Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Viết cho người đã khuất nhưng trong lòng chẳng vơi chấp niệm trần thế. Trúc Dịch-Quân Nhạ. Nhưng nỗi oan chưa thể gột rửa.
Một chải chải tới đuôi
Tình duyên vẫn đứt đoạn
Hai chải răng long đầu bạc
Chẳng phải cùng người trong tâm
Ba chải con cháu đầy nhà
Ngươi đoán xem sao nàng khóc rồi lại cười?
-Chấp niệm nhất sinh-
Đã qua một mùa Trúc Dịch mất, người ta luôn nghĩ hồn nàng vẫn phảng phất đâu đó nơi Thiên Kịch Rạp. Cả đời nàng sống trong sự bao bọc của Bất Nhiễm vương, cuối cùng lại chết dưới tay một tên lính hèn làm nhục.
Có lẽ Trúc Dịch cố gắng chống cự đến ngày hôm đó để sinh được Bất Quân ra đời. Đứa bé sống sót, nàng mới có thể ra đi thanh thản. Cuối cùng A Dịch có thể vẹn tròn xuống suối vàng thăm Quân Nhạ được rồi...
Câu chuyện bắt đầu từ đám cưới đầu tiên của Tranh Tịch và Thanh Vấn. Trúc Dịch là một trong những vũ cơ chính được Thiên Kịch chọn để biểu diễn khúc Sứ Thanh Hoa trong yến tiệc.
Với vẻ ngoài như sánh với vạn châu sa, đôi mắt lấp lánh ánh lên sự sắc sảo. Đôi môi ngọt được lớp trang điểm dày cộp đè lên.
Khi ấy Quân Nhạ- vị tướng quân tài ba song hành với Thanh Vấn, lập lên nhiều chiến công trong nhiều trận chiến cũng đến dự tiệc. Ngay ánh mắt đầu tiên, người chàng đưa tia sáng đến là Trúc Dịch.
Có lẽ cả cuộc đời này, chàng chẳng bao giờ gặp được một thiếu nữ mảnh mai đến thế. Người yêu từ khuôn tay mềm như lụa, đến mái tóc đen tỏa ra mùi hương nhẹ hoa cúc.
Sau khi buổi tiệc kết thúc, Quân Nhạ vào trong phòng trang điểm của A Dịch, gói một bức thư hẹn hồi âm của nàng. Những dung cảm đầu tiên vội chớm nở bắt đầu cho câu chuyện tình yêu của người tướng quân mang danh sử sách. Từ khi đó cũng ám chỉ nhiều bi kịch bí ẩn xảy ra...
Họ gặp nhau vào Tết Trung thu dưới chân kinh thành. Hẹn ước dưới ánh trăng, mắt chạm mắt, môi chạm môi đầy e ngại. Lúc đó Trúc Dịch mới chỉ là cô gái gần mười tám chưa biết gì về cái gọi như tầng lớp bình dân và thượng đẳng. Quân Nhạ cũng vì tình yêu quá hoa bướm và bỏ xa những thứ chia rẽ tưởng chừng rất quan trọng.
Chàng dẫn A Dịch về Nhạ gia ra mắt. Ngay từ khắc chạm mặt đầu tiên, Nhạ phu nhân đã cho nàng cái tát thật đau đớn:
-"Cô nghĩ mình cao thượng lắm sao?"
Ánh mắt Trúc Dịch long lanh, với nét ngây thơ đến đau lòng. Nàng chỉ biết bật khóc rồi quỳ xuống.
Nhạ phu nhân gieo bao nhiêu cau nói cay độc lên tinh thần của người con gái vừa tròn mười tám.
-Ngươi nghĩ với thân phận vũ cơ hát trong rạp kịch của mình có thể một bước vào Nhạ gia làm chính thất được sao? Rốt cuộc là phải vô liêm sỉ đến mức nào? Bà nói với vẻ ngậm cay nuốt đắng.
Quân Nhạ bị mẹ ngăn cản không được động đến ả ta dù chỉ một bước.
-Nếu con còn có ý định mang ả ta về đây thì đừng bao giờ gọi ta là mẫu thân nữa. Cả cuộc đời này, ta chỉ có một người con dâu là Nguyệt Kiều. Mây tầng nào gặp mây tầng đó, cô nghĩ mình là ai?
Sau đó bà ta ra lệnh cho quân lính đến đưa Trúc Dịch cút khỏi Nhạ gia với ánh mắt cay nghiệt, coi nàng như cái gai trong mắt, quyến rũ hài nhi của bà.
Trái tim thiếu nữ như vụn vỡ ra từng mảnh, từng vết nứt đã không được nguyên vẹn. Cuối cùng mối tình đầu này cũng bị đáp lại bằng một cái tát.
Hôm ấy trên đường về, Trúc Dịch gặp một cơn mưa rất to, nàng cứ thế đi trong vô thức, không thể làm chủ được bản thân. Từng giọt nước mắt cứ tuôn rơi, nhưng trong lòng đã chết được vài khắc.
Từ khi ấy, Quân Nhạ không liên lạc được với A Dịch nữa. Rồi ngày cuối cùng đến, nàng biết tin chàng chuẩn bị thanh thản với Nguyệt Kiều-con gái cả của Tể tướng Tử Kỳ. Trúc Dịch có ý định nhảy xuống sông vùi mình dưới đại dương sâu thẳm. May mắn được Tranh Tịch phát hiện và ngăn cản.
Tranh Tịch đã đến và cho Trúc Dịch một niềm tin mới, chính hòang hậu đã ban cho nàng sống thêm một kiếp người. Thanh thản chưa được bao lâu thì chàng và nàng có dịp tương ngộ. Vào một đêm trăng sáng dưới chân kinh thành nơi bọn họ đính ước, cả hai gặp lại khi ấy Trúc Dịch đã tròn hai mươi tuổi.
Người con gái ấy đã biết trân trọng những gì mình có, không còn khóc cho những thứ chẳng thuộc về mình. Nhưng cuộc gặp gỡ với Quân Nhạ dưới vầng trăng lại vô tình khiến A Dịch tương tư thêm một lần nữa.
Thiên hạ đồn thổi, Nguyệt Kiều không có khả năng sinh con cho Nhạ gia. Nhạ phu nhân từ khi ấy mà quay lưng, xui khiến Quân Nhạ tiếp cận A Dịch một lần nữa để sinh quý tử. Sau khi mọi chuyện nguôi ngoai thì an ủi Nguyệt Kiều bằng cách đuổi A Dịch ra khỏi phủ.
Quân Nhạ nghe mẫu thân nói mà lòng đau khuôn xiết. Trách sao được khi Nhạ gia chỉ có một người con trai nối dõi tông đường chính là hắn? Mặc dù không muốn lợi dụng Trúc Dịch nhưng vì quá thuơng gia đình. Hắn lừa gạt niềm tin người khác không cần biết đúng sai.
Sang mùa đông hôm ấy, tuyết rơi trắng Thiên Kịch Rạp. Quân Nhạ đến và quỳ trước Kịch phủ. Cầu xin Tranh đại nhân cho gặp Trúc Dịch để dãi bày tấm lòng.
Hắn quỳ trước cổng hai ngày hai đêm, Tranh đại nhân cũng e ngại, khó nói. Bắt buộc phải cho truyền Trúc Dịch.
Sau cuộc nói chuyện sáng hôm đó, chẳng hiểu Quân Nhạ đã cho A Dịch uống thuốc gì, nói những lời gì. Nàng nhất quyết xin Tranh phủ cho thành thân nên vợ chồng với tướng quân.
Tranh Tịch, Xuân Hoa va mọi người trong phủ ra sức ngăn cản nhưng đều bất thành.
-Muội có biết hành động của muội bây giờ là ngu ngốc lắm không?
-Muội tin tưởng huynh ấy, thật ra bao lâu nay muội vẫn còn yêu tướng quân rất nhiều. Tỷ tỷ, muội chỉ còn cách tin vào tỷ thôi… Trúc Dịch vừa cầu xin Tranh Tịch vừa khóc.
Hòang hậu cũng vì lòng thương người mà không còn ngăn cản. Sáng đầu đông hôm ấy, Nhạ gia mang sính lễ đến cầu hôn Trúc Dịch. Kể từ lúc ấy, nàng được phong làm thiếp của Nhạ tướng quân.
Tưởng hạnh phúc được nhường nào, từ khi về phủ, cuộc sống nàng giống như nô tỳ trong hoàng cung. Sáng sớm hôm nào cũng phải xách nước, giặt giũ, nấu cơm cho Nhạ gia. Nếu có gì sơ suất sẽ bị mắng chửi, hơn thế dưới cái nhìn được khắc nghiệt của chính thất Nguyệt Kiều, Trúc Dịch bị đày đọa sống không bằng chết.
Khi có Quân Nhạ, Nhạ phu nhân sẽ tỏ ra hết sức tử tế. Nhưng khi tướng quân lên triều, nàng sẽ bị hãm hiếp, đánh đập, chửi rủa. Có khi còn nhốt trong điện bên cạnh phòng đọc sách của A Nhạ. Nhiều nhất là một mùa, ít nhất là mười đêm.
Có nhiều lúc muốn về Thiên Kịch Rạp thăm đại nhân và tỷ muội, nhưng đều bị Nhạ gia ngăn cản.
-Ngươi nghi ngươi có huyết thống với gia phủ đấy à? Ngươi nghĩ mình cao sang lắm sao? Được làm thiếp ở đây đã là điều phi thường với cô rồi, lo mà biết thân biết phận của mình đi. Trước khi tôi gϊếŧ chết cô thay Quân Nhạ.
Bi thương vội chảy ngược, hóa thành dòng sông cuộc đời. Thân phận ca nhi bé nhỏ chẳng đủ sức cứu Trúc Dịch ra khỏi hôn nhân đầy cám rỗ. Những đêm thức trắng ngắm nhìn vì sao trên bầu trời lại thổn thức nhớ đến quê nhà. Nhớ những ngày êm đềm trôi như cánh diều trước gió, những ngày ca múa chẳng biết đường đi lối về. Có lẽ đó là lúc A Dịch cảm thấy nàng đang được làm chính mình chứ không phải như bây giờ làm mục đích hưởng lợi cho người khác.
Cuộc đời người mĩ nhân phải nhục nhã đến nhường nào mới chịu đựng thân phận thê thiếp. Phải đau đớn đến nhường nào để gánh chịu muôn lời của thiên hạ. Mĩ nhân cũng có lòng tự tôn, nhưng vì sự nghiệp lớn buộc phải buông bỏ để dành lấy hạnh phúc của đời mình. Ngờ đâu tất cả đều hóa lừa dối, chính cái buông bỏ của lòng tự tôn đã đẩy Trúc Dịch xuống vực thẳm của chế độ, mãi mãi không thể ngẩng đầu, ngang nhiên nhìn thiên hạ được nữa.
Nguyệt Nhạ phủ, đêm nay trăng sáng, có thiếu nữ nhỏ nhìn ngắm thế gian. Cái lạnh Thành Đô bao trùm lên hình hài mĩ nhân nhỏ nhắn, lộ vài vết sẹo do bị đánh đập.
-A Hiền, muội thấy không? Hôm nay tuyết rơi rồi… Trúc Dịch nói chuyện với một nô tỳ thân cận.
-Mùa này Thành Đô năm nào cũng lạnh cóng, di nương vào trong khỏi cảm… A Hiền nhắc nhở.
-Đúng là có lạnh nhưng không bằng lòng người được… Di nươngthở dài.
-Dạo này em nghe nói giặc trong, giặc ngoài vẫn lan man, dân di cư khắp nơi, thiên tai lọan lạc.
-Tướng quân lại phải ra chiến trận một lần nữa. Lần này ta sợ không đơn giản… Ánh mắt phu nhân ánh lên sự lo sợ.
-Di nương yên tâm, mọi chuyện rồi sẽ ổn… A Hiền cố gắng an ủi.
Trúc Dịch đứng gọn vào gốc đào xơ xác. Lặng lẽ ngắm tuyết trong sự bồn chồn tột cùng.
Sáng hôm sau ở Phi Nhạ Điện,
-Tướng quân, Trúc di nương đến. Một thị vệ thân cận bẩm báo với Quân Nhạ.
-Được, cho nàng ấy vào.
Bước chân A Dịch cẩn trọng, bàn tay trắng mềm pha trà. Vài ba cọng đào thả bay bay.
-Hôm nay thiếp đặc biệt chuẩn bị trà hoa Giang Nam. Mong người thích. Giọng nói của nàng nhẹ nhàng, thoang thoảng.
-Vẫn là nàng chu đáo nhất.
-Thiếp nghe nói, tinh hình trong nước ngày càng lọan… Nói đến nửa chừng, nàng dừng lại.
-Đúng vậy, sáng hôm sau, ta phải lên đường. Chuyến đi này e là khó hơn ta tưởng tượng. Nếu như…
-Xin chàng đừng nói nếu như, thiếp tin chàng sẽ bình yên vô sự. Dù có chuyện gì, thiếp vẫn trung thành theo chàng đến địa tào âm phủ. A Dịch quỳ xuống.
-Trời lạnh lắm, nàng mau đứng dậy khỏi ốm. Quân Nhạ vội chạy đến nâng A Dịch dậy.
-Trúc Dịch, cả đời này ta có lỗi với nàng, ta đã mang nàng vào cuộc hôn nhân này… Nếu có chuyện gì sơ suất, ta viết đơn hòa ly này để nàng có thể bình yên về Thiên Kịch. Mẫu thân sẽ không thể làm khó. Quân Nhạ đưa bức hòa ly đến trước mắt.
Nước mắt Trúc Dịch rơi lả tả, cũng giống như từng cánh đào ngoài kia bay phất phới, rồi thản nhiên rơi xuống.
-A Dịch không cần về nhà, ta chỉ cần chàng thôi, làm ơn… Đôi mắt đỏ hoe với nỗi niềm khó nói cứ thế mả đỏ dần.
Hai người họ ôm nhau trong cái giá lạnh của Thành Đô. Ngươi có tin vào sống chết không? Có thể thiên hạ nói Trúc Dịch hòan tòan sai, sai vì rung động Quân Nhạ, sai vì bước chân vào Nhạ gia-cái nôi địa ngục sống không bằng chết.
Nhưng có nhiều chuyện người trong cuộc mới hiểu, buộc phải chịu đựng được-đấy mới là tình yêu. Chỉ cần có tình yêu, thì tất cả đều đúng. Nếu nói Trúc Dịch sai thì tất cả mĩ nhân Thành Đô đều ngu ngốc hay sao? Cuộc tình đau nhất không phải là yêu chẳng được đáp trả, mà là âm dương cách biệt. Sống chết khác nhau, mãi mãi không được gặp lại.
Hai tháng sau, cuối mùa đông, Thành Đô càng lạnh lẽo. Trúc Dịch ngồi trong phủ ngắm tuyết qua khung cửa. Nàng đang may áo cho tướng quân nơi chiến trận. Đã mấy tháng rồi, chẳng có tin tức người tình từ phương xa, lòng chẳng tránh được thấp thỏm.
-Tối nay người lại mất ngủ à? A Hiền thấy A Dịch ngồi thẩn thơ trước ô cửa.
-Ngươi nói chiến trường đang thức trắng đêm vì bảo vệ Tổ quốc, người ở nhà sao mà dám ngủ? Giọng nói mất hồn, bàn tay đang đan áo mà cứ run run theo nhịp nói.
-Phu nhân đừng lo lắng, em nghe nói mọi thứ đã yên ổn được mấy phần rồi. Chỉ là giờ ở Phúc Kiến, mấy cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn diễn ra. Được lệnh triều đình, tướng quân buộc phải dẹp lọan hết mới có thể trở về.
Bất ngờ Trúc Dịch bị một mũi kim trọc vào tay, như có điềm xấu chẳng lành. Nàng ngước lên nhìn A Hiền.
-Di nương bị chảy máu rồi…
-Ngươi, mau mang giấy bút lại đây, ta nghĩ mình nên viết thư cho tướng quân.
-Tuân lệnh.
Từng nét chữ gọn gàng trên mặt giấy. A Dịch là người ít học nhưng thuở nhỏ cũng được Tranh đại nhân kèm cặp rất chu đáo. Nàng cũng có thể coi là thiên kim tiểu thư của nhà họ Tranh chứ chẳng phải ca nhi như thiên hạ đồn đại…
Trong thư Trúc Dịch viết:
Thiếp nói hậu phương ngày đêm mong ngóng chàng. Phúc Kiến bốn mùa lạnh lẽo, vốn không kẻ đi kẻ về. Mà giờ lại náo nhiệt, lọan lạc như thế. Tướng quân ở phương xa nhớ giữ gìn sức khỏe. Thành Đô vẫn như vậy, bốn mùa trăng gió,bốn mùa tuyết rơi , bốn mùa nhớ chàng nơi tiền tuyến…
Ở Phúc Kiến,
-Bẩm báo tướng quân, có thư của Trúc di nương đặc biệt gửi đến.
Quân Nhạ bây giờ đã rất yếu, chàng bị trúng mũi tên độc gần ngực. Có thể chẳng cầm cự được bao lâu nữa…
-Mau …đọc n…ó lên cho ta… Hơi thở người càng yếu hơn, nhưng ánh mắt vẫn mong chờ, dường như đang cố gắng nán lại trần thế vài phút để nghe nốt lời Trúc Dịch muốn nhắn nhủ…
….
Nước mắt chàng cũng tuôn rơi từng giọt, mái tóc ngày nào còn xanh giờ đã xác xơ, bờ môi tím tái.
-Tướng quân, giờ người có thể nhắm mắt thanh thản được rồi…
Đôi môi người cố gắng nở nụ cười, chàng thì thầm vào câu gì đó rất dài, nhưng người ta chỉ nghe được:
-Kiếp.. này… ta… nợ… nàng một gia đình hạnh phúc…
Trút hơi thở cuối cùng, Quân Nhạ ra di. Hôm ấy trời mưa tuyết xối xả… Được nghe tin báo:
-Tướng quân qua đời rồi.
Bọn họ đã nói dối nguyên do cái chết của người, chỉ báo về rằng, do mải đọc thư của di nương mà không để ý trúng tên của giặc.
Trúc Dịch hỏang lọan, đôi mắt đỏ au, con tim thắt lại.
-Tất cả là do ta, là do ta, ta đáng chết. Nàng điên cuồng đạp phá đồ đạc. Mặc A Hiền ra sức ngăn cản.
-Nô tỳ xin người, xin người. Không phải lỗi của người, thế giặc vốn khó, tướng quân ra đi là chuyện có thể xảy ra. Người không có lỗi, em xin người… A Hiền cũng òa khóc, nắm chặt lấy chân váy A Dịch.
A Dịch khóc cạn nước mắt, bàn tay run cầm khung cửa sổ chẳng vững.
-Tại sao? Cuoc đời ta vẫn chưa đủ đau khổ hay sao?.. Nàng chất vấn chính mình…
Không nguyện nhuốm đời thị phi, sao liệu được sự đời ngang trái
Đóa hoa trong lòng đã héo khô, thời gian đã qua chẳng thể quay trở lại
Hồi ức trăn trở ngược xuôi, cũng không đau đớn bằng trái tim này
Chỉ nguyện quãng đời còn lại không hối hận, theo hương hoa bay đi thật xa
Một bình rượu nhạt, một thân nhuốm bụi trần
Nhớ nhung chẳng dứt độ quãng đời còn lại chẳng hối hận
Một trận xuân thu, sinh sinh diệt diệt, phù hoa thị phi
Đợi thời khắc hoa nở ta lại say một lần nữa
-Bất Nhiễm-
Nhạ phu nhân nghe tin con trưởng ra đi nơi chiến trận cũng ngất xỉu, đứng không vững.
-Tất cả là do con hồ ly kia, ta phải gϊếŧ nó để trả thù cho Nhạ nhi… Ả ta phải chết…
Từ hôm đó, Trúc Dịch bị Nhạ gia đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ được quay lại một lần nữa. Đám tang hôm ấy, nàng không được tham dự… Trời mưa tuôn lạnh ngắt… A Hiền thì bị phu nhân đem đi bán, mãi mãi không được quay về Thành Đô nửa bước…
Sau lúc ấy, không còn ai thấy A Dịch cười nữa, không còn ai thấy nàng dịu dàng như trước. Chỉ còn một A Dịch giả điên giả điếc. Thái y nói vì cú sốc quá lớn, nàng không thể trở về hình người được nữa… Mãi mãi tự chất vấn bản thân trong sự đau đớn tột cùng, mãi mãi phải sống chung với cái điên cái lọan, thi thoảng thì biết buồn biết khóc… Không chết-đó là sự từ bi cuối cùng của ông trời cho di nương cũ rồi…
Thiên hạ thuơng tiếc cho cái chết Quân Nhạ, thử hỏi đã có ai thương xót một kiếp người của Trúc Dịch hay chưa? Người ra đi thì được cả nhân gian thờ cúng, người ở lại sống chẳng bằng chết…
Mà có chết, cũng âm phủ lạnh ngắt, chẳng ai đưa tang… Hỏi công bằng ở đâu? Thành Đô vốn dĩ không có công bằng…
“Nhất niệm thiên vạn lý, nhất nhãn thiên vạn niên.”
Dịch nghĩa:
Nỗi nhớ nhung trải dài ngàn vạn dặm, một ánh nhìn lướt qua ngàn vạn năm.
Nếu không có chàng ở bên cạnh, ta làm thế nào có thể vượt qua trời xanh…
Quân Nhạ, chờ ta một chút, ta sẽ đến với chàng, nhưng ơ một thời điểm khác. Thời điểm bớt đau đớn hơn, ta chẳng còn nuối tiếc với cuộc đời…
Tạm biệt.
P/s: chờ chap nhée