chu Chính Kình: “……” Loại người thà tự hủy hoại bản thân còn hơn để người khác hủy hoại này, tại hạ bội phục, cam bái hạ phong!
Ngày nọ tháng kia năm ấy, phụ thân Chu Chính Kình gửi thư bồ câu, nói mình lâm bệnh nặng, lỡ như đại nạn buông xuống, muốn gặp mặt y lần cuối. Chu Chính Kình kinh hãi, lập tức bái biệt sư phụ, lên ngựa một đường bão táp hồi kinh.
Ba ngày ba đêm, y chưa từng chợp mắt, đợi đến lúc về đến cửa nhà, lòng nóng như lửa đốt, không đợi đứa trẻ giữ cổng mở cửa đã khinh công bay qua tường mà lao vào trong nhà.
Cửa phòng bị đẩy ra thật mạnh, y cực kỳ bi thương mà hô to: “Cha, hài nhi bất hiếu, đã về trễ……”
Bên trong cánh cửa, ngồi vây quanh cái bàn chính là bốn vị hán tử trung niên mập ốm cao thấp không đồng nhất, vừa nghe thấy âm thanh mà quay đầu, tiếng “lộc cộc lộc cộc” trên bàn mạt chược vẫn không dừng lại. Trong đó, một nam nhân cao gầy ngồi ở phía Nam, sắc mặt hồng nhuận có thần, trông có vẻ là sống đến tuổi cũng không thành vấn đề, chính là cha Chu.
Chu Chính Kình: “……” Mắt y có phải đã xuất hiện ảo giác hay không?
Cha Chu bình tĩnh gõ gõ cái tẩu hút thuốc: “Trở về là tốt rồi, bảo kế mẫu của ngươi một tiếng, bữa tối làm thêm mấy món, mua bình rượu ngon, ta với ngươi làm một buổi tiệc nhỏ.”
Mặt Chu Chính Kình như sương lạnh, ném lá thư đến trước mặt phụ thân: “Thời gian không còn nhiều, đại nạn buông xuống?”
Cha Chu vuốt vuốt chòm râu quai nón mà thở dài: “Ngươi nói con gia khuyển Vượng Tài sao, ngươi đã tới chậm rồi, tối hôm qua nó đã trút hơi thở cuối cùng, ta đã đem chôn nó ở ngoại ô. Trước khi chết nó vẫn luôn kêu to, tất nhiên là muốn gặp mặt ngươi lần cuối, ta liền nghe theo tâm nguyện của nó, viết thư cho ngươi.”
Ông tiếp tục dán mắt vào bàn mạt chược, ba lão bạn chơi bài ở bên cạnh cười như không cười mà đánh giá Chu Chính Kình, thấy sắc mặt người trẻ tuổi này trướng đến đỏ bừng, giống như pháo hoa sắp sửa bùng nổ, nhưng bởi vì hiếu đạo nên muôn vàn hỏa khí cũng chỉ có thể nghẹn trở về.
Vị văn sĩ râu dê ở phía Bắc vô cùng thương tiếc, thấy y tướng mạo đường hoàng, khí thế như nhạc, càng thêm vài phần yêu thích: “Nào Kê Sơn, đại lang nhà ông cũng là hiếu tâm đáng khen, ông cũng không cần chọc ghẹo hắn như vậy.”
Cha Chu nhướng một bên mày: “Hắn hiếu tâm? Lưu lạc giang hồ năm sáu năm cũng không chịu về nhà phụng dưỡng phụ mẫu, thứ nhi tử như vậy thì dưỡng để làm gì?”
Một câu này đã làm cho lửa giận trong lòng Chu Chính Kình tiêu tán, tuy nói ở trong lòng y vợ xác thật là quan trọng nhất, cho dù phải lựa chọn lại một lần nữa cũng không hối hận, nhưng nếu y đã dấn thân vào hộ nhân gia này, chịu ơn dưỡng dục nuôi nấng, tất nhiên cũng nên báo đáp.
Y sửa sang lại quần áo, hướng về phía cha Chu và ba vị thúc bá mà chắp tay thi lễ theo thứ tự, sau đó yên lặng lui ra ngoài.
Cánh cửa một lần nữa khép lại, hán tử mặt chữ điền ngồi ở phía Đông liền nở nụ cười: “Ta chính là lần đầu tiên gặp mặt đại lang nhà ông, dáng vẻ bất phàm, nói năng có lễ. Ông còn nói hắn đã bái nhập môn hạ của Từ An đạo nhân, một thân võ công tất nhiên cũng là xuất thần nhập hóa. Kê Sơn, nhà ông có kỳ lân nhi tử, thật là may mắn.”
Nam nhân béo tròn ở phía Tây cũng gật đầu phụ họa: “Đúng vậy, ông còn làm xấu một trương mặt già, ghét bỏ chọn đông chọn tây. Nếu ông không cần nhi tử như vậy thì mau mau thả đến nhà ta. Nhà ta có ba khuê nữ, tùy tiện hắn lựa chọn.”
Cha Chu không nhịn được, cười mắng: “Nghĩ đẹp quá nhỉ, nhi tử của ta có bất hảo như thế nào thì cũng đều là ta nuôi nấng.”
Vị thư sinh phía Bắc chỉ vào ông, nói với những người khác: “Nghe ra rồi chứ, nào có vẻ gì là ghét bỏ, rõ ràng là đang khoe mẽ mà.”
Chu Chính Kình vẫn chưa đi xa, với nhĩ lực của y, vẫn có thể nghe rõ ràng rành mạch tiếng đàm tiếu trong nhà.
Tổ trạch Chu gia cũng không lớn, ở loại địa phương mà đại quan quý nhân người đi như nước, lầu các cung điện mọc nhiều như nấm ở kinh thành, quả thật cũng không tính là gì. Cha Chu chính là một quan ngũ phẩm thiên hộ của Cẩm Y Vệ, ra tới tỉnh ngoài vẫn còn có vài phần thể diện, nhưng ở kinh thành chẳng qua chỉ là chức quan nhỏ.
Nước Lương xưa nay trọng văn khinh võ từ lâu, quyền lực của Cẩm Y Vệ dần dần đã bị Đông Xưởng vừa mới thành lập cướp lấy, một thiên hộ Cẩm Y Vệ thấp hèn, nói ra cũng chỉ có thể dọa được dân chúng bình thường.
Chu Chính Kình đi tới chuồng ngựa, thấy ngựa quý đã vào trong chuồng ngựa, đang gặm hỗn hợp tinh thực mì cám và liêu đậu, được gã sai vặt trong nhà chăm sóc cẩn thận, mới trở về phòng của mình, rửa sạch một thân bụi đất, thay vào bộ y phục mặc ở nhà.
Y vừa đi chính là năm sáu năm, nhưng phòng ở lại không có gì thay đổi, có thể thấy được là có người thường xuyên quét tước. Đại khái là đoán trước biết y sẽ trở về, nên trong tủ quần áo có đặt vài bộ y phục và giày mới, còn có mười mấy mẩu bạc vụn.
Chu Chính Kình không thiếu tiền, nhưng vừa nhìn trong lòng liền có chút mềm mại.
Kế mẫu Phùng thị biết y vừa trở về nhà, liền đuổi khuê nữ Chu Linh Chi đến đây truyền lời.
“Đại…… huynh, nương nói ở nhà bếp có chưng màn thầu, nếu huynh đói bụng thì hãy đến dùng đi.” Bé gái bảy tuổi nhút nhát sợ sệt, mặc váy lụa mang giày vải nho nhỏ, đứng ở ngoài cửa không dám tiến vào, nhưng trong giây lát nhìn thấy vị đại huynh tuấn lãng uy mãnh của mình, ánh mắt liền lộ ra vài phần thân cận.
Chu Chính Kình cẩn thận đánh giá tiểu muội một phen, khi y rời khỏi nhà, kế mẫu chỉ vừa mới sinh hạ nàng không lâu, đứa nhỏ trong tã lót kia chớp mắt đã biến thành tiểu cô nương xinh đẹp.
Y đi đến bên cạnh nàng, tùy tay phất qua ngọn tóc để chỏm của nàng: “Nhị huynh của muội đâu?”
Chu Linh Chi sờ soạng tóc một phen, vui vẻ rạo rực mà đi theo y giống như một cái đuôi nhỏ: “Nhị huynh đi thư viện, phải chạng vạng mới trở về.”
Chu Chính Kình khẽ gật đầu, cũng không biết nhị đệ Chu Chính Vũ hiện giờ đã trưởng thành ra bộ dáng gì rồi, thiếu niên mười sáu tuổi, ở thời cổ đại này đã được tính là thành niên. Có nhà thành hôn sớm, mười sáu tuổi là đã có thể làm cha.
Nghĩ như vậy, một nam nhân tuổi chưa lập gia đình như y, đã là khá lớn tuổi.
Một đường phong trần mệt mỏi gấp rút trở về, y không rảnh lo ăn uống, trong bụng xác thật trỗng tuếch. Vừa vào nhà bếp, liền thấy kế mẫu Phùng thị đang xào rau, người ở phía sau nhóm lửa chính là một nha hoàn mặt sinh thô sử(?), ước chừng là vừa mua tới trong mấy năm nay.
Phùng thị chỉ lớn hơn Chu Chính Kình tuổi, phẩm hạnh đoan chính, năm đó gả vào làm vợ kế của Chu Kê Sơn cũng là bởi vì gia cảnh bần hàn. Nhưng Chu Kê Sơn đối đãi với nàng không tồi, nàng cũng thấy rất đủ, toàn tâm toàn ý mà nuôi lớn Chu Chính Vũ và Chu Linh Chi.
Nhưng đối với trưởng tử ngang tàng thân cao bảy thước này, nàng vẫn luôn có chút thấp thỏm.
Nàng cũng không dám làm giá ra dáng mẹ kế gì, chỉ khách khách khí khí nói: “Viêm nhi, màn thầu ở trong lồng hấp, ngươi tự mình đi lấy đi. Dưa muối ở trong cái bình ở trong góc, nếu ngươi có thể chờ một lát, rau xào cũng sắp được rồi.”
Chu Chính Kình lấy bốn cái màn thầu, mồm to cắn một miếng mà đi ra ngoài: “Ta không chú ý, ngài thong thả.”
Phùng thị cong người, rình coi thân ảnh đã đi xa, nha hoàn nhóm lửa liền mở miệng nói: “Phu nhân, ta xem đại công tử khá dễ hầu hạ, giống như lão gia, sẽ không bắt bẻ ngài đâu.”
Phùng thị mỉm cười, biểu tình thả lỏng lại: “Đúng vậy, tính tình giống lão gia.”
Mấy vị bạn chơi bài đều là quan lớn Cẩm Y Vệ, lưu lại dùng bữa tối, Chu Chính Kình thân là vãn bối, dưới sự chỉ dẫn của phụ thân mà thay phiên kính rượu, rót rượu một bàn. Cha Chu thoải mái cười to, cảm thấy nhi tử đã khiến cho mình được nở này nở mặt.
Một đêm ngủ say, vừa thức dậy y đã ra ngoài sân múa một hồi quyền cước, tiểu muội của y giống như đang xem diễn xiếc, mừng rỡ vỗ tay trầm trồ khen ngợi: “Đại huynh, thật là lợi hại, thêm một lần nữa đi.”
Phùng thị vốn lo lắng nữ nhi gây ồn ào, nhưng thấy Chu Chính Kình vẫn không hề tỏ vẻ bực bội ghét bỏ, còn có thể theo tâm ý của nàng mà thi triển thêm một hồi côn bổng, mới an tâm đi làm bữa sáng.
Chu Chính Vũ trở về vào tối muộn hôm qua, sau đó mới biết đại huynh đã về. Thời thơ ấu của cậu tràn ngập ký ức cùng Chu Chính Kình chơi đùa, chẳng sợ ngần ấy năm không gặp, cảm tình vẫn thân cận như cũ.
Đại huynh ở trong viện chuyên tâm luyện võ nghệ, cậu cũng chịu sự ủng hộ mà ở thư phòng vùi đầu đọc sách.
Cha Chu đứng dưới mái hiên nhìn ba người con, trên khóe miệng đều là ý cười.
Trong lúc dùng bữa sáng, cha Cha mới nói ra lý do vì sao phải ngàn dặm xa xôi triệu hồi nhi tử trở về. Tử thừa phụ vị là truyền thống của Cẩm Y Vệ, cha Chu đã qua tuổi, bắt đầu sốt ruột về hưu, mới giao cái bát sắt lại cho nhi tử.
“Vương đại nhân sợ là không còn làm được bao lâu nữa, vạn nhất đổi thành người mới, không hiểu rõ tính nết ra sao, xảy ra chuyện ngoài ý muốn gì, ngươi liền không kế thừa được vị trí của ta.”
Cho nên ông muốn thừa dịp Vương đại nhân còn ở mà nhanh chóng đóng trụ chuyện này.
Chu Chính Kình trực tiếp ngồi lên vị trí thiên hộ là không có khả năng, ở phía dưới còn có rất nhiều phó thiên hộ nhìn chằm chằm, chặn tiền đồ của người khác chính là kết thù, sẽ bị người ngáng chân sau lưng, nhưng nếu có thể vớt vát được vị trí bách hộ thì mọi thứ sẽ ổn định vững chắc hơn nhiều.
Bách hộ chính là chức quan lục phẩm, ăn gạo thóc hoàng gia, nhiều kẻ bình dân áo vải khát vọng mà không thể thành.
“Mấy vị thúc bá ngươi gặp mặt hôm qua ta đã chào hỏi qua, đến lúc ngươi tiến vào Cẩm Y Vệ, họ đều sẽ quan tâm ngươi.” Đây cũng là việc kính nhờ nhân tình thường thấy, chờ đến lúc Chu Chính Kình đứng vững gót chân, ngày sau gặp được nhi tử của những người này vào Cẩm Y Vệ, cũng có thể được quan tâm một vài.
Chu Chính Kình cũng không để ý bản thân có thể kế thừa cái bát sắt của phụ thân hay không, lưu lạc giang hồ tự do tự tại không có gì không tốt, nhưng nếu nói ra lời này, cha Chu sẽ không thể lý giải được.
Vô số người giang hồ, nói trắng ra chính là dân thất nghiệp lang thang, trộm gà trộm chó, khó có được ngày tháng thanh nhã.
Chức trách của Cẩm Y Vệ là thủ vệ, điều tra phá án và canh ngục, có được mạng lưới tình báo khổng lồ. Trái phải đều không tìm thấy vợ mình, trước tiên liền tiến vào Cẩm Y Vệ lăn lộn mấy năm vậy.
“Cha, ngài xem làm đi.”
Thấy trưởng tử gật đầu đồng ý, cha Chu lập tức bận rộn, khơi thông quan hệ trên dưới, tốn hơn trăm lượng bạc nhét Chu Chính Kình vào Cẩm Y Vệ. Còn ông tuy đã lui xuống vị trí thiên hộ, nhưng cũng đã lấy được một chức vụ canh ngục, an nhàn nửa dưỡng lão.
Một tháng sau, Chu Chính Kình đi nhậm chức, trở thành một tiểu bách hộ không chút thu hút trong số hàng vạn bách hộ ở khắp mười bốn sở Cẩm Y Vệ. Trên người mặc phi ngư phục, hông giắt Tú Xuân đao, dưới trướng có tới trăm giáo úy, dẫn đầu một đám hán tử khổng võ hữu lực, cũng coi như có chút uy phong.
Vừa nhậm chức, mời rượu nhóm huynh đệ dưới trướng là việc cần thiết. Hạ thấp giá trị tiếp đón một tiếng, đám người đông đảo liền vây lên, đều hứng thú ngẩng cao đầu mà đi theo Chu bách hộ ăn không.
Chu Chính Kình có tiền, nhưng cũng biết tài không thể lộ ra, ngày thường khi đi quán rượu cấp bậc cũng không giống nhau, gà vịt thịt cá vừa đủ dùng, sắc thái cũng không tinh tế bao nhiêu. Ba bốn mươi giáo úy ùa vào quán rượu, la hét đòi phòng, không sai biệt lắm liền đặt bao hết.
Người quá đông không có đủ chỗ, chưởng quầy liền bày bàn ghế ở ven đường bên ngoài quán, nhóm giáo úy cũng không ghét bỏ. Gia cảnh của đám người ở tầng chót Cẩm Y Vệ cũng không tính là quá tốt, bổng lộc chỉ đủ nuôi sống một nhà mà thôi.
Mọi người đang đoàn tụ uống rượu, ở bên ngoài lại bỗng nhiên vang lên tiếng người kinh hô.
“Ngựa điên!”
Chu Chính Kình nghe tiếng liền chạy như bay ra ngoài, chỉ thấy một con đại mã đỏ thẫm đang điên cuồng gào thét mà đến, người qua đường vội vàng tứ toán dạt ra một bên, một người bán hàng rong không kịp tránh, mắt thấy liền sắp bị đâm phải.
Y vừa định ra tay, liền thấy một vị bạch y nam tử từ cửa sổ lầu hai ở phố đối diện, tay áo trường bào phiêu dật như trích tiên, trường kiếm trong tay tựa như hiện lên lưu quang, một thoáng máu tươi vẩy ra, con ngựa điên đã bị chém chết tại chỗ.
“Đại sư huynh.” Chu Chính Kình kêu một tiếng.
Bạch y nam tử quay đầu nhìn y, trên gương mặt tuấn dật lộ ra một nụ cười: “Tứ sư đệ.”
Ở cửa sổ lầu hai lại thò ra bốn cái đầu, hai nam hai nữ, đều phất tay về phía Chu Chính Kình: “Tứ sư huynh/đệ!”
Chu Chính Kình nhíu mày, tình cảnh này nhìn có chút quen mắt.
Chủ nhân của con ngựa đỏ chính là một thiếu nữ dung mạo xinh đẹp mặc hồng y, từ dưới đất chật vật bò dậy, tức muốn hộc máu mà vung một roi về hướng bạch y nam tử: “Ác đồ, mau bồi thường ngựa quý cho ta!”
Bạch y nam tử lắc mình tránh né, trong mắt hiện lên hàn ý: “Ngươi phóng ngựa giữa đường, suýt nữa đã làm hại tánh mạng người vô tội, ngươi mới là ác đồ chân chính.”
Hai người một lời không hợp liền vung tay đánh nhau.
Chu Chính Kình từ trước đến nay đều không ưa xem náo nhiệt, xa xa phất tay với mọi người ở lầu hai, liền muốn quay vào trong quán rượu.
Ánh mắt của y lướt qua một góc bên đường, rồi đột nhiên cứng lại.
Chỉ thấy ở phía sau đám người vây xem, có một thiếu niên ăn vận như người sai vặt, đang nhóm chân xem náo nhiệt. Gương mặt xinh đẹp như hoa như ngọc kia, cho dù có hóa thành tro y cũng khắc cốt ghi tâm.
Trong nháy mắt đó, hết thảy ồn ào ầm ĩ xung quanh đều rời xa y, trong trời đất chỉ còn lại một người kia.
Giữa chúng sinh tìm người trăm vạn lần, ngoảnh mặt nhìn lại, người nọ lại đứng dưới mái hiên quầy hàng rong, gặm bánh nướng mè.