Đêm hôm ấy, Lý Hủ đưa y lên bờ, rồi đưa mái chèo không biết đi về hướng nào.
Ung Châu là cố hương của Lý Hủ, hắn biết rõ nơi này như lòng bàn tay. Chung phủ cách không xa chỗ vừa cập bờ, Chung Dật đi bộ đến đấy, từ khi đến Ung Châu y chưa từng ở lại Chung phủ.
Chung Dật đến linh đường đã lâu không ghé thăm, bái tế phu nhân với phụ mẫu tổ tiên xong cắm hương hỏa xuống lư hương, bỗng nghe tiếng đẩy cửa, quay đầu lại thấy Hỉ Nguyệt đứng bên ngoài.
“Thế An ngủ rồi à?”
“Vâng.”
“Vất vả rồi.”
“Không đâu, Thế An hiểu chuyện hơn nhiều… Ngày hôm nay không khóc cũng không quấy.”
“Thật sao?” Lúc này Chung Dật mới lộ ra ý cười nhỏ bé.
Hỉ Nguyệt nhìn vào trong linh đường, thấy không còn ai khác mới hỏi: “Lão gia, Hoàng thượng không theo tới?”
Chung Dật phủi tro bụi trên bàn linh đường, nói: “Hoàng thượng muốn đi những nơi khác, sau này đừng lo lắng quá mức nữa. Hỉ Nguyệt, ngươi xem, mới mà mấy ngày này ưu sầu ra nếp nhăn luôn rồi kìa.”
Hỉ Nguyệt tưởng thật, ngượng ngùng sờ sờ khóe mắt, nói: “Lão gia sao lại trêu chọc nô tỳ.”
Chung Dật mỉm cười: “Nào có trêu chọc gì đâu, Hỉ Nguyệt rồi, cũng nên tìm gia đình nào tốt cho Hỉ Nguyệt thôi. Chậm trễ, chỉ sợ không ai thèm lấy.”
Hỉ Nguyệt nghe vậy chợt mất đi ý cười, mặt nghiêm túc hẳn lên, ra sức lắc đầu: “Lão gia, Hỉ Nguyệt biết ngài đang suy nghĩ điều gì. Hỉ Nguyệt đồng cam cộng khổ với lão gia, dù cho phía trước là đao sơn cũng không muốn chạy trốn một mình bỏ lại lão gia và Thế An.”
Tám tuổi Hỉ Nguyệt vào Chung phủ, là Chung Dật nhìn nàng trưởng thành, y nào không biết bản tính của nàng, tuy biết không khuyên nổi nhưng vẫn bất đắc dĩ thở dài: “Ngươi đấy, rõ ràng chỉ là một nữ lưu yếu đuối, mà học mấy người nam tử nói chuyện nghĩa khí làm gì.” Nói xong bước lên thổi tắt ngọn nến, chuẩn bị rời đi.
Ngờ đâu trong khoảnh khắc ánh nến tắt, căn phòng tối lại, có một bóng người rọi vào từ ngoài cửa sổ, lóe lên rồi biến mất.
“Ai?!” Chung Dật sợ đến giật thót tim, dẫn theo Hỉ Nguyệt chạy ra ngoài, nhưng không thấy dù chỉ nửa cái bóng, tìm kiếm xung quanh vẫn không thấy bóng dáng ai cả.
Loay hoay vài vòng, lúc chuẩn bị từ bỏ lục soát thì bỗng có một người nhảy xuống từ nóc nhà, trang phục màu đen, khuỵu gối xuống: “Thái phó là tìm thuộc hạ.”
“…”
“…”
Người nam tử chừng tuổi, khuôn mặt nghiêm nghị, ngẩng đầu thấy sắc mặt của Chung Dật lẫn Hỉ Nguyệt đều khác thường, thì nói tiếp: “Thuộc hạ nhất thời sơ sẩy, quấy nhiễu đến Thái phó. Thuộc hạ có thể bảo đảm sau này sẽ không phát sinh chuyện như vậy nữa.”
Vẫn là Hỉ Nguyệt lấy lại tinh thần trước, nàng chỉ vào người mặc áo đen: “Ngươi. Ngươi là người phương nào?”
“Nghĩ ra rồi,” Trong đầu Chung Dật bỗng nhiên thông suốt, y rốt cục thở phào, “Hẳn là ảnh vệ của hoàng đế.”
“Thái phó minh giám. Thuộc hạ là Tư Nam Thiên, phụng mệnh của Hoàng thượng, từ nay trở đi tùy tùng Chung thái phó, trông nom Thái phó.”
Bây giờ Dần quốc đã vong, mà người ảnh vệ này còn một câu Thái phó hai câu Thái phó, xem ra là cũng học theo hoàng đế. Điều này đủ để chứng minh, lúc trước gặp Lý Hủ, những ảnh vệ này quả thực đều ở cách đấy không xa.
Khó khăn lắm hoàng đế mới rời khỏi Ung Châu, Chung Dật không muốn bên người có thêm một con mắt ngầm ở bất cứ đâu bất cứ lúc nào núp trong bóng tối, nên y nói: “Ta không cần ảnh vệ, ngươi về bẩm báo với Hoàng thượng đi.”
“Chỉ thị của Hoàng thượng không thể làm trái. Xin Thái phó yên tâm, sẽ không quấy rầy đến Thái phó nữa.”
Người ảnh vệ nói xong lập tức không nhiều lời nhảy lên nóc nhà, chờ Chung Dật đuổi tầm mắt theo đã không thấy người đâu. Vừa rồi để lộ người cũng là vì hắn đã ở cùng với Hoàng đế suốt một thời gian dài, Lý Hủ không hề thấy gì đáng ngạc nhiên đối với sự tồn tại của ảnh vệ, đôi lúc gã hiện thân, hắn không hề bất ngờ.
Chung Dật với Hỉ Nguyệt đứng đối diện nhau, vẻ mặt ban nãy còn sót lại chút ung dung nhẹ nhõm đã bị quét sạch từ lâu.
Ngày hôm sau, lần lữa mãi cũng không thấy truyền ra tin tức hoàng đế rời khỏi Ung Châu, Hỉ Nguyệt ra chợ dò hỏi thử mới biết, ngự giá của Hoàng thượng từ nửa con trăng trước đã xuôi nam Ngô quận.
Hỉ Nguyệt quay về chuyển lời với lão gia, Chung Dật nghe xong, suy nghĩ một hồi, không hiểu lắm sự kỳ lạ trong vấn đề, nhưng nhân tiện nói: “Đừng suy nghĩ nhiều, vốn không phải chuyện ta với ngươi có thể can thiệp.”
Hai người thu dọn lại đồ tư trang, dẫn theo Thế An một lần nữa trở lại ngôi nhà trúc dưới chân núi Lê Sơn ngoài thành.
Không giống với trước đây, cả đường đi Thế An không quá ríu rít, nhưng nó vẫn nắm tay Chung Dật, bộ dáng vô cùng ỷ lại.
Vì biết đến sự tồn tại của ảnh vệ, nên Hỉ Nguyệt và Chung Dật đều có phần gượng gạo, nói chuyện sợ đầu sợ đuôi, chỉ lo nói lộ gì đó. Chịu đựng tầm mấy ngày, Chung Dật đứng trước phòng gọi gã.
“Tư Nam Thiên, thế này đi… Ngươi cũng biết Hỉ Nguyệt chỉ là một cô nương, mà ta đi lại bất tiện. Ngày thường ngươi cứ quán xuyến cùng với Hỉ Nguyệt, Thế An đứng cạnh. Giúp đốn củi, gánh nước nấu, chăm sóc hoa màu, đừng ẩn nấp nữa.”
“…Vâng.”
Dường như Tư Nam Thiên không hề hoài nghi trước mệnh lệnh này, gã quỳ một gối xuống cung kính đáp, dứt lời nhảy phóc đi, lại biến mất trên nóc nhà.
“…”
Chung Dật ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà, tưởng rằng lời mình bị xem như gió thoảng bên tai, chỉ có thể bất đắc dĩ thở dài.
Có điều ngày ấy lúc đốn củi, Tư Nam Thiên xuất hiện, có thể làm ảnh vệ của hoàng đế chắc hẳn võ nghệ cao cường, đương nhiên khác hoàn toàn so với Chung Dật nửa què, đốn hai ba lần là xong củi lửa ở hậu viện. Gã nghiêm túc quét tước gian nhà, tẩy rửa bút mực, bốn vại nước ở tiền viện hậu viện lúc nào cũng đầy nước, đồng thời còn chăm sóc hoa màu ngay hàng thẳng lối.
Chung Dật dẫn Thế An ngồi ven hồ thả câu, khá ngạc nhiên nhìn Tư Nam Thiên ở xa xa đang dốc sức tưới dưa cải, y không khỏi lắc đầu, cảm khái nói: Không hổ là ảnh vệ của hoàng đế, quả thực toàn năng.
Thế An nhìn tiên sinh của mình, vốn dĩ thích câu cá nhất giờ lại chán nản buông cần câu trong tay.
Mấy ngày nay Thế An vẫn luôn là lạ, Chung Dật bị vướng Tư Nam Thiên nên không dám hỏi, bây giờ có cơ hội, hiển nhiên hỏi ngay: “Thế An, gần đây sao vậy? Từ hôm đi Hội đèn lồng về không còn vui vẻ nữa.”
Thế An trông phiền muộn, xoắn tay áo mình, hỏi: “Tiên sinh, có phải Thế An còn ngốc hơn người bình thường không.”
Chung Dật không biết từ đâu mà đứa nhỏ lại nảy ra cái suy nghĩ như thế, y lập tức phủ nhận: “Không thể nào… Thế An chỉ là quên một số chuyện. Những thứ đã học trước đây, cần thì học lại lần nữa thôi.”
“Vậy tiên sinh sao không chịu dạy Thế An? Mấy đưa bé khác… đều thuộc quá trời thơ!”
“…”
Về vấn đề học thuật, Chung Dật vẫn chỉ dạy Thế An luyện chữ thiếp, thật sự muốn trì hoãn không yêu cầu phải vội vàng. Vả lại, y thấy Thế An chỉ là đứa nhỏ, lại không có trọng trách gì lớn trên vai, nên không cần quá vội vàng làm chi; thêm nữa, cũng là vì Chung Dật lo nó bộc lộ tài năng sẽ gây chú ý với người khác. Cũng may Thế An vẫn rất ham chơi, nên Chung Dật vẫn chiều nó, bây giờ nghe trong lời nói của Thế An có hơi hướng tức giận, y khá bất ngờ: “Thế An muốn học mấy cái đó sao?”
“Muốn học. Thế An muốn trở nên thông minh như tiên sinh. Không tiếp tục khiến tiên sinh bận tâm nữa.”
Chung Dật cười, sờ đầu Thế An: “Được, vậy chúng ta bắt đầu học. Đến khi nào Thế An thấy cực khổ quá thì không được bảo ngừng đấy nhé?”
“Thế An không cực khổ!” Thế An lẽ thẳng hào hùng, bỗng ôm chầm tiên sinh của mình, giọng nũng nịu, “Tien sinh mới cực khổ rồi!”
Lúc này trong lòng đứa bé chỉ có một ý nghĩ đơn thuần mà chất phác, là phải bảo vệ tiên sinh, không thể lại làm tiên sinh với Hỉ Nguyệt lộ ra vẻ mặt lo lắng như kia nữa.
Giờ đây kỵ binh Đại Tề ngàn vạn, khí thế hùng hổ, mà Lý Hủ lại cử lực lượng hùng hậu đến Mân Việt chỉ để đoạt Di Châu, Chung Dật biết có đoạt vào tay hay không chỉ là vấn đề thời gian.
Chỉ là từ sau khi Lý Hủ xuôi nam, tin tức đầu tiên truyền về Ung thành lại không phải đã chiếm lĩnh Di Châu.
Chỉ nghe phong phanh Tấn vương vốn muốn khỏi xướng binh biến ở bến đò, vây chặn ngự giá, mà đâu ngờ Lý Hủ lại dẫn theo đại quân tiếp viện xuất hiện sau, Tấn vương đại bại tại Ngô quận.
Cuối cùng Chung Dật cũng hiểu, Lý Hủ chỉ thị ngự giá đi trước, còn mình lại án binh bất động ở ngoại thành Ung thành là có dụng ý gì.
Xuất chinh ra phía đông Di Châu, thăm dò hải vực là một chiến sự lâu dài, Lý Hủ lại phải trấn giữ một thời gian dài ở trấn Mân Việt, nếu trong lúc ấy ở lãnh thổ có thế lực khởi xướng phản loạn thì hậu quả khó mà lường nổi.
Là một người nam tử muốn trừ được giặc ngoài, tất phải yên ổn từ bên trong trước.
Chung Dật chợt nghĩ, có lẽ ngày đó Lý Hủ nói không hề sai. Nếu năm đó Lý Hủ không trở lại Tề quốc, không gặp được người ân sư Đàm Đài Công chân chính giảng dạy. Thì lấy kiến thức nông cạn của Chung Dật, tuyệt đối không thể nào giáo dục Lý Hủ thành một nhân vật mưu tính sâu xa, quả cảm quả đoán, thậm chí có phần chuyên quyền độc đoán thế này.
Nghĩ lại, Tề quốc có thể đại bại Dần quốc, chỉ với tháng đã san bằng Đô thành, hiển nhiên có liên quan đến vận mệnh số trời, nhưng đúng thật mình kém xa ngút ngàn so với Đàm Đài Công.
Hoàng đế xuôi nam lập nên hành cung trấn thủ trường kỳ, chỉ thị cho Thừa tướng Ngự sử đại phu hỗ trợ phê duyệt tấu chương, nếu có chuyện quan trọng thì truyền tất cả đến Mân Việt, tổ chức rất nhiều tàu thủy ra biển đông tìm kiếm các hòn đảo lục địa còn lại.
Độ tuổi hiện giờ của Lý Hủ là độ tuổi phong nhã hào hoa, nhiệt huyết ngông cuồng, một lòng một dạ dốc sức vào hải phận, mà không hề hay biết thời gian dường như đang trôi qua rất nhanh.
Bừng tỉnh rồi tưởng chừng như chỉ là giấc mộng, nhưng rốt cục đã trôi qua năm.
Hết chương .