Người phụ nữ suy nghĩ miên man một lúc lâu, mãi đến khi gà gáy canh ba mới tỉnh lại.
Bà ta bước tới bên cửa sổ, nhìn trời đất mù tối.
Người phụ nữ lấy tay gỡ thanh chống cửa, để cho tấm phên cửa sổ rơi xuống, che lấp quang cảnh bên ngoài.
Thế rồi bà ta đi vào phòng ngủ.
Đó là một căn phòng nhỏ với vô số sách vở, nằm chen chúc lẫn nhau, từ trên bàn, lên giường đến tận dưới đất.
Người phụ nữ dùng bàn tay trắng nõn, mảnh khảnh nhẹ nhàng lôi từ dưới gậm giường ra một cái rương to, nặng trình trịch mà thông thường hai người đàn ông mới khiêng nổi.
Xoa đi bụi bặm bám ở mặt trên, bà ta cẩn thận mở rương ra.
Gạt đi bên trong một đống thẻ trúc nặng nề, để lộ ra một chiếc hộp gấm sơn son thiếp vàng.
Người phụ nữ cung kính giơ cái hộp lên , cẩn thận đặt lên bàn.
Thế rồi trong ánh nến leo lét, người phụ nữ bỗng nhiên cúi đầu bái ba cái, miệng khấn: “Ông cố nội, tôn nữ bất hiếu chẳng làm nên trò trống gì, nhưng chẳng thế nào trơ mắt làm ngơ môn phái gặp phải họa lớn.
Đành cả gan thỉnh pháp thư “Tu đạo lục” cùng nhau trở về, cứu rối bọn họ.
“
Nói rồi người phụ nữ cung kính mở ra chiếc hộp gấm.
Bên trong chỉ có chứa một cuốn sách màu vàng cũ đã mòn cả bốn góc.
Trên bìa sách có ghi ba chữ to “Tu Đạo Lục” , phía dưới có ghi tác giả bằng hai chữ nho nhỏ “Hoàng Thập” đã đen xì xì vì thời gian, nhìn không rõ nữa.
Người phụ nữ vuốt ve nhè nhẹ quyển sách như sắp nát vụn ấy tựa như ve vuốt một người bạn lâu năm.
“Đã hơn trăm năm rồi nhỉ?” Thế rồi người phụ nữ cười cười, khuôn mặt như giãn ra.
“Chúng ta cùng trở về nào.” Thế rồi bà ta bấm ngón tay, một giọt máu tươi chảy ra, nhỏ xuống bề mặt quyển sách.
Giọt máu như có linh tính trôi từ bề mặt xuống hai chữ nhỏ Hoàng Thập.
Bất thình lình, hai chữ Hoàng Thập bất ngờ đỏ rực.
Thế rồi ánh sáng bắt đầu tỏa ra thổi bay hết bụi bặm hoen ố trên bìa sách.
Hai chữ Tu Đạo Lục cũng sáng lên rực rỡ như minh ngọc.
Trong chốc lát quyển sách hoen ố bỗng biến đổi thành một quyển sách lấp lánh, tự động bay lên tay của người phụ nữ.
Bà ta cười cười, cầm lấy quyển sách.
Nó nhảy nhót trên tay người phụ nữ ra vẻ vui mừng như trẻ con gặp mẹ.
Người phụ nữ ôm lấy nó, cất vào ngực.
Rồi bà ta đi ra ngoài cửa, dẫm chân ba cái, miệng lẩm nhẩm đọc: “Bảo Bình Dị Thuật: Vạn Vật Thu Về.” Rồi dường như nghe thấy tiếng gọi của bà, cả căn nhà bỗng rung rung, bắt đầu thu nhỏ lại, biến thành một ngôi nhà gỗ nằm gọn trong tay người phụ nữ.
Thế rồi bà ta rút cây trâm ngọc bích trên đầu, thổi phù một cái, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú.
Cây trâm ngọc biến lớn, rồi hóa thành một con phượng hoàng.
Người phụ nữ ngồi lên con phượng hoàng, nhìn nơi ở cũ đã hóa thành bãi đất trống hoang vu, hơi hơi cảm khái.
Thế rồi bà vỗ vỗ con phượng hoàng: “Đi thôi, chúng ta về nhà.”
Cùng lúc đó, ở phủ Quốc sư, trong gian thư phòng nằm chính giữa khuôn viên, một người đàn ông tuổi trung niên đang đọc sách dưới ánh nến bất ngờ ngẩng đầu lên.
Mái tóc hoa râm, khuôn mặt khắc khổ không thể che dấu nổi ánh mắt như sao trời, xuyên thấu không gian thời gian, tựa như thần linh của Quốc sư.
Ông lắc lắc đầu, buồn bã than: “Cuối cùng nơi này cũng không phải cành ngô đồng, trăm năm vẫn không giữ nổi Phượng hoàng.
Thôi, thôi, kiếp nạn tới, trốn đi đâu được, bảo tồn một ít mồi lửa cũng đã tốt lắm rồi.
”
Thế rồi ông lấy ra một quyển sách cũ trong ngăn bàn, được giữ cẩn thận trong một cái bao da.
Quốc sư vuốt ve lấy quyển sách mới nguyên, có ghi mấy dòng chữ “Nam Môn Hoán Nhật Thâu Thiên Đại Pháp” rồi lại cất trở lại trong bao.
Ông búng tay, lập tức một con hạc giấy gấp sẵn trên bàn bỗng trở nên to lớn như một con gà chọi.
Ông chỉ cái bao da, nói với con hạc: “Mang nó tới tìm Đức Lưu, bảo hắn ngay lập tức đi núi Phượng Hoàng ở phủ lộ Bình An, thành lập một chi phái của Nam Môn đạo phái tại đó.”
Con hạc giấy vẫy đuôi gật đầu, chào từ biệt Quốc sư, sau đó cắp lấy bao da, bay qua cửa sổ rồi biến mất trong đêm tối.Ở một nơi xa xôi tại phủ lộ Bình An, Quỷ Vương Hai Chèo và đồng bọn vẫn đang chén chú chén anh nhiệt tình.
Từ ngày có tể tướng Cao Lụy Tình, đại vương có vẻ vui vẻ hẳn ra.
Bọn tiểu quỷ dưới trướng Quỷ Vương cũng biết ý, suốt ngày tổ chức hội hè, ăn nhậu.
Lúc này cả bọn đã say khướt khườn khượn, nằm lăn lê bò toài giữa căn miếu hoang.
Quỷ vương bỗng ợ ra một tiếng, hỏi: “Còn có ai không say, giơ tay lên để trẫm còn biết.
“ Con quỷ Kéo Xe giơ tay, nhưng chỉ trong giây lát, tay nó bỗng rũ rượi, rồi nó chui vội ra cửa nôn nôn ọe ọe như phụ nữ có thai.
Quỷ vương lúc lắc cái đầu cho tỉnh rượu, chui lên ngai vàng, là một khối gạch lớn có lót ổ rơm, vểnh râu lên: “Cuối cùng trẫm vẫn là người lợi hại nhất.” Gần đây quỷ vương có nuôi được hai sợi râu dài bên mép mà người ta vẫn gọi là râu dê.
Vuốt vuốt hai sợ râu, quỷ vương ưng ý thốt ra hai câu thơ:
“Để râu không phải là dê,
Để râu là để biết trẫm mê đàn bà.
Quanh năm ăn đủ thịt gà.
Người ta mới biết vườn nhà có chanh.”
Quỷ vương làm thơ xong có vẻ hưng phấn, vội vã lôi cuốn Hai Chèo thi tập ra bôi bôi xóa xóa, ghi lại đầy đủ để sau còn khoe với con cháu.
Lúc này ghi xong có lẽ tư thế quỳ chổng mông viết thơ hơi xóc bụng, quỷ vương lại ợ ra một tiếng.
Hai Chèo nghĩ: “Kỳ quái, gần đây dường như trẫm lại mạnh lên.
Thiệt là kỳ quái.
Chả lẽ làm thơ thì trẫm cũng biến vô địch? Công lý nó nằm ở đâu?” Dường như để thử sức mạnh, quỷ vương vẫy vẫy tay: “Nửa hòn gạch mà con quỷ Nấm Thường đang dùng làm gối ngủ bỗng bay tới tay quỷ vương.
Rồi quỷ vương thổi một cái, hòn gạch như bị cái gì đó nghiền nát, lập tức tan thành vô số cát bụi, bay lung tung trong nhà.
Quỷ vương ngơ ngẩn.
“Thật là kỳ quái.” Nghĩ mãi không ra, cơn buồn ngủ lại kéo đến, quỷ vương híp mắt, cuộn tròn trong ngai vàng ổ rơm, chép chép miệng mấy cái rồi lại bắt đầu đánh một giấc ngon lành.
.