Thân hình Triệu Mẫn lao vào thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ rồi, cổ tay rung một cái trường kiếm nhắm ngay ngực y đâm tới. Chiêu này trước lấy lấy thân mình xông vào binh khí của địch nhân, dù đao hay kiếm, dù thương hay phủ khi đụng phải thân mình rồi cũng phải chựng lại một chút, mình liền múa kiếm đâm tới, dù địch võ công cao cường cũng khó mà thoát được. Diệu Phong Sứ thấy chiêu này lợi hại quá, sợ đến đứng chết trân. Cũng may trong tay y chỉ là một khối sắt dài chừng một thước không có mũi nhọn nên Triệu Mẫn lao vào rồi cũng không bị thương, trường kiếm vừa đâm ra thì sau lưng đã bị Huy Nguyệt Sứ ôm chặt.
Ba sứ giả Ba Tư liên thủ nghinh địch, phối hợp rất là chặt chẽ không có thể chê vào đâu được. Triệu Mẫn vừa xông ra đã dùng hai chiêu thí mạng để đánh, khiến cho trận pháp của tam đại cao thủ hỗn loạn nên đến bây giờ Huy Nguyệt Sứ mới từ đằng sau ôm được nàng. Thế ôm đó tưởng như không có gì kỳ lạ thực ra rất chính xác, không sai một li, ứng biến thật nhanh chẳng khác gì sao băng. Kiếm đó của Triệu Mẫn tuy lợi hại thật nhưng đâm chưa tới Diệu Phong Sứ thì đằng sau đã bị níu lại. Nàng biết là không xong, thuận theo thế Huy Nguyệt Sứ kéo mình về sau liền quay kiếm đâm ngược vào bụng của mình.
Chiêu kiếm đó rất là mạnh mẽ chính là một chiêu của phái Võ Đương tên là Thiên Địa Đồng Thọ, không phải do Trương Tam Phong sáng tạo mà do Ân Lê Đình khổ tâm nghĩ ra, cốt là để được cùng Dương Tiêu chết chung một lượt. Từ khi Kỷ Hiểu Phù chết đi, trong lòng chỉ còn một ý niệm duy nhất là làm sao giết được Dương Tiêu nhưng tự biết mình không thể nào địch lại, sư phụ tuy là thiên hạ đệ nhất cao thủ nhưng tư chất ngộ tính của ông ta không thể nào học được ba bốn thành của thầy, chỉ mong sao giết được Dương Tiêu rồi mình cũng chẳng muốn sống nữa nên ở trên núi Võ Đương tự nghĩ ra mấy thế đánh thí mạng.
Khi Ân Lê Đình lén tập luyện những thế kiếm đó bị sư phụ bắt gặp, Trương Tam Phong chỉ đành thở dài, biết khó mà có thể khuyên giải nên đặt cho chiêu kiếm này cái tên Thiên Địa Đồng Thọ, ý nói người dẫu chết đi tinh thần không hủ nát thì cũng để lại mãi mãi đến muôn đời, là một chiêu kiếm tự giết mình để giữ được điều nhân, bỏ mạng sống để thu được điều nghĩa, thật là vừa bi thương vừa hùng tráng. Đại đệ tử của Ân Lê Đình tại chùa Vạn An dùng chiêu này được Phạm Dao xông ra cứu kịp. Triệu Mẫn bây giờ lại đem ra sử dụng, chính là chiêu dùng để giết chết kẻ đang ở đằng sau ôm chặt lấy mình, kiếm sắc sẽ đâm qua bụng mình vào bụng kẻ địch, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được?
Ví như Diệu Phong Sứ chưa sợ đến chết đứng hay Lưu Vân Sứ đứng gần ngay bên, với lối đánh ba người liền thành một khối như thế may ra còn có thể cứu được hai người đàn bà. Chỉ thấy thanh Ỷ Thiên đang sắp sửa đâm lút vào bụng của cả Triệu Mẫn lẫn Huy Nguyệt Sứ thì ngay trong đường tơ kẽ tóc đó, Trương Vô Kỵ vận nội lực xung huyệt đã thành công, vươn tay ra cướp luôn thanh kiếm.
Triệu Mẫn cố vùng ra một cái thoát khỏi vòng tay Huy Nguyệt Sứ đang ôm, phản ứng cực kỳ thần tốc, cầm luôn thánh hỏa lệnh trong tay Trương Vô Kỵ ném ra xa, nghe keng một tiếng rơi vào ngay trận địa cắm đầy kim của Kim Hoa bà bà.
Thánh hỏa lệnh đó ba người Ba Tư coi chẳng khác gì tính mệnh, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ không còn dám tiếp tục đối địch với Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, cũng chẳng thèm để ý đến Diệu Phong Sứ sống chết ra sao, vội vàng nhảy đi tìm. Hai người chạy được hơn một trượng đã đạp vào trong bãi kim nhọn. Huy Nguyệt Sứ thét lên một tiếng, cô nàng đã đạp phải một mũi chông. Ánh trăng mờ, gió thổi mạnh, cỏ cao đến gối thật khó mà nhìn cho ra thánh hỏa lệnh và kim cắm bên dưới, hai người vừa nhổ kim ra vừa mò tay tìm lệnh bài. Diệu Phong Sứ như từ một giấc mơ tỉnh dậy, kêu lên kinh hoàng cũng vội chạy đến.
Triệu Mẫn vì muốn cứu tính mạng Trương Vô Kỵ, ba chiêu kiếm tung ra nhanh như cắt không còn kịp suy nghĩ gì nữa, lúc này bình tâm lại một chút, càng nghĩ càng thấy rùng mình, kêu "Ôi" lên một tiếng sà luôn vào lòng Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ giơ tay ôm lấy nàng trong lòng hết sức cảm động, biết rằng ba sứ giả Ba Tư một khi kiếm được thánh hỏa lệnh rồi thể nào cũng quay lại ngay nên vội nói:
- Thôi mình chạy đi.
Chàng quay lại trả thanh đao cho Tạ Tốn, ôm Ân Ly đang bị thương nặng lên nói với Tạ Tốn:
- Tạ đại hiệp, trước mắt mình nên tránh đi một chút.
Tạ Tốn nói:
- Đúng thế.
Ông cúi xuống giải khai huyệt đạo cho Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng Kim Hoa bà bà qua cơn chết hụt này, ắt phải xóa hết hiềm thù cùng Tạ Tốn.
Bốn người chạy được mấy trượng, Trương Vô Kỵ nghĩ tuy Ân Ly là biểu muội của mình nhưng dẫu sao nam nữ thụ thụ bất thân, nên giao lại Ân Ly cho Kim Hoa bà bà bồng. Triệu Mẫn đi trước dẫn đường, kế đến là Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ đi cuối phòng địch nhân truy kích. Chàng quay đầu lại thấy ba sứ giả Ba Tư vẫn đang lom khom trong đám cỏ cao tìm kiếm. Chàng phen này bị thua to, nghĩ lại những chuyện hung hiểm vừa rồi, cũng thấy hổ thẹn, lại không biết Ân Ly bị thương nặng như thế có thể cứu sống được không.
Ngay khi đang chạy, bỗng nghe Tạ Tốn gầm lên một tiếng dữ dội, giơ quyền đánh thẳng vào lưng Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà xoay tay lại đỡ, đồng thời ném Ân Ly xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới. Tạ Tốn quát lên:
- Hàn phu nhân, sao bà lại ra tay định giết Ân cô nương?
Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:
- Ông giết hay không giết tôi là chuyện của ông. Tôi giết hay không giết nó là chuyện của tôi, ông có quyền gì can thiệp vào?
Trương Vô Kỵ nói:
- Có tôi ở đây thì không để cho ai tùy tiện giết người đâu.
Kim Hoa bà bà nói:
- Tôn giá hôm nay rỗi hơi xen vào chuyện người khác chưa đủ hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chuyện này chưa chắc đã là chuyện rỗi hơi đâu. Ba sứ giả Ba Tư chỉ chốc lát là quay lại ngay, sao bà còn không mau chạy đi?
Kim Hoa bà bà hứ một tiếng, chạy về hướng tây, đột nhiên vung tay ném ngược lại ba đóa kim hoa nhắm sau cổ Ân Ly phóng tới. Trương Vô Kỵ giơ tay búng ra, nghe keng keng keng ba tiếng, ba bông hoa bay trở lại Kim Hoa bà bà, tiếng đi rít trên không, xem ra còn mạnh hơn cả dùng cung nõ mà bắn. Lần trước khi chàng ôm Ân Ly đã xóa bỏ hết những râu ria trên mặt, Kim Hoa bà bà đã nhìn rõ diện mạo của chàng, nay thấy thanh niên này nội công thâm hậu đến thế, không dám đưa tay ra bắt, vội vàng nằm mọp xuống đất để tránh. Ba đóa hoa bay xẹt ngang lưng bà ta, xé rách lưng áo ba đường dài, bà ta sợ đến tim đập thình thịch không dám quay đầu lại nữa.
Trương Vô Kỵ bồng Ân Ly lên, bỗng nghe Triệu Mẫn rên một tiếng, cúi gập người xuống, hai tay ôm bụng. Chàng vội vàng chạy đến hỏi:
- Em sao thế?
Chỉ thấy bàn tay nàng đầy những máu, rỉ cả ra những kẽ tay. Thì ra nàng sử chiêu Thiên Địa Đồng Thọ, đã rạch phải bụng rồi. Trương Vô Kỵ kinh hãi thất sắc, vội hỏi:
- Bị thương có nặng không?
Bỗng nghe Diệu Phong Sứ đang ở trong bãi kim reo lên:
- Tìm thấy rồi, tìm thấy rồi.
Triệu Mẫn nói:
- Mặc kệ em, mau chạy đi, chạy đi.
Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng lên, theo hướng chân núi chạy xuống. Triệu Mẫn nói:
- Xuống dưới thuyền, nhổ neo đào tẩu.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế.
Chàng một bên ôm Ân Ly, một bên ôm Triệu Mẫn chạy xuống. Tạ Tốn chạy theo sau trong lòng lạ lùng: "Thanh niên này quả thực ghê gớm, hai tay ôm hai người mà còn chạy nhanh đến thế".
Trương Vô Kỵ lòng rối như tơ vò, nếu một trong hai thiếu nữ trên tay bị thương không cứu được thì đều là mối hận cả đời. Cũng may chàng vẫn thấy hai người còn ấm, không có dấu hiệu gì đang lạnh dần.
Ba sứ giả Ba Tư tìm được thánh hỏa lệnh rồi, lại đuổi theo nhưng ba người đó khinh công không bằng được Trương Vô Kỵ, so với Tạ Tốn cũng kém xa. Trương Vô Kỵ chạy gần đến thuyền, lớn tiếng nói:
- Thiệu Mẫn quận chúa có lệnh: Các thủy thủ giương buồm nhổ neo, lập tức khai thuyền.
Khi chàng và Tạ Tốn lên được thuyền thì buồm đã kéo lên. Tuy nhiên người lái thuyền phải đợi chính miệng Triệu Mẫn ra lệnh nên chạy lên hỏi ý kiến. Triệu Mẫn mất máu quá nhiều, chỉ thều thào nói:
- Nghe... nghe lệnh Trương công tử... là được...
Người tiêu công liền lái thuyền ra, khi ba sứ giả Ba Tư chạy đến bên bờ thì thuyền đã cách bờ đến mấy chục trượng.
Trương Vô Kỵ đem Ân Ly và Triệu Mẫn đặt nằm trong khoang thuyền, có Tiểu Siêu ở bên giúp đỡ, cởi áo hai người để lộ vết thương ra. Trương Vô Kỵ xem xét thương thế, thấy trên bụng Triệu Mẫn bị một vết thương sâu đến nửa tấc, máu chảy tuy nhiều nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng. Ân Ly thì bị ba đóa kim hoa toàn chỗ yếu hại, Kim Hoa bà bà ra tay rất nặng cứu được hay không cũng thật khó mà biết. Chàng liền rắc thuốc buộc vết thương cho cả hai người. Ân Ly vốn dĩ đã hôn mê bất tỉnh từ lâu không còn biết gì nữa, còn Triệu Mẫn nước mắt rưng rưng, Trương Vô Kỵ hỏi trong người ra sao, nàng chỉ bặm môi không trả lời.
Tạ Tốn nói:
- Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ xa rời nhân thế nay vô tình trở về Trung Thổ, lại quen biết được một người bạn nghĩa khí thâm trọng như các hạ, quả thật vui mừng ngoài dự liệu.
Trương Vô Kỵ đỡ ông ngồi trên ghế trong khoang thuyền, quì phục xuống lạy, khóc nói:
- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ bất hiếu, không đến đón cha sớm hơn được khiến cho cha phải chịu biết bao nhiêu khổ sở.
Tạ Tốn giật mình hoảng hốt, lắp bắp:
- Cậu... cậu nói gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hài nhi chính là Trương Vô Kỵ đây.
Tạ Tốn làm sao tin cho nổi, vẫn ấp úng:
- Cậu... cậu nói sao?
Trương Vô Kỵ liền đọc:
- Quyền học chi đạo tại ngưng thần, ý tại lực tiên năng chế thắng[]...
Chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng, toàn là võ học yếu quyết Tạ Tốn đã từng dạy chàng trên Băng Hỏa đảo. Đọc được chừng hai chục câu, Tạ Tốn vừa mừng vừa sợ nắm chặt hai tay chàng, run run nói:
- Con... con có thực là thằng bé Vô Kỵ của ta không?
Trương Vô Kỵ đứng lên, ôm chặt lấy ông, đem mọi chuyện quan trọng kể lại, nhưng việc lên làm giáo chủ Minh giáo thì chàng tạm thời không đề cập đến để nghĩa phụ khỏi phải theo tôn ti mà hành lễ với mình. Tạ Tốn tưởng như đang trong một giấc mơ, lúc này không còn không tin nữa chỉ nhắc đi nhắc lại:
- Thật ông trời có mắt, thật ông trời có mắt.
Bỗng nghe từ phía đuôi thuyền các thủy thủ kêu lên:
- Thuyền địch đang đuổi theo.
Trương Vô Kỵ chạy lên sau thuyền nhìn ra, thấy thuyền địch nhiều buồm thân nhẹ càng lúc càng gần, trong lòng hoang mang không biết phải làm sao cho phải, nghĩ thầm chỉ còn cách để cho ba sứ giả Ba Tư lên thuyền rồi dụ họ vào khoang đấu một trận nữa, đưa mắt tìm chỗ chật hẹp cốt ba người kia không thể liên thủ. Chàng bèn dời Triệu Mẫn và Ân Ly sang một bên, lên khoang trên xách hai cái neo sắt lớn đem xuống để làm vật cản để cho các sứ giả Ba Tư phải từng người một đấu với mình.
Chàng sắp đặt xong, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, thuyền chao qua một bên, nước biển bốc vọt lên cao, tạt cả vào sàn thuyền. Thủy thủ đằng sau kêu lên:
- Thuyền địch khai pháo, thuyền địch khai pháo.
Phát đạn đó bắn vào bên hông cũng may chưa trúng. Triệu Mẫn quay về phía Trương Vô Kỵ vẫy tay, nói nhỏ:
- Thuyền mình cũng có súng đó.
Câu đó khiến Trương Vô Kỵ nhớ ra, lập tức chạy lên trên sàn chỉ huy các thủy thủ gỡ các vật che đậy các cỗ súng, nhồi thuốc lắp đạn, châm mồi bắn trả. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, một phát đạn đã bắn ra. Thế nhưng những thủy thủ đó đều là võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn cải trang, võ công tuy cao, hải chiến lại không biết gì, thành thử viên đạn bắn ra rơi ngay giữa hai chiếc thuyền, nước văng lên cao cả mấy trượng nhưng thuyền địch không lay động chút nào. Thế như thuyền địch thấy đối phương cũng có đại pháo không còn dám tiến tới gần nữa. Một lát sau, thuyền địch lại bắn thêm một quả đạn nữa, trúng ngay đầu thuyền, thuyền liền bốc hỏa.
Trương Vô Kỵ liền chỉ huy các thủy thủ dội nước dập lửa, bỗng thấy tầng trên một ngọn lửa bốc ra. Chàng hai tay bưng một thùng nước, đạp tung cửa khoang hắt luôn vào, ngọn lửa liền tắt ngúm. Trong đám khói mù mịt chàng nhìn thấy một thiếu nữ ướt mèm nằm sóng soài trên giường, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ vứt thùng xuống, chạy vào trong phòng hỏi gấp:
- Chu cô nương, có sao không?
Chu Chỉ Nhược đầu tóc đầy những nước, hình dáng thật là thảm hại, trong cơn nguy cấp bỗng thấy chàng xuất hiện, kinh ngạc không đâu kể xiết. Nàng vừa cử động hai tay, lập tức có tiếng loảng xoảng. Thì ra chân tay nàng đều bị Kim Hoa bà bà dùng xích sắt khóa chặt, Trương Vô Kỵ vội chạy xuống tầng dưới lấy thanh Ỷ Thiên kiếm lên chặt đứt xích. Chu Chỉ Nhược nói:
- Trương giáo chủ, sao... sao giáo chủ lại đến được nơi đây?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, thân thuyền lại dao động đữ đội khiến nàng loạng choạng sà luôn vào lòng chàng. Trương Vô Kỵ vội giơ tay ra đỡ, ánh lửa từ ngoài cửa sổ chiếu vào, thấy khuôn mặt tái nhợt của nàng ửng hồng, lại thêm mấy giọt nước trông thật xinh đẹp thanh nhã, tưởng như một nàng tiên vừa dưới nước hiện lên. Trương Vô Kỵ định thần, nói:
- Thôi mình đi xuống khoang dưới.
Hai người ra khỏi cửa khoang thấy thuyền chòng chành dữ dội, thì ra khi địch bắn vào đã làm gãy nát bánh lái, ngay cả người tài công cũng bị văng xuống biển chết rồi. Người thuyền trưởng hoảng hốt, vội đích thân đến nhồi thuốc bắn trả, chỉ mong trúng thuyền địch cho chìm nên đổ thật đầy, dùng thiết côn nén thật chặt. Y chỉnh khẩu súng ngóc lên cao, đốt dây mồi. Chỉ thấy một ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ vang trời, cỗ đại pháo vỡ tan, mảnh sắt văng tung tóe, cả viên thuyền trưởng lẫn các thủy thủ đứng chung quanh đều tan xác, máu thịt bay tứ phía. Chỉ vì viên thuyền trưởng muốn cho sức nổ thật mạnh nên nhồi quá nhiều thuốc súng thành thử vỡ luôn khẩu thần công.
Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chạy lên trên sàn thuyền thấy chung quanh chỗ nào cũng có lửa cháy, chỉ chốc lát là chìm, thấy ở bên hông có buộc một chiếc thuyền con vội kêu lên:
- Chu cô nương, mau nhảy xuống thuyền nhỏ đi...
Lúc này Tiểu Siêu đã ôm được Ân Ly, Tạ Tốn bồng Triệu Mẫn từ khoang dưới chạy lên. Tiếng nổ vừa rồi khiến cho đáy thuyển thủng một lỗ lớn, nước biển liền ùa vào như thác. Trương Vô Kỵ đợi Tạ Tốn, Tiểu Siêu đã xuống thuyền nhỏ rồi, vung kiếm chặt đứt dây buộc, nghe bạch một tiếng chiếc thuyền rơi luôn xuống biển. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nhảy xuống, đúng ngay giữa thuyền, cầm luôn hai mái giầm ra sức bơi ra.
Khi đó chiếc chiến thuyền lửa đã bốc cao chiếu đỏ cả một vùng biển. Trương Vô Kỵ toàn lực chèo thuyền, nghĩ thầm chỉ cần bơi ra được vùng lửa không soi tới, ba sứ giả Ba Tư không nhìn thấy thuyền tưởng rằng mọi người đã chết hết trong biển cả rồi sẽ không đuổi theo nữa. Tạ Tốn cũng cầm một mảnh ván chèo phụ.
Chiếc thuyền nhỏ lướt đi trên mặt biển, chỉ trong chốc lát đã ra khỏi vùng lửa chiếu tới. Chỉ thấy chiếc đại chiến thuyền kia từng tiếng nổ vang, thuốc nổ trên thuyền không ngừng bùng lên, chiếc thuyền Ba Tư không dám đến gần chỉ neo lại xa xa quan sát. Một số võ sĩ của Triệu Mẫn thông thạo thủy tính, cố bơi lại gần thuyền địch cầu cứu đều bị người Ba Tư dùng cung tên bắn chết.
Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn không dám ngừng tay, nếu như trên đất liền gặp ba sứ giả Ba Tư đuổi tới còn liều tử chiến một phen, bây giờ nơi biển cả mênh mông này, địch nhân chỉ cần bắn một phát đại bác, dẫu chỉ cách chiếc thuyền vài trượng thôi, sóng ụp vào thể nào cũng lật. Cũng may hai người nội lực thâm hậu, chèo đến nửa đêm cũng chưa tỏ vẻ gì mỏi mệt.
Đến khi trời sáng lại thấy mây đen kéo đầy trời, bốn bề sương mù xám xịt. Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:
- - Sương mù này thật tốt, chỉ thêm nửa ngày nữa, kẻ địch không thể nào kiếm thấy chúng ta được.
Nào ngờ đến quá trưa hôm đó, gió bỗng thổi mạnh, rồi mưa như trút. Chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi giạt về hướng nam. Lúc này trời đang vào mùa đông, quần áo ai nấy ướt đẫm, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hậu không đến nỗi nào, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu mỗi lần gió bấc thổi đến, lại run lập cập hàm răng đánh vào nhau lách cách. Thế nhưng trên thuyền chẳng có gì khác không ai có thể nghĩ được cách nào cho bớt lạnh. Khi đó mấy chiếc giầm không ai chèo nữa, bốn người cởi giày làm gàu tát nước mưa trong thuyền ra.
Tạ Tốn nay gặp được Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức vui mừng, tuy trước mắt đầy hiểm nguy nhưng chẳng coi vào đâu, trong mưa gió vẫn nói cười như không. Tiểu Siêu tính tình ngây thơ, cũng cười đùa vui vẻ, chỉ riêng Chu Chỉ Nhược vẫn lặng yên không nói lời nào, thỉnh thoảng ánh mắt chạm phải Trương Vô Kỵ, lập tức quay đầu sang chỗ khác. Tạ Tốn nói:
- Vô Kỵ, năm xưa ta cùng cha mẹ con dong thuyền ra biển xuất dương, giữa đường bị một trận bão, so với trận bão hôm nay ghê gớm hơn nhiều. Bọn ta về sau lên được băng sơn, bắt hải cẩu ăn thịt. Có điều hồi đó là gió nam, thổi chúng ta đến miền cực bắc băng sơn tuyết địa, còn hôm nay lại là gió bắc, không lẽ ông trời thấy Tạ Tốn này không hợp nhãn, nên đày ta đến chỗ Nam cực tiên ông, sống ở đó thêm hai chục năm nữa hay sao? Ha ha, ha ha!
Ông ta cười một tràng rồi nói tiếp:
- Năm xưa cha mẹ con một nam một nữ, trai tài gái sắc, đúng là duyên trời se, còn nay con lại mang theo tới bốn cô gái, thế là thế nào đây? Ha ha, ha ha!
Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu vẫn bình thản nói:
- Tạ lão gia tử, cháu chỉ là con tiểu a đầu hầu hạ công tử thôi, không tính vào trong đó được.
Triệu Mẫn tuy bị thương nặng nhưng cũng đã tỉnh, đột nhiên nói:
- Tạ lão gia tử, ông mà còn nói nhăng nói cuội nữa, đợi tôi khỏi rồi, tôi sẽ nắm tai ông đánh cho một trận.
Tạ Tốn le lưỡi, cười nói:
- Gớm cô này ghê thật.
Ông ta bỗng ngừng lại không cười nữa, trầm ngâm rồi nói:
- Ồ, đêm qua cô đánh thí mạng ra ba chiêu, chiêu thứ nhất là chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, chiêu thứ hai là chiêu Nhân Quỉ Đồng Đồ của phái Không Động, còn chiêu thứ ba, hừ, lão già này quê mùa dốt nát, không nghĩ ra là chiêu nào.
Triệu Mẫn trong bụng kinh hãi thầm: "Thảo nào Kim Mao Sư Vương năm xưa danh chấn thiên hạ, đại náo một phen khiến chốn giang hồ nghiêng trời lệch đất. Hai mắt ông ta không nhìn thấy, thế mà cũng đoán ra được hai chiêu ta sử dụng, quả đúng là danh bất hư truyền".
Nàng liền nói:
- Chiêu thứ ba có tên là Thiên Địa Đồng Thọ của phái Võ Đương, hình như là chiêu số mới sáng tác lão gia tử không biết là phải.
Giọng nàng lúc này thật là cung kính. Tạ Tốn thở dài:
- Cô hết sức cứu Vô Kỵ, quả thực tốt lắm, nhưng việc gì phải thí mạng như thế? Hử, việc gì phải thí mạng như thế?
Triệu Mẫn ấp úng:
- Anh ấy... anh ấy...
Nói đến đây nàng dừng lại, ngập ngừng không muốn nói tiếp, nhưng sau cùng nhịn không nổi nghẹn ngào:
- Anh ấy... ai bảo anh ấy... ôm Ân cô nương tình tứ... tình tứ đến thế, tiểu nữ cũng chẳng còn muốn sống làm gì!
Nàng nói hết câu, nước mắt ròng ròng chảy xuống. Bốn người nghe thấy cô gái trẻ tuổi này thổ lộ tâm sự không khỏi ngạc nhiên, đâu ai biết rằng Triệu Mẫn là gái Mông Cổ, yêu ai thì nói là yêu, ghét ai thì nói là ghét, không vờ vĩnh che đậy, khác hẳn gái Trung Thổ vốn thấm nhuần lễ giáo khuôn sáo. Hơn nữa đang lúc trên thuyền, chung quanh biển cả mênh mông, mưa như trút, bất cứ lúc nào thuyền cũng có thể bị đắm, sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, nên không còn gì để phải kiêng dè.
Trương Vô Kỵ nghe Triệu Mẫn nói mấy câu đó trong lòng cực kỳ xúc động: "Triệu cô nương vốn là đại địch của ta, lần này ta theo nàng ra hải ngoại, chủ ý vốn để nghinh tiếp nghĩa phụ về, đâu ngờ nàng lại mang một mối thâm tình với ta đến thế". Chàng không cầm lòng nổi giơ tay ra nắm tay nàng, ghé miệng vào tai nói nhỏ:
- Từ nay dù thế nào cũng không được làm vậy nữa, nghe chưa?
Triệu Mẫn vừa nói ra, chợt thấy ăn năn nghĩ thầm mình là con gái không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, những chuyện như thế lẽ nào lại chính miệng thốt ra để cho chàng coi thường mình? Bây giờ nàng nghe lời ân cần trách cứ của Trương Vô Kỵ, vừa mừng vừa sợ, vừa thẹn vừa yêu, trong lòng biết bao ngọt ngào êm ấm, cảm thấy tối qua ba lần vào sinh ra tử, hôm nay trên biển cả phiêu bạt lênh đênh cũng không phải là uổng phí.
Mưa một trận to rồi cũng tạnh dần nhưng mây đen thì mỗi lúc một nhiều. Bỗng nghe một tiếng quẫy mạnh, một con cá ước chừng ba mươi cân từ dưới nước nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay trái ra chộp luôn vào bụng cá, bắt ngay vào trong thuyền. Ai nấy đều lên tiếng reo hò, Tiểu Siêu rút trường kiếm đem cá ra mổ bụng đánh vảy, cắt thành từng miếng. Mọi người ai nấy đói lòng, nhưng cá sống thật tanh, cố gắng mãi mới ăn được. Riêng Tạ Tốn ăn thật ngon lành, ông ở trên hoang đảo hơn hai mươi năm, món gì cũng đã ăn qua nói gì đến cá sống? Huống chi cá sống nếu nhai lâu một chút, sau cái mùi vị tanh tanh sẽ thấy ngon ngọt lạ thường.
Sóng gió trên biển lặng dần, mọi người ăn cá xong nhắm mắt dưỡng thần, hôm qua một ngày một đêm kịch đấu, ai nấy đều cực kỳ mỏi mệt. Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu tuy không giao đấu nhưng bị kinh hãi cũng không phải là ít. Biển cả lay động con thuyền chẳng khác gì nằm võng đu đưa, trên thuyền cả sáu người trước sau đều thiếp đi.
Mọi người ngủ một giấc dài, phải đếm ba giờ sau mới dậy. Tạ Tốn tuổi già tỉnh trước, nghe tiếng thở của năm người trai gái nhịp nhàng cùng với tiếng gió biển. Triệu Mẫn và Ân Ly bị thương rồi, hơi thở xem ra dồn dập, Chu Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, còn Trương Vô Kỵ giữa mỗi lần hô hấp, lúc đứt quãng lúc liên tục, không rõ ràng khiến Tạ Tốn ngầm kinh dị: "Thằng bé này nội lực thật là thâm hậu, ta bình sinh chưa gặp bao giờ". Riêng Tiểu Siêu hơi thở lúc nhanh, lúc chậm, rõ ràng nàng luyện một môn võ công hết sức lạ lùng, Tạ Tốn nhíu mày, nghĩ thầm: "Quả thật là lạ lùng, không lẽ con bé này là...".
Đột nhiên Ân Ly quát lên:
- Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ kia, sao không lên đảo Linh Xà với ta?
Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu nghe tiếng hét đó đều choàng tỉnh. Lại nghe nàng ta nói tiếp:
- Ta ở một mình trên đảo, tịch mịch cô đơn... sao ngươi không đến chơi với ta? Ta ngày đêm khổ sở nhớ thương ngươi, ngươi... ngươi ở dưới âm có biết cho chăng?
Trương Vô Kỵ giơ tay sờ đầu nàng, thấy hầm hập như một lò than, biết là nàng bị thương nặng lên cơn sốt, nói mê nói sảng. Tuy chàng y thuật tinh thâm, nhưng trong chiếc thuyền nhỏ không thuốc men cũng đành chịu bó tay, đành xé một mảnh áo, thấm nước đắp lên trán cho bớt nóng.
Ân Ly vẫn nói tiếp tục nói lảm nhảm, đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Cha ơi, cha... cha đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con... Dì hai là do con giết đó, cha giết con đi, không liên quan gì đến mẹ con cả... Mẹ ơi, mẹ chết rồi! Con làm hại mẹ rồi! Hu hu... hu hu...
Nàng cất tiếng khóc thật là thương tâm. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ nói:
- Châu Nhi, Châu Nhi, em tỉnh lại đi. Cha em đâu có ở đây, đừng sợ.
Ân Ly giận dữ nói:
- Cha em không ra gì, em có sợ cha em đâu. Tại sao ông ấy lại lấy vợ hai, vợ ba? Một người đàn ông lấy một vợ chưa đủ hay sao? Cha ơi, cha thay lòng đổi dạ, có mới nới cũ, lấy hết người này đến người khác, làm khổ mẹ con quá, làm khổ lây cả con nữa! Ông không phải là cha tôi, ông là kẻ bạc tình, là đại ác nhân!
Trương Vô Kỵ bỗng giật mình kinh hoảng, sợ đến mặt mày tái mét. Thì ra mới rồi chàng mơ một giấc mơ thật đẹp, thấy mình lấy được Triệu Mẫn, lại lấy cả Chu Chỉ Nhược. Khuôn mặt sưng phù của Ân Ly cũng biến thành đẹp, luôn cả Tiểu Siêu cũng lấy mình luôn. Ban ngày ban mặt chàng đâu có dám nghĩ tới, nhưng trong giấc ngủ lại thành sự thực, thấy cả bốn cô nào nào cũng tốt, mình không thể bỏ người nào. Khi chàng an ủi Ân Ly, trong đầu vẫn mơ màng nghĩ tới những phút giây vui sướng ấy.
Bây giờ chàng nghe Ân Ly trách mắng phụ thân, nghĩ lại chuyện kể hồi trước, nàng không chịu để cho mẹ bị khinh khi nên giết chết ái thiếp của cha, mẹ nàng vì thế mà phải tự vẫn, chính cậu chàng là Ân Dã Vương đã toan một đao giết chết con ruột mình. Câu chuyện luân thường đại biến, thảm khốc kia cũng chỉ vì Ân Dã Vương không chung tình với một người lại năm thê bảy thiếp mà ra. Chàng quay qua nhìn Triệu Mẫn, lại liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nghĩ đến giấc mộng không khỏi thẹn thùng.
Ân Ly lại nằm mơ nói lảm nhảm một hồi, đột nhiên đổi giọng van xin:
- Vô Kỵ, anh đi với em đi, đi với em đi. Anh cắn lưng bàn tay em một cái nhưng em chẳng giận anh chút nào. Em nguyện một đời hầu hạ anh, chiều chuộng anh, coi anh như chủ của em vậy. Nếu anh thấy em xấu xí, em sẽ hủy hết võ công để cho anh vui lòng, bỏ hết chất nhện độc để anh thấy em vẫn như hồi mới gặp nhau...
Câu đó nàng nói thật dịu dàng, uyển chuyển, Trương Vô Kỵ nghĩ đến cô em họ tính khí thất thường, vui buồn thay đổi, tuy bề ngoài lạ lùng như trong lòng đầy vẻ ôn nhu. Lại nghe nàng nói tiếp:
- Vô Kỵ, em đi khắp nơi tìm anh, đủ mọi chân trời góc biển, nghe được tin mới biết anh ở Tây Vực rơi xuống hang núi chết rồi, em đau lòng không còn muốn sống nữa. Ở Tây Vực em gặp một thanh niên tên là Tăng A Ngưu, y võ công cao cường, tính hạnh cũng tốt, anh ta bảo sẽ lấy em làm vợ.
Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu đều biết Tăng A Ngưu chính là tên giả của Trương Vô Kỵ, không hẹn mà cùng quay lại nhìn chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc chín, hết sức bối rối thấy ba cô gái nhìn mình bằng cặp mắt lạ lùng, chỉ hận không nhảy xuống biển ngay được chờ cho Ân Ly tỉnh lại mới quay trở lên.
Lại nghe Ân Ly lẩm bẩm nói tiếp:
- Cái anh A Ngưu đó nói với em rằng: "Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi". Y lại nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Vô Kỵ, cái anh A Ngưu đó nhân phẩm còn tốt hơn anh nhiều, võ công giỏi hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi. Thế nhưng trong lòng em đã có một tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh rồi, nên em không nhận lời anh ta. Anh chết sớm, em sẽ ở vậy thủ tiết cùng anh. Vô Kỵ, anh thử xem, A Ly đối với anh tốt hay không tốt? Năm xưa anh coi thường em, bây giờ trong lòng anh có hối hận hay không?
Lúc đầu Trương Vô Kỵ nghe nàng kể lể những gì mình nói với cô ta thấy thật là xấu hổ nhưng càng nghe càng thêm cảm động, tự nhiên nước mắt ròng ròng. Lúc này sương mù cũng đã tan đi, một vầng trăng non chiếu xuống Ân Ly nằm nghiêng nghiêng, chỉ thấy thân hình thon thả của nàng. Lại nghe nàng nói nho nhỏ:
- Vô Kỵ, anh ở chốn u minh có tịch mịch lắm không? Có cô đơn không? Em theo bà bà đi đến Băng Hỏa đảo ở bắc hải tìm đón nghĩa phụ anh về, sau đó sẽ lên núi Võ Đương quét dọn cúng tế mộ phần cha mẹ anh, rồi sẽ đến Tây Vực nơi đỉnh núi tuyết anh táng mệnh nhảy xuống, để bầu bạn với anh. Có điều em phải đợi cho bà bà trăm tuổi rồi chứ không thể theo anh sớm hơn để bà bà ở lại một mình lênh đênh khổ sở. Bà bà đối với em tốt lắm, nếu không có bà bà cứu cho thì cha em đã giết em rồi. Em vì cha nuôi của anh mà phải phản lại bà bà, chắc là bà bà hận em lắm. Em chỉ muốn thật tốt với bà bà thôi, Vô Kỵ, anh nghĩ có phải không?
Câu nói đó dường như nàng muốn trần tình với Trương Vô Kỵ. Trong lòng nàng, Trương Vô Kỵ đã là quỉ ở dưới âm, những câu nói hết sức ôn nhu dịu dàng với một hồn ma, nơi một chiếc thuyền lênh đênh trong đêm vắng, dưới ánh trăng suông, quả thật thê lương.
Nàng nói tiếp câu nọ xọ câu kia, chỗ này một câu chỗ kia một câu, lúc thì hoảng hốt kêu la, lúc thì giận dữ chửi bới, câu nào cũng nói lên tâm trạng vô cùng bi thương, thống khổ. Những câu nói mê lảm nhảm ấy nhỏ dần rồi nàng lại ngủ thiếp đi. Năm người không ai nói một câu, mỗi người một tâm sự, nghe tiếng sóng bập bềnh nơi mạn thuyền, thấy rằng chỉ có gió mát trăng trong là mãi mãi thôi, còn mối âu lo của con người không bao giờ dứt.
Đột nhiên một giọng ca thật nhẹ nhàng, thật phiếu diểu vang lên trên mặt biển:
Cõi trần kẻ trước người sau,
Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.
Hôm nay chỉ biết hôm nay,
Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.
Mấy ai thọ được bảy mươi,
Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.
Chính là tiếng hát của Ân Ly trong giấc mơ cất lên. Trương Vô Kỵ nghe xong giật mình, nhớ lại trên con đường hầm nơi Quang Minh Đính khi bị Thành Côn đóng mất lối ra, không còn cách nào thoát thân, Tiểu Siêu cũng đã hát lên khúc hát này. Chàng đưa mắt nhìn Tiểu Siêu, dưới ánh trăng cũng thấy cô gái đang say đắm ngẩn ngơ nhìn mình.
- -----------------------------------------------
[] Phép luyện quyền cốt ở tập trung tinh thần, ý đi trước sức đi sau mới mong thắng được...