[] Tiếng La tinh: Từ nơi sâu thẳm. Đây chính là tên tác phẩm văn chương viết dưới dạng một bức thư của nhà văn người Ireland Oscar Wilde gửi cho Huân tước Anh, Anfred Douglas, trong những năm tháng bị giam cầm.
Bàn tay Simon đen vết máu.
Cậu đã cố giật những chấn song ra khỏi cửa sổ và cửa xà lim, nhưng chạm vào bất cứ thanh nào cũng để lại cho cậu một dấu ấn dài chảy máu đầm đìa trong lòng bàn tay. Giờ cậu đã đổ sụp xuống, thở dốc trên sàn nhà, và đờ đẫn nhìn bàn tay khi vết thương đang liền lại bong đi như trong một đoạn phim quay nhanh.
Ở phía bên kia tường xà lim, Samuel đang cầu nguyện. “Nếu như chúng con gặp hoạn nạn, giặc giã, bị hình phạt, bệnh tật, hay đói kém, chúng con sẽ đứng trước Ngài và trước đền thờ này mà Ngài đã chọn để thờ phụng Ngài. Chúng con sẽ kêu cứu cùng Ngài khi chúng con gặp khốn đốn. Xin Ngài nghe và cứu chúng con-”
Simon biết cậu không thể cầu nguyện. Cậu đã thử, vì cái tên của Chúa đốt bỏng miệng và làm cậu nghẹn. Cậu tự hỏi vì sao cậu có thể nghĩ những từ đó mà không thể thốt thành lời. Và vì sao cậu có thể điềm nhiên đi lại dưới ánh mặt trời trưa, nhưng không thể nói lên lời cầu nguyện cuối cùng.
Khói bắt đầu cuộn xuống hành lang như một bóng ma có chủ đích. Cậu có thể ngửi thấy mùi khét và nghe tiếng lửa cháy lách tách ngoài tầm kiểm soát, nhưng lạ thay, Simon có cảm giác mọi chuyện chẳng liên quan tới mình, như thể cậu đang tách xa mọi thứ. Thật kỳ lạ khi trở thành ma cà rồng, được nhận một món quà “cuộc sống vĩnh hằng”, kiểu gì cũng chết khi mười sáu tuổi.
“Simon!” Một giọng từ xa vẳng lại, nhưng thính giác của cậu nghe thấy nó qua tiếng nổ và tiếng lách tách của ngọn lửa đang lớn dần lên. Khói trong hành lang đang báo hiệu ngọn lửa sắp lan tới; hơi nóng đã lan tới đây, đè lên người cậu hệt như một bức tường ngột ngạt. “Simon!”
Đó là giọng Clary. Dù ở đâu cậu cũng nhận ra được âm thanh đó. Cậu tự hỏi liệu trí óc cậu có tưởng tượng ra nó không, một cảm giác nhớ về điều cậu yêu thương nhất trong đời sẽ mang cậu gặp tới thần chết.
“Simon, đồ ngu ngốc này! Mình ở đây! Ở cửa sổ ấy!”
Simon bật dậy. Cậu không nghĩ là đầu óc cậu có thể tưởng tượng ra điều đó. Dù qua lớp khói đang mỗi lúc một dày đặc, cậu thấy gì đó màu trắng đang di chuyển bên kia những chấn song cửa sổ. Khi tới gần hơn, những vật màu trắng hóa ra là những bàn tay đang nắm lấy những chấn song. Cậu nhảy lên sạp, hét qua tiếng lửa cháy. “Clary?”
“Ôi, cám ơn Chúa.” Một bàn tay vươn ra, nắm lấy vai cậu. “Chúng mình sẽ cứu cậu ra khỏi đây.”
“Bằng cách nào?” Simon hỏi, không phải vô lý, nhưng có tiếng ẩu đả và bàn tay Clary biến mất, một lát sau được thay bằng một đôi bàn tay khác. Đôi bàn tay đó lớn hơn, rõ ràng là tay con trai, với những mấu tay đầy sẹo và những ngón tay thanh mảnh của một nghệ sĩ dương cầm.
“Cố lên.” Giọng Jace bình tĩnh, tự tin, như thể họ đang nói chuyện trong một bữa tiệc chứ không phải qua những chấn song sắt của một nhà tù đang bị hỏa hoạn đe dọa. “Chắc cậu sẽ muốn lùi lại đấy.”
Giật mình nghe lời, Simon bước sang bên. Đôi bàn tay Jace nắm chặt lấy những chấn song, những mấu tay trắng tới dọa người. Có một tiếng rắc vang lên, và cả mảng song sắt bị giật tung khỏi đá và rơi lanh canh xuống sàn nhà bên cạnh giường. Bụi đá rơi xuống như mưa tạo nên một đám mây trắng mù mịt.
Gương mặt Jace xuất hiện tại khoảng ô vuông trống của cửa sổ. “Simon. Đi nào.” Anh chìa tay xuống.
Simon giơ tay nắm lấy tay Jace. Cậu thấy mình được kéo lên, và rồi cậu đang nắm lấy gờ cửa sổ, tự kéo mình lên qua ô vuông hẹp giống như một con rắn đang chui qua một đường hầm. Một giây sau cậu đã bò lên mặt cỏ ướt, ngước mắt lên nhìn những gương mặt lo lắng phía trên. Jace, Clary và Alec. Họ đều đang quan tâm lo lắng nhìn cậu.
“Cậu nhìn giống đống phân lắm, ma cà rồng,” Jace nói. “Chuyện gì với tay cậu thế?” Simon ngồi dậy. Những vết thương trên tay cậu đã lành, nhưng chúng vẫn đen ở nơi cậu nắm lấy chấn song nhà ngục. Trước khi cậu kịp trả lời, Clary đột ngột ôm chầm lấy cậu.
“Simon,” cô thở hổn hển. “Mình không thể tin được. Mình không hề biết cậu ở đây. Tới tối hôm qua mình vẫn tưởng cậu đang ở New York-”
“Ờ,” Simon nói. “Mình cũng không biết cậu ở đây.” Cậu lườm Jace đang đứng đằng sau cô bạn. “Thật ra, mình tưởng mình đã được cho biết rõ ràng cậu không ở đây.”
“Tôi chưa bao giờ nói vậy,” Jace chỉ ra. “Tôi chỉ không sửa lưng cậu khi cậu, cậu biết đó, nói sai. Mà dù gì, tôi đã cứu cậu khỏi bị thiêu sống, vì thế tôi nghĩ cậu không được quyền giận tôi.”
Bị thiêu sống. Simon buông Clary và nhìn chung quanh. Họ đang đứng trong khu vườn hình vuông, hai bên là những bức tường của tòa lâu đài và hai bên còn lại là những rặng cây mọc xin xít. Những hàng cây nhường đường cho con đường rải sỏi dẫn xuống đồi, về phía thành phố - nó được thắp sáng bởi những cây đuốc đèn phù thủy, nhưng chỉ có một vài ngọn đuốc đang cháy, ánh sáng yếu ớt và chập chờn. Cậu ngước nhìn Gard. Nhìn từ góc độ này, bạn gần như chẳng biết nó đang gặp hỏa hoạn – khói đen giống màu bầu trời trên cao, và ánh sáng từ vài ô cửa sổ có vẻ sáng không bình thường, nhưng những bức tường đá đã che giấu bí mật cực tốt.
“Chú Samuel,” cậu nói. “Chúng ta phải đưa chú Samuel ra.”
Clary có vẻ bối rối. “Ai?”
“Mình không phải người duy nhất dưới đó. Chú Samuel – chú ấy ở xà lim bên cạnh.”
“Cái đống vải vụn mình thấy qua ô cửa sổ ấy hả?” Jace nhớ lại.
“Ờ. Chú ấy hơi lập dị, nhưng là người tốt. Bọn mình không thể bỏ chú ấy lại được.” Simon loạng choạng đứng dậy. “Chú Samuel? Chú Samuel ơi!”
Không có tiếng trả lời. Simon chạy về phía ô cửa sổ gắn song sắt thấp bên cạnh nơi mà cậu vừa từ đó bò ra. Qua những chấn song cậu chỉ thấy những đám khói đang cuộn lại. “Samuel! Chú có đó không?”
Có gì đó di chuyển trong đám khói – cái gì đó lưng còng và đen đúa. Giọng chú Samuel, khô khốc vang lên qua làn khói, nghe khàn khàn. “Bỏ tôi lại đi! Cút đi!”
“Samuel! Chú sẽ chết dưới đó mất.” Simon giật chấn song. Không ăn thua.
“Không! Để tôi một mình! Tôi muốn ở lại!”
Simon tuyệt vọng nhìn quanh để thấy Jace đang bên cạnh. “Tránh ra,” Jace nói và khi Simon bước sang một bên, anh đá một nhát. Nó dính chóc ngay chấn song, và làm chấn song rơi tung tóe trong xà lim của chú Samuel. Chú ta gào thét chói lói.
“Chú Samuel! Chú ổn không?” Cảnh Samuel bị đè dưới những chấn song vừa rơi lóe lên trước mắt Simon.
Giọng Samuel lên cao thành tiếng thét. “CÚT ĐI!”
Simon liếc nhìn Jace. “Tôi nghĩ chú ấy muốn thế thật đấy.”
Jace lắc mái tóc vàng trong buồn bã. “Cậu phải đánh bạn với gã bạn tù điên khùng này hả? Cậu không thể chỉ đếm mấy ô lát nền xà lim hay thuần hóa chuột như những tù nhân bình thường sao?” Không đợi một câu trả lời, Jace cúi xuống và bò qua cửa sổ.
“Jace!”Clary kêu lên, rồi cô và Alec vội vã lao tới, nhưng Jace đã chui qua cửa sổ, rơi xuống xà lim bên dưới. Clary bực bội nhìn Simon. “Sao cậu lại để anh ấy làm thế chứ?”
“À, anh ấy không thể bỏ chú kia chết dưới đó,” Alec bất ngờ nói, dù bản thân chú có chút lo lắng. “Chúng ta đang nói về Jace đấy-”
Anh ngừng lại khi hai bàn tay giơ lên khỏi đám khói. Alec nắm lấy một và Simon nắm lấy bàn tay kia, và cùng nhau họ kéo Samuel như kéo một cái bao khoai tây èo uột ra khỏi xà lim và thả chú ta xuống thảm cỏ. Một lát sau, Simon và Clary nắm lấy tay Jace và kéo anh ra, dù anh ít èo uột hơn đáng kể và chửi thề khi họ vô tình làm cụng đầu anh vào gờ đá. Anh đẩy họ ra, tự bò nốt phần còn lại lên bãi cỏ rồi ngả ngửa ra sau. “Ối,” anh nói và ngước mắt nhìn trời. “Anh cứ nghĩ anh đã kéo gì đó.” Anh ngồi thẳng dậy và liếc nhìn chú Samuel. “Chú ấy ổn không?”
Samuel ngồi co ro trên mặt đất, tay ôm rịt lấy mặt. Chú ta đang ngồi gật gù trong im lặng.
“Anh nghĩ chú ấy có vấn đề,” Alec nói. Anh ta vươn tay chạm vào vai chú Samuel. Chú đẩy ra, suýt ngã. “Để tôi một mình,” chú ta run run. “Làm ơn. Để tôi một mình, Alec.”
Alec cứng đờ toàn thân. “Chú ấy vừa nói gì?”
“Chú ấy nói để chú ấy một mình,” Simon nói, nhưng Alec không nhìn cậu, thậm chí còn chẳng để ý là cậu vừa nói. Anh ta đang nhìn Jace – người, đột nhiên mặt mũi trắng bệch và đã đứng dậy.
“Chú Samuel,” Alec nói. Giọng anh cay nghiệt lạ lùng. “Bỏ tay khỏi mặt ngay.”
“Không.” Chú Samuel cúi gằm xuống, vai run rẩy. “Không, làm ơn. Không.”
“Alec!” Simon phản đối. “Anh không thấy là chú ấy không khỏe sao?”
Clary nắm lấy ống tay áo Simon. “Simon, có chuyện không hay rồi.” Mắt cô đang nhìn Jace – có khi nào đôi mắt đó không nhìn Jace chứ - khi anh ta bước tới cúi nhìn cái người đang co ro cúm rúm kia. Đầu ngón tay Jace đang chảy máu do cào lên gờ cửa sổ, và khi anh ta vuốt tóc xòa xuống mắt, chúng để lại dấu máu theo dọc má anh. Anh dường như chẳng để ý. Mắt anh mở lớn, môi mím lại giận dữ. “Thợ Săn Bóng Tối,” anh nói. Giọng anh rõ ràng một cách nguy hiểm. “Cho chúng tôi nhìn mặt.”
Samuel lưỡng lự, rồi hạ tay xuống. Simon chưa bao giờ nhìn thấy mặt chú, và cậu không hề biết Samuel hốc hác thế nào, hay chú ta già thế nào. Gương mặt chú ta bị bộ râu màu muối tiêu rậm rì che hết nửa, mắt trũng thành hai hố đen, gò má hóp lại. Nhưng kể cả với những nét đó, chú ta vẫn – không hiểu sao – quen thuộc kỳ lạ.
Môi Alec mấp máy, nhưng không một âm thanh nào phát ra. Đó là Jace lên tiếng. “Bác Hodge,” anh nói.
“Bác Hodge?” Simon bối rối nhắc lại. “Nhưng không thể nào. Bác Hodge đã – và Samuel, chú ấy không thể là-”
“Có gì đâu, bác Hodge là thế mà,” Alec cay đắng nói. “Bác Hodge làm cho cậu tưởng bác ấy là một con người hoàn toàn khác với con người thực của bác ta.”
“Nhưng chú ấy nói-” Simon mở lời. Clary nắm chặt hơn, và mọi lời chết trên đôi môi cậu. Biểu cảm trên gương mặt bác Hodge là đủ. Không hoàn toàn là tội lỗi, hay thậm chí là hoảng sợ vì bị phát giác, mà chỉ là sự buồn bã tới đau đớn khiến người khác khó mà nhìn lâu.
Jace đã di chuyển theo cách anh di chuyển khi chiến đấu, như ánh mặt trời lướt trên mặt nước. Anh đang đứng trước mặt bác Hodge, con dao giơ ra, đầu dao sắc nhọn nhắm vào cổ họng của người gia sư già. Ánh lửa phản chiếu nhảy nhót trên lưỡi dao. “Tôi không muốn lời xin lỗi của ông. Tôi cần lý do vì sao tôi không giết ông ngay lúc này, ngay bây giờ.”
“Jace.” Alec có vẻ hoảng. “Jace, đợi đã.”
Có một tiếng nổ đột ngột vang lên khi mái Gard vỡ tung trong những lưỡi lửa màu đỏ cam. Lửa làm trong không khí rung động và thắp sáng ban đêm. Clary có thể thấy rõ mọi ngọn cỏ trên mặt đất, mọi nếp nhăm trên gương mặt gầy gò, bẩn thỉu của bác Hodge.
“Không,” Jace nói. Vẻ mặt không chút cảm xúc khi anh nhìn bác Hodge làm Clary nhớ tới một khuôn mặt như đeo mặt nạ khác. Gương mặt Valentine. “Ông biết chuyện bố tôi đã làm với tôi, đúng không? Ông biết tất cả những bí mật bẩn thỉu của ông ta.”
Alec không hiểu gì khi nhìn Jace và người thầy giáo già. “Hai người đang nói gì thế? Có chuyện gì vậy?”
Gương mặt bác Hodge chùng xuống. “Jonathan-”
“Ông biết từ đầu, vậy mà ông không nói lấy nửa lời. Bao nhiêu năm ở Học Viện như thế, và ông không nói một chút gì.”
Miệng bác Hodge méo xệch. “Bác – bác không chắc,” bác ta thì thào.” Khi cháu không thấy một đứa bé kể từ khi nó mới lọt lòng – bác không biết chắc cháu là ai, mà lại càng ít hiểu về cháu là cái gì.”
“Jace?” Alec đang hết nhìn người bạn thân tới người gia sư, đôi mắt xanh lộ vẻ thất vọng, nhưng cả hai đều chẳng quan tâm tới bất cứ gì ngoài người còn lại. Bác Hodge giống như một người bị kẹp giữa chiếc mỏ quặp đang dần siết chặt, hai bàn tay đặt xuôi thân đang giần giật như bị đau, mắt đảo lia lại. Clary nghĩ tới người đàn ông ăn mặc gọn gàng trong thư viện đầy những sách đã mời cô uống trà và cho cô những lời khuyên nhân ái. Chuyện đó như thể đã xảy ra cả một ngàn năm trước vậy.
“Tôi không tin ông,” Jace nói. “Ông biết Valentine chưa chết. Hẳn Valentine đã nói gì với ông-”
“Valentine chẳng nói gì với bác hết,” bác Hodge thở dốc. “Khi nhà Lightwood cho bác biết họ nhận nuôi con trai của Michael Wayland, bác không nghe được lời nào từ Valentine kể từ sau vụ Nổi Dậy. Bác đã nghĩ hắn đã quên mất bác. Bác đã cầu cho hắn đã chết, nhưng bác không hề biết gì hết. Và rồi, cái đêm trước khi cháu tới, Hugo tới với một bức thư Valentine gửi cho bác. “Thằng bé là con ta.” Lá thư chỉ vỏn vẹn có từng chữ đó. Bác không biết có nên tin không. Bác tưởng bác biết – bác nghĩ bác biết, chỉ cần nhìn cháu, nhưng chẳng có gì, chẳng có gì, giúp bác chắc chắn hết. Và bác nghĩ đó là một trò lừa của Valentine, nhưng trò nào đây? Hắn đang cố làm gì chứ? Cháu không biết, điều đó là đủ đối với bác, nhưng còn về mục đích của Valentine-”
“Ông phải nói cho tôi biết tôi là gì chứ,” Jace nói, chỉ trong một hơi, như thể mọi lời bị tống ra khỏi anh. “Rồi tôi sẽ có thể làm gì đó. Chẳng hạn như giết chết tôi đi cho rồi.”
Bác Hodge ngẩng đầu, ngước nhìn Jace qua mái tóc bẩn thỉu, bết từng mảng. “Bác không chắc mà,” bác nhắc lại, nửa như với chính mình, “và nhiều lần bác tự đã tự hỏi – bác nghĩ, có thể, rằng dưỡng dục quan trọng hơn việc máu mủ - rằng cháu có thể được dạy-”
“Dạy cái gì? Không trở thành một con quái vật à?” Giọng Jace run run, nhưng con dao trong tay anh rất vững vàng. “Ông phải hiểu rõ hơn chứ. Ông làm ông hèn nhát, đúng không? Mà ông chẳng phải một thằng nhóc vô dụng. Ông có thể chống trả.”
Bác Hodge cụp mắt. “Bác đã cố vì cháu mà làm điều tốt nhất,” bác nói, nhưng kể cả với đôi tai Clary, lời bác còn có thiếu sức thuyết phục nữa là.
“Tới khi Valentine trở lại,” Jace nói, “và rồi ông làm mọi điều ông ta sai bảo – ông đưa tôi cho Valentine như thể tôi là một con chó ông ta từng nuôi, rằng ông ta chỉ nhờ ông chăm sóc tôi vài ba năm mà thôi-”
“Và rồi bác bỏ đi,” Alec nói. “Bác bỏ tất cả lại. Bác thực sự nghĩ bác có thể ẩn náu ở đây, ở Alicante này sao?”
“Bác không tới đây để trốn,” bác Hodge nói, giọng không còn chút sức sống. “Bác tới để ngăn Valentine.”
“Bác đừng mong bọn cháu tin.” Alec lại tỏ ra giận. “Bác luôn luôn đứng về phía Valentine. Bác đã có thể chọn quay về với hắn-”
“Bác sẽ không bao giờ làm vậy!” Giọng bác Hodge lên cao. “Bố mẹ cháu được cho cơ hội có một cuộc đời mới – bác chưa từng có! Bác bị nhốt trong Học Viện suốt mười lăm năm ròng-”
“Học Viện là nhà của bọn cháu!” Alec nói. “Chẳng nhẽ ở với bọn cháu – trở thành một phần của gia đình cháu – tệ lắm sao.”
“Không phải vì các cháu.” Bác Hodge nói nghe đau đớn làm sao. “Bác yêu lũ trẻ các cháu. Nhưng các cháu chỉ là trẻ con. Còn nơi các cháu không rời đi nổi nửa bước thì không phải là nhà. Đôi khi hàng tuần trời bác không được nói chuyện với một người trưởng thành nào. Không một Thợ Săn Bóng Tối nào tin tưởng bác. Kể cả bố mẹ cháu cũng không thực sự thích bác; họ chịu đựng bác vì họ không còn lựa chọn nào khác. Bác không thể kết hôn. Không thể có con cái. Không thể có một cuộc sống. Và rồi các cháu sẽ trưởng thành và rời đi, và rồi bác chẳng thể có điều đó. Bác sống trong sợ hãi, vậy thì đó đâu phải là sống.”
“Ông không thể làm chúng tôi thương hại đâu,” Jace nói. “Sau chuyện ông đã làm. Và ông sợ cái khỉ gì nào, sợ sống cả đời trong thư viện? Bụi à? Bọn tôi mới là những kẻ ra ngoài chiến đấu với quỷ dữ!”
“Bác ấy sợ Valentine,” Simon nói. “Anh không hiểu sao-”
Jace giành cho cậu một cái nhìn độc đại. “Im, ma cà rồng. Chuyện chẳng liên quan gì tới cậu hết.”
“Không hẳn là Valentine,” bác Hodge nói, nhìn Simon gần như là lần đầu tiên kể từ sau khi bác bị lôi ra khỏi xà lim. Có cái gì đó trong ánh nhìn đó làm Clary ngạc nhiên - một sự mệt mỏi tưởng như có thể truyền sang người khác. “Sự yếu đuối của mình bác là điều mà Valentine quan tâm. Bác biết rồi có ngày hắn sẽ quay trở lại. Bác biết hắn sẽ đòi quyền lực một lần nữa, đòi được thống trị Clave. Và bác biết hắn có thể cho bác cái gì. Tự do khỏi lời nguyền. Một cuộc đời. Một vị trí trên thế giới này. Bác có thể trở lại làm một Thợ Săn Bóng Tối trong cái thế giới này.” Có sự mong mỏi rõ ràng trong giọng nói của bác khiến người nghe thấy quặn thắt tâm can. “Và bác biết quá yếu đuối nên không thể từ chối lời đề nghị nếu hắn đưa nó ra.”
“Và xem cuộc sống bác có đi,” Jace quát. “Chết rục trong nhà tù của Gard. Phản bội bọn tôi để có những thứ đó sao?”
“Cháu biết câu trả lời rồi mà.” Bác Hodge nói như kiệt sức. “Valentine đã phá bỏ lời nguyền cho bác. Hắn thề sẽ làm và hắn đã làm. Bác tưởng hắn sẽ đưa bác trở lại Circle, hoặc giờ là những gì còn lại của nó. Nhưng không. Hắn còn chẳng cần bác nữa. Bác biết rằng sẽ chẳng có chỗ cho bác trong cái thế giới của hắn. Và bác biết bác đã bán đi mọi thứ chỉ để đổi lấy một lời nói dối.” Bác nhìn xuống bàn tay bẩn thỉu đang nắm chặt. “Bác chỉ còn duy nhất một thứ - một cơ hội để làm cái gì đó hơn là phí phạm cuộc đời. Sau khi bác biết tin Valentine đã giết chết các Tu Huynh Câm - rằng hắn đã có Kiếm Thánh – bác biết sau đó hắn sẽ đi tìm chiếc Gương Thánh. Bác biết hắn cần cả ba Bảo Bối. Và bác biết chiếc Gương Thánh ở đây, ngay tại Idris này.”
“Đợi đã.” Alec giơ tay. “Không ai có thể sở hữu Gương Thánh được. Không phải Nephilim, và cũng không phải cư dân Thế Giới Ngầm.”
“Thực sư bác đã phát điên khi ở dưới đó rồi,” Jace nói, hất hàm về phía những ô cửa sổ giờ đã cháy rụi của nhà ngục, “đúng không?”
“Jace.” Clary đang lo lắng ngước nhìn Gard, mái nhà của nó đang bừng bừng lên ngọn lửa đỏ vàng như một cái lưỡi lởm chởm. “Lửa đang lan rộng. Chúng ta cần ra khỏi đây. Chúng ta có thể nói chuyện ở dưới thành phố-”
“Bác đã bị nhốt trong Hoc Viện suốt mười lăm năm,” bác Hodge nói tiếp, như thể Clary chưa từng nói gì. “Bác còn chẳng thể thò một bàn tay hay chân ra ngoài. Bác dành cả đời trong thư viện, tìm cách xóa bỏ lời nguyền mà Clave đã đặt lên bác. Bác đọc hết cuốn sách này tới cuốn sách khác kể về truyền thuyết Thiên Thần, về việc ngài đã bay lên khỏi hồ, mang theo những Bảo Bối Thiên Thần và trao chúng cho Jonathan Thợ Săn Bóng Tối, Nephilim đầu tiên, và rằng Bảo Bối gồm ba vật: chiếc Cốc, thanh Kiếm và tấm Gương-”
“Bọn tôi đều biết,” Jace gắt gỏng ngắt lời. “Bác đã dạy cho bọn tôi.”
“Cháu nghĩ cháu biết tất cả, nhưng không đâu. Khi bác đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu phiên bản của lịch sử, hết lần này tới lần khác bác có cùng một ảo giác, cùng một hình ảnh – chúng ta đều thấy nó – Thiên Thần nổi lên trên mặt hồ với Thanh Kiếm và chiếc Cốc trên tay. Bác không thể hiểu vì sao tấm Gương không hề được vẽ. Rồi bác nhận ra. Gương chính là mặt hồ. Hồ chính là Gương. Chúng là một và duy nhất.”
Jace từ từ hạ dao xuống. “Hồ Lyn?”
Clary đã nghĩ tới cái hồ, giống như một tấm gương nâng lên ngang tầm cô, mắt nước sóng sánh vì những tác động. “Cháu đã rơi xuống hồ khi lần đầu tiên tới đây. Có gì đó về cái hồ. Chú Luke nói nó có những khả năng kỳ lạ và rằng Tộc Tiên gọi nó là Tấm Gương Mộng Tưởng.”
“Chính xác,” bác Hodge hào hứng nói. “Và rồi bác nhận ra Clave không biết điều đó, rằng những kiến thức đã phai mòn theo thời gian. Kể cả Valentine cũng không biết-” Bác bị cắt ngang bởi một tiếng rống, tiếng của tòa tháp ở góc ngoài cùng của Gard sụp đổ. Nó tạo nên một cơn mưa pháo hoa của những tia lửa đỏ lòe lòe sáng.
“Jace,” Alec nói và ngẩng đầu trong hoảng hốt. “Jace, chúng ta phải rời khỏi đây. Đứng dậy,” anh nói với bác Hodge và kéo tay bác đứng dậy. “Bác có thể nói với Clave điều bác vừa nói với bọn cháu.”
Bác Hodge run rẩy đừng trên đôi chân. Sẽ thế nào nếu như, Clary nghĩ mà trong lòng đột nhiên thấy thương hại, phải sống trong tủi hổ không chỉ vì điều bạn làm mà vì điều bạn đang làm và về điều bạn sẽ làm thêm lần nữa? Bác Hodge đã từ bỏ chuyện có một cuộc đời khác hay một cuộc sống tốt đẹp hơn từ rất lâu rồi; mọi thứ bác muốn chỉ là không phải sợ sệt, vậy mà lúc nào bác cũng sống trong cảnh nơm nớp sợ hãi.
“Đi nào.” Alec, vẫn nắm tay bác Hodge, lôi bác đi. Nhưng Jace bước tơi, chặn đường cả hai người.
“Nếu Valentine có được Gương Thánh,” anh nói, “thì sao nào?”
“Jace,” Alec nói, vẫn nắm tay bác Hodge, “không phải bây giờ-”
“Nếu bác nói cho Clave biết, chúng ta sẽ không bao giờ được biết nữa,” Jace nói. “Với họ, chúng ta chỉ là trẻ con. Nhưng bác Hodge nợ chúng ta điều đó.” Anh quay sang người gia sư già. “Bác nói bác nhận ra phải ngăn Valentine lại. Ngăn ông ta làm gì nào? Tấm Gương sẽ cho hắn quyền năng làm gì đây?”
Bác Hodge lắc đầu. “Bác không thể-”
“Và đừng nói dối nữa,” Lưỡi dao sáng loáng bên người Jace, bàn tay anh đang nắm chặt lấy chuôi đai. “Vì có thể bác nói dối một câu, tôi sẽ cắt một ngón tay của bác. Hoặc hai.”
Bác Hodge chùn người lại, sự sợ hãi thật sự hiện rõ trong đôi mắt. Alec có vẻ choáng. “Jace. Đừng. Đây là điều bố cậu sẽ làm. Không phải điều cậu sẽ làm.”
“Alec,” Jace nói. Anh không nhìn người bạn, nhưng giọng giống như một bàn tay tiếc nuối đang chạm lấy Alec. “Cậu thật sự không biết tớ thế nào đâu.”
Alec liếc mắt nhìn Clary bên kia bãi cỏ. Alec không thể hiểu vì sao Jace hành động thế này, cô nghĩ. Anh ấy không biết. Cô bước tới một bước. “Jace, Alec nói đúng – chúng ta có thể đưa bác Hodge xuống Sảnh và bác ấy có thể nói với Clave điều bác ấy vừa nói với chúng ta-”
“Nếu bác ấy sẵn lòng nói cho Clave nghe, bác ấy cũng đã nói rồi,” Jace quát mà không buồn nhìn cô. “Ông ta không nói đã chứng tỏ, ông ta là kẻ dối trá.”
“Clave không đáng tin!” Bác Hodge tuyệt vọng tranh cãi. “Ở đó có gián điệp - những người của Valentine – bác không thể nói cho họ Tấm Gương ở đâu. Nếu Valentine tìm thấy Tấm Gương, hắn sẽ-”
Bác không thể nào nói hết câu. Có thứ gì màu bang bạc sáng lên dưới ánh trăng, một mũi nhọn sáng lóe lên trong bóng tối. Alec hét. Đôi mắt bác Hodge mở lớn khi bác lảo đảo, tay ôm ghì lấy ngực, Khi bác ngã ra sau, Clary đã thấy lý do: chuôi một con dao dài thò ra từ lồng ngực, giống như đuôi mũi tên cắm thẳng vào mục tiêu.
Alec, nhảy về phía trước, đón lấy người gia sư già khi bác ngã, và nhẹ nhàng đặt bác xuống đất. Trông anh có vẻ tuyệt vọng, gương mặt lấm tấm máu của bác Hodge. “Jace, vì sao-”
“Không phải tớ-” Gương mặt Jace trắng bệch, và Clary nhận ra rằng anh vẫn cầm con dao, nắm chặt xuôi bên người. “Tớ…”
Simon quay tứ phía và Clary cũng quay theo, nhìn vào trong bóng tối. Đám cháy tỏa ánh sáng màu vàng cam ma mị lên bãi cỏ, nhưng ở giữa những hang cây bên sườn đồi lại rất tối – và rồi có gì đó bước ra khỏi bóng tối, một người, với mái tóc đen bù xù quen thuộc. Gã tiến tới chỗ họ, ánh sáng chiếu lên khuôn mặt và ánh lên trên đôi mắt đen của hắn; đôi mắt đó như đang rừng rực cháy vậy.
“Sebastian?” Clary nói.
Jace hoảng hốt nhìn bác Hodge rồi nhìn Sebastian đang bối rối đứng ngoài rìa khu vườn. Jace có vẻ như sửng sốt. “Anh,” anh nói. “Anh – làm chuyện kia?”
“Anh buộc phải làm,” Sebastian nói. “Nếu không ông ta sẽ giết cậu.”
“Bằng cái gì nào?” Giọng Jace lên cao và vỡ ra. “Bác ấy còn chẳng có vũ khí-”
“Jace.”Alec cắt ngang câu hét của Jace. “Tới đây. Giúp tớ lo cho bác Hodge.”
“Ông ta sẽ giết cậu,” Sebastian nhắc lại. “Ông ta sẽ-”
Nhưng Jace đã rới quỳ bên Alec, nhét con dao vào thắt lưng. Alec đang ôm bác Hodge trong vòng tay, máu giờ đã đầm đìa vạt áo trước. “Rút thanh stele khỏi túi áo anh,” anh nói với Jace. “Thử dùng chữ iratze-”
Clary, cứng đơ người vì hoảng sợ, cảm thấy Simon hơi động đậy bên cạnh. Cô quay sang nhìn và choáng váng - cậu đang trắng bệch như tờ giấy trừ hai quầng đỏ rực ở hai bên má. Cô có thể thấy những đường gân chạy ngoằn ngoèo bên dưới da, giống như một rạn san hô đẹp đẽ, nhiều nhánh. “Dòng máu,” cậu thì thào, không nhìn cô. “Mình phải tránh xa nó”
Clary vươn tay nắm lấy cổ tay áo bạn, nhưng cậu bạn giật lùi tay khỏi tay cô.
“Không, Clary, làm ơn. Để mình đi. Mình sẽ ổn; mình sẽ trở lại. Chỉ là-” Cô định giữ cậu lại nhưng cậu quá nhanh. Cậu biến mất trong bóng tối giữa những rặng cây.
“Bác Hodge-” Alec có vẻ hoảng loạn. “Bác Hodge, cố lên-”
Nhưng người gia sư bắt đầu vùng vẫy, cố tránh xa khỏi thanh stele trên tay Jace. “Không.” Gương mặt bác Hodge giờ mang màu xám xịt. Mắt bác đảo từ Jace sang Sebastian, người vẫn đang đứng trong bóng tối. “Jonathan-”
“Jace,” Jace nói, gần như thì thào. “Gọi cháu là Jace.”
Bác Hodge nhìn anh. Clary không thể giải nghĩa nổi cái nhìn đó. Van nài, đúng, nhưng còn có gì khác nữa, ngập tràn cùng nỗi sợ, hoặc cái gì tương tự, và còn cả sự cần thiết. Bác giơ một bàn tay lên. “Không phải cháu,” bác thì thào và máu ứa ra khỏi miệng bác theo từng lời nói.
Gương mặt Jace thoáng hiện vẻ đau thương. “Alec, viết iratze – em không nghĩ bác ấy muốn em đụng vào.”
Tay bác Hodge nắm chặt lấy tay áo Jace. Hơi thở hổn hển của bác nghe ồ ồ. “Cháu chưa – chưa bao giờ-”
Và bác ra đi. Clary có thể thấy được khoảnh khắc sự sống lìa bỏ bác. Nó không phải một thứ im lặng, chớp nhoáng như trong phim; giọng bác nghẹn lại thành tiếng òng ọc và mắt trợn ngược rồi bác mềm oặt và nặng trịch, tay buông thõng bên người. Alec dùng đầu ngón tay vuốt mắt bác. “Tạm biệt, Hodge Starkweather.”
“Ông ta không đáng hưởng điều đó.” Giọng Sebastian vang lên sắc lạnh. “Ông ta không phải Thợ Săn Bóng Tối; ông ta là kẻ phản bội. Ông ta không xứng được trăng trối.
Alec ngẩng phắt lên. Anh đặt bác Hodge xuống mặt cỏ và đứng dậy, đôi mắt xanh lam lạnh như đá. Máu dính đầy trên áo anh. “Cậu chẳng hiểu gì hết. Cậu đã giết chết một người không mang vũ khí, một Nephilim. Cậu là quân sát nhân.”
Vành môi Sebastian cong lên. “Anh tưởng tôi không biết ông ta là ai sao?” Anh ta ra hiệu về phía Hodge. “Starkweather đã từng ở trong Circle. Ông ta phản bội Clave rồi bị nguyền rủa. Ông ta phải chết để đền tội, nhưng Clave đã quá khoan hồng – và rồi họ nhận được gì nào? Ông ta lại phản bội chúng ta một lần nữa khi bán chiếc Cốc Thánh cho Valentine để được xóa bỏ lời nguyền - một lời nguyền mà ông ta đáng phải chịu.” Anh ta dừng lại, thở mạnh. “Đúng là tôi không nên giết ông ta, nhưng anh không thể nói rằng ông ta không xứng đáng bị giết được.”
“Anh hiểu bác Hodge đến đâu nào?” Clary hỏi. “Và anh làm cái gì ở đây? Em tưởng anh đồng ý ở lại Sảnh.”
Sebastian lưỡng lự. “Em đi quá lâu,” cuối cùng anh ta nói. “Anh lo lắng. Anh nghĩ em cần giúp anh giúp.”
“Vậy nên anh quyết định giúp bọn em bằng cách giết một người mà bọn em đang trò chuyện cùng?” Clary hỏi. “Vì anh nghĩ ông ta có một quá khứ xấu? Ai – Ai lại đi làm chuyện đó chứ? Em không hiểu nổi.”
“Em không hiểu vì cậu ta đang nói dối,” Jace nói. Anh đang nhìn Sebastian - một cái nhìn dò xét, lạnh lùng. “Và không nói dối giỏi lắm. Tôi tưởng ở đây anh sẽ nhanh chân hơn một chút chứ, Verlec.”
Sebastian thoải mái đón nhận ánh mắt Jace. “Tôi không hiểu cậu định nói gì, Morgenstern.”
“Cậu ấy muốn nói,” Alec, bước lên một bước, “rằng nếu cậu thực sự nghĩ cậu giết bác Hodge vì lẽ công bằng, cậu sẽ không ngại gì mà tới Sảnh Hiệp định cùng chúng tôi và tự mình giải thích với Hội Đồng. Đúng không nào?”
Một giấy trôi qua trước khi Sebastian mỉm cưởi - một nụ cười từng quyến rũ Clary, nhưng giờ nó có gì đó không đúng, giống như một bức tranh bị treo lệch trên tường. “Tất nhiên là không.” Anh ta chậm rãi bước về phía họ, khá là thong thả, như thể chẳng có gì trong thế giới này làm anh ta lo lắng nổi. Như thể anh ta chưa hề tước đi mạng sống của ai. “Tất nhiên,” anh ta nói, “Tôi thấy lạ vì anh buồn về chuyện tôi giết chết Hodge, trong khi vừa lúc nãy Jace lên kế hoạch cắt từng ngón tay ông ta.”
Alec mím môi. “Cậu ấy sẽ không làm vậy.”
“Anh-” Jace nhìn Sebastian với vẻ thù địch. “Anh không biết anh đang nói gì đâu.”
“Hoặc có thể,” Sebastian nói, “cậu bực bội vì tôi đã hôn em gái cậu. Vì em ấy muốn tôi.”
“Em không hề,” Clary nói, nhưng chẳng ai thèm nhìn cô. “Em không hề muốn anh.”
“Cậu có biết Clary có một thói quen nho nhỏ chứ - là miệng hơi hé mở khi cậu hô, như thể bị bất ngờ vậy?” Sebastian đã dừng lại, ngay trước mặt Jace và cười như một thiên thần. “Nó khá dễ thương; hẳn cậu phải để ý thấy nhỉ.”
Jace có vẻ như muốn nôn. “Em gái tôi-”
“Em gái cậu?” Sebastian nói. “Đúng không nhỉ? Vì cả hai không cư xử giống thế. Cậu nghĩ những người khác không nhìn thấy cách hai người nhìn nhau sao? Cậu nghĩ cậu có thể giấu diếm cảm xúc? Cậu nghĩ mọi người không hề thấy thứ cảm xúc giữa hai người tởm lợm và loạn luân thế nào à? Bởi vì sự thực là thế đó.”
“Đủ rồi.” Jace như muốn giết người.
“Vì sao anh làm điều này?” Clary nói. “Sebastian, vì sao anh nói tất cả những điều đó?”
“Vì cuối cùng tao đã có thể nói,” Sebastian nói. “Mày không biết cảm giác đó như thế nào, khi ở quanh các người trong suốt mấy ngày qua, giả vờ rằng tao có thể chịu nổi mày. Vẻ ngoài của mày không phải thứ làm tôi buồn ói – Mày,” anh ta nói với Jace, “mỗi giây mày không đuổi theo cô em gái thì cũng liên mồm oán thán về chuyện ông già chẳng yêu thương gì mày. Ừ thì, ai có thể trách ông ta được chứ? Và cô, đồ chó cái ngu ngốc” - hắn quay sang Clary – “đưa cuốn sách vô giá đó cho một thằng pháp sư nửa người nửa ngợm; trong cái đầu nho nhỏ của cô có tí tế bào thần kinh nào không? Còn mày-” Anh ta chuyển cái nhìn độc địa về phía Alec. “Tao nghĩ tất cả đều thấy mày có vấn đề chỗ nào. Họ không nên để những kẻ như mày tồn tại trong Clave. Mày thật tởm lợm.”
Mặt Alec xanh lét, dù anh có vẻ ngạc nhiên nhiều hơn. Clary không trách anh được – khó mà có thể nhìn vào Sebastian, nhìn nụ cười như thiên thần mà tưởng tượng ra hắn có thể thốt ra những lời vừa rồi. “Giả bộ yếu quý chúng tôi? Cô nhắc lại. “Nhưng vì sao anh phải giả bộ trừ khi anh - trừ khi anh đang theo dõi chúng tôi,” cô nói hết câu, nhận ra sự thật ngay khi nói. “Trừ khi anh là gián điệp của Valentine.”
Gương mặt đẹp của Sebastian giần giật, đôi môi trái tim mím lại, đôi mắt dài, đẹp nheo lại. “Và cuối cùng chúng cũng hiểu,” hắn nói. “Tao thề, những xứ quỷ dù tối đến đâu cũng không thể tối dạ bằng lũ chúng mày.”
“Có thể tất cả bọn tao không sáng dạ cho lắm,” Jace nói, “nhưng ít nhất chúng tao còn sống.”
Sebastian nhìn anh trong sự kinh tởm. “Tao còn sống chứ,” hắn chỉ ra.
“Không lâu đâu,” Jace nói. Ánh trăng dội vào lưỡi dao khi anh lao về phía Sebastian, chuyển động quá nhanh chỉ như một cái bóng, nhanh hơn bất cứ chuyển động nào thuộc về con người mà Clary từng thấy.
Cho tới bây giờ.
Sebastian nhảy sang bên, tránh cú đâm và nắm lấy tay cầm dao của Jace. Con dao rơi xuống đất, và rồi Sebastian đã nắm lấy lưng áo khoác của Jace. Hắn nhấc anh lên và ném bay đi bằng sức mạnh phi thường. Jace bay trong không trung, đập mạnh vào bức tường của Gard với lực đủ để gãy xương, và nằm sóng soài trên mặt đất.
“Jace!” Trước mắt Clary chỉ còn màu trắng. Cô muốn lao về phía Sebastian để bóp cổ hắn. Nhưng hắn bước sang bên và phẩy tay như thể đuổi ruồi. Lực tác động tát thẳng vào một nửa bên đầu, khiến cô loạng choạng ngã. Cô lăn người, chớp mắt trước màn sương đỏ của đau đớn che phủ trước mắt.
Alec đã rút cây cung khỏi lưng; mũi tên đã căng trên dây. Tay anh không hề run khi nhắm về phía Sebastian. “Đứng im tại chỗ,” anh nói, “và đặt tay ra sau đầu.”
Sebastian cười. “Mày không thể bắn nổi tao đâu,” hắn nói. Hắn tiến về phía Alec với những bước chân lười nhác, phóng túng, như thể đang sải bước lên bậc tam cấp dẫn tới cửa nhà hắn.
Alec nheo mắt. Tay anh giơ lên trong hàng loạt những cử động đẹp mắt; anh kéo dây cung và thả. Mũi tên xé gió bay về phía Sebastian-
Và trượt. Sebastian đã cúi tránh hay di chuyển thế nào đó, Clary không nhìn rõ và mũi tên vụt qua hắn, cắm phập vào một thân cây. Alec chỉ có một khoảnh khắc ngạc nhiên trước khi Sebastian tiến tới, giằng cây cung ra khỏi tay anh. Sebastian giật và bẻ gãy làm đôi, và âm thanh đó làm Clary nhăn mặt vì có cảm giác cô như nghe thấy tiếng xương gãy. Cô cố kéo mình vào tư thế ngồi, lờ đi cơn đau lộng óc trong đầu. Jace nằm cách cô vài foot, cực kỳ im lặng. Cô cố ngồi dậy, nhưng dường như không hoạt động bình thường.
Sebastian ném hai nửa cây cung gẫy vụn sang bên và áp sát Alec. Alec đã giơ con dao thiên thần ra, sáng loáng trên tay, nhưng Sebastian quạt nó ra khi Alec tiến tới – gạt nó sang và nắm lấy cổ họng Alec, gần như nâng anh khỏi mặt đất. Hắn bóp cổ Alec một cách không thương tiếc, cười toe toét khi Alec bị nghẹn thở và vùng vẫy. “Lightwood,” hắn thở ra. “Hôm nay tao đã lo liệu cho một đứa trong bọn mày rồi. Tao không nghĩ tao may mắn đến nỗi có được đứa thứ hai.”
Hắn giật lùi lại, như một con rồi bị kéo dây. Được thả ra, Alec ngồi sụp xuống đất, hai tay ôm lấy cổ. Clary có thể nghe tiếng thở hổn hển, tuyệt vọng của anh – nhưng đôi mắt cô vẫn dán vào Sebastian. Một bóng đen bám trên lưng hắn và đang trèo lên như một con đỉa. Hắn ôm lấy cổ họng, khạc nhổ và nghẹt thở khi quay tại chỗ, nắm lấy thứ đang bám trên cổ họng. Khi hắn quay lại, ánh trăng chiếu trên người hắn và Clary thấy đó là gì. Đó là Simon. Bàn tay cậu đang giữ rịt lấy cổ Sebastian, hai cái răng cửa trắng ởn sáng lên như những mũi kim bằng xương. Đó là lần đầu tiên Clary thấy cậu thực sự trở thành ma cà rồng kể từ cái đêm cậu ngoi dậy khỏi ngôi mộ, và cô nhìn trong sự lạ lẫm kinh hoàng, không thể nhìn đi nơi khác. Đôi môi cậu vén lên để lộ ra những chiếc răng dài và sắc như dao găm. Cậu cắm phập răng vào cẳng tay Sebastian, tạo ra những vết rách dài đỏ máu trên da hắn.
Sebastian hét lớn và ngã ra sau, đập mạnh lưng xuống đất. Hắn lăn người, Simon nửa người đè trên người hắn, cả hai đang giữ lấy nhau, cắn xé và gầm ghè như hai con chó trong trận đấu chó. Sebastian chảy máu ở vài chỗ khi cuối cùng cũng loạng choạch đứng dậy được và đá hai cú đau điếng vào lồng ngực Simon. Simon thối lui, ôm lấy ngực. “Đồ mạt rệp nhỏ xíu khốn nạn,” Sebastian gầm ghè, co chân chuẩn bị cho một cú đá nữa.
“Không phải,” một giọng nói bình tĩnh vang lên.
Clary ngẩng phắt đầu, khiến cơn đau nổ đom đóm mắt. Jace đứng cách Sebastian vài foot. Gương mặt anh đầm đìa máu, một con mắt bị sung húp gần như không mở nổi, nhưng trong môt tay đang cầm con dao thiên thần sáng loáng, và tay đó giơ dao rất vững vàng. “Tao chưa bao giờ dùng cái này để giết người,” Jace nói. “Nhưng tao vui lòng thử.”
Gương mặt Sebastian giật giật. Hắn liếc nhìn Simon một lần nữa rồi ngửa đầu và nhổ toẹt một bãi nước bọt. Lời hắn nói sau đó bằng thứ ngôn ngữ mà Clary không nhận biết – và rồi hắn quay lại với sự uyển chuyển đáng sợ như khi tấn công Jace, và biến mất trong bóng tối.
“Không!” Clary hét, Cô cố đứng dậy, nhưng cơn đau như một mũi tên cắm xuyên qua não cô. Cô co người trên bãi cỏ ướt. Một lát sau Jace đã ngồi trước mặt cô, gương mặt trắng bệch và lo lắng. Cô ngước nhìn, trước mắt mọi thứ đều nhạt nhòa – tầm nhìn của cô đang bị nhòe đi, hay cô không bao giờ tưởng tượng ra nổi luồng sáng bao bọc quanh anh, một thứ ánh sáng-
Cô nghe thấy giọng Simon và Alec, rồi có gì đó được chuyền cho Jace – một thanh stele. Tay cô bỏng giẫy, và một lát sau cơn đau bắt đầu đỡ dần, và đầu cô tỉnh táo lại. Cô chớp mắt nhìn ba gương mặt phía trước. “Đầu em-”
“Em bị chấn động,” Jace nói. “Iratze giúp em đỡ đau, nhưng bọn anh cần phải đưa em tới gặp bác sĩ của Clave. Nhưng vết thương ở đầu có thể dẫn tới những hậu quả khôn lường.” Anh trả thanh stele cho Alec. “Em nghĩ em đứng dậy được không?”
Cô gật đầu. Đó quả là một sai lầm. Cơn đau lại chạy dọc người cô khi bàn tay giơ xuống và đỡ cô đứng dậy. Simon. Cô mừng rỡ dựa vào người cậu, đợi sự cân bằng trở lại với cơ thể. Cô vẫn cảm thấy có thể bị ngã bất cứ lúc nào. Jace đang nhăn mặt. “Em không nên tấn công Sebastian. Em còn chẳng có vũ khí. Em nghĩ cái gì vậy?”
“Điều mà tất cả bọn tớ đều nghĩ.” Alec, đột nhiên đỡ lời cho cô. “Rằng hắn đã ném cậu bay trong không khí như một quả bóng mềm. Jace, tớ chưa từng thấy ai có thể trên cơ cậu tới mức độ đó.”
“Tớ - hắn làm tớ bất ngờ thôi,” Jace nói có chút lưỡng lự. “Hắn phải được huấn luyện đặc biệt. Tớ không nghĩ tới điều đó.”
“Ờ, đúng.” Simon chạm vào lồng ngực, nhăn mặt. “Tớ nghĩ hắn đá gãy mấy cái xương sườn của tớ rồi. Ổn thôi mà,” cậu bổ sung khi nhìn thấy sự lo lắng của Clary. “Chúng đang lành rồi. Nhưng Sebastian quả là mạnh. Thực sự mạnh.” Cậu nhìn Jace. “Cậu nghĩ hắn đứng trong bóng tối bao lâu rồi?”
Jace có vẻ nghiêm túc. Anh nhìn những hàng cây ở phía Sebastian vừa bỏ đi. “À, Clave sẽ tóm được hắn – và có thể nguyền rủa hắn. Tớ thích xem cảnh họ dùng cùng một lời nguyền với bác Hodge trên hắn. Thế mới là công bằng chứ.”
Simon quay mắt và nhổ nước bọt lên bụi cây. Cậu quệt ngang miệng và gương mặt trở nên nhăn nhó. “Máu hắn có vị không tốt – như thuốc độc vậy.”
“Tớ nghĩ chúng ta có thể bổ sung điều đó là danh sách những phẩm chất quyến rũ của hắn,” Jace nói. “Tớ đang tự hỏi xem tối nay hắn còn định làm gì nữa.”
“Chúng ta cần trở lại Sảnh.” Alec đang căng thẳng, và Clary nhớ đã nghe Sebastian nói gì đó với anh, cái gì đó về một người nhà Lightwood khác-“Em đi được không, Clary?”
Cô rời khỏi Simon. “Em đi được. Còn bác Hodge thì sao? Chúng ta không thể bỏ bác ấy lại.”
“Phải thế thôi,” Alec nói. “Rồi chúng ta sẽ trở lại nếu sống sót qua đêm nay.”
Khi họ rời khu vườn, Jace dừng lại, cởi áo khoác và phủ lên thi thể bác Hodge, che gương mặt bác. Clary muốn tới bên anh, đặt tay lên vai anh, nhưng có gì đó ở anh nói với cô đừng làm vậy. Kể cả Alec cũng không tới gần hay đề nghị dùng chữ rune trị thương, dù Jace đang cà nhắc đi xuống đồi.
Họ cùng nhau đi xuống con đường mòn chạy theo hình chữ chi, vũ khí rút ra trong tư thế sẵn sàng, bầu trời đỏ rực vì đám cháy tại Gard đằng sau. Nhưng họ không thấy quỷ. Sự im ắng và ánh sáng chói mắt làm đầu Clary đau đau; cô cảm thấy như đang mơ. Sự kiệt sức buộc chặt lấy cô như một cái mỏ cặp. Chỉ đặt một chân lên trước thôi là như thể nâng cả một tảng bê tông rồi đặt xuống, hết lần này tới lần khác. Cô có thể nghe thấy tiếng Jace và Alec nói chuyện trên đường, giọng họ văng vẳng như từ xa vọng tới dù họ nói khá to.
Alec đang nói nhẹ ngàng, gần như cầu khẩn: “Jace, cái cách cậu nói chuyện ở trên đó, với bác Hodge. Cậu không thể nghĩ như vậy được. Là con trai của Valentine, không thể biến cậu thành một con quái vật. Dù hắn làm gì cậu khi cậu còn là một đứa nhỏ, dù hắn dạy cậu những gì, cậu cũng không thế thấy đó là lỗi của cậu được-”
“Tớ không muốn nói chuyện về điều này, Alec. Không phải bây giờ, không bao giờ hết. Đừng hỏi tớ về vấn đề này nữa.” Giọng Jace thật cay nghiệt, và Alec im lặng.
Clary có cảm thấy sự tổn thương của anh. Quả là một đêm dài, Clary nghĩ. Một đêm với quá nhiều đau đớn cho tất cả. Cô cố không nghĩ tới bác Hodge, tới những lời cầu xin, tới cái vẻ thương hại trên mặt bác khi bác mất. Cô không thích bác Hodge, nhưng bác không đáng với cái điều Sebastian đã làm. Không ai đáng cả. Cô nghĩ tới Sebastian, tới cái cách hắn ta di chuyển, giống như tia lửa điện. Cô chưa thấy ai trừ Jace di chuyển như thế. Cô muốn tìm ra sự thật – chuyện gì đã xảy ra với Sebastian chứ? Sao một người họ hàng nhà Penhallow có thể trở nên điên cuồng mà họ lại không nhận ra? Cô nghĩ tới việc hắn muốn giúp cô cứu mẹ, nhưng hắn chỉ muốn lấy cuốn Sách Trắng cho Valentine. Magnus đã lầm – không phải vì nhà Lightwood mà Valentine biết được về Ragnor Fell. Đó là vì cô đã nói cho Sebastian nghe. Sao cô có thể ngu ngốc tới nhường đó chứ?
Mặt mũi xanh xao, cô không hề để ý tới đường mòn đã biến thành đại lộ, dẫn họ vào thành phố. Những con phố vắng tanh, nhà cửa tối om, rất nhiều những ngọn đèn đường phù thủy đã bị đập vỡ, những mảnh kính vương vãi trên đường lát đá cuội. Những giọng nói vang lên rõ ràng, như từ xa vọng lại, và những ánh đuốc xuất hiện đó đây giữa những bóng tối giữa các tòa nhà, nhưng-
“Ngoài này im lặng ghê quá,” Alec nói, ngạc nhiên nhìn quanh. “Và-”
“Nó không bốc mùi quỷ.” Jace nhíu mày. “Kỳ lạ. Đi nào. Chúng ta tới Sảnh thôi.”
Dù Clary chỉ hơi chờ đợi một vụ tấn công, họ không thấy lấy một con quỷ nào khi đi lại trên đường phố. Ít nhất không phải những con còn sống – dù khi họ đi qua một con hẻm hẹp, cô thấy một nhóm ba bốn Thợ Săn Bóng Tối đang tụ tập thành vòng tròn xung quanh một cái gì đó đang co giật trên mặt đất. Họ đang lần lượt đâm nó bằng những cây gai nhọn, dài. Clary rùng mình, quay đi.
Sảnh Hiệp Định được thắp sáng như trong một buổi lửa trại, ánh sáng của đèn phù thủy ùa ra qua các cánh cửa và cửa sổ. Họ vội vã lao lên cầu thanh, Clary định thần lại khi loạng choạng. Cơn chóng mặt của cô càng lúc càng tệ. Thế giới dường như đang chao đảo xung quanh cô, như thể cô đang đứng trong một quả cầu quay. Trên cô, những vì sao tạo thành một dải trắng vắt ngang bầu trời. “Cậu nên nằm xuống,” Simon nói, rồi, khi cô không nói gì, “Clary ơi?”
Với một sự nỗ lực lớn lao, cô buộc mình mỉm cười với bạn. “Mình ổn mà.”
Jace, đứng ở lối vào Sảnh, im lặng nhìn cô. Dưới ánh mắt chói mắt của đèn phù thủy, máu trên gương mặt anh và con mắt sưng vù trông xấu xí, đen sì và bẩn thỉu.
Có những tiếng gầm nho nhỏ trong Sảnh, những tiếng thì thầm to nhỏ của hàng trăm người. Với Clary, nó nghe như nhịp đập của một quả tim khổng lồ. Ánh sáng những cây đuốc trên giá, hòa cùng ánh sáng của đèn phù thủy tỏa đi mọi ngóc ngách, khiến cô đau mắt và nhìn không rõ ràng; cô chỉ thấy những hình dáng mờ mờ, những hình dáng và màu sắc nhạt nhòa. Trắng, vàng và bầu trời bên trên, chuyển từ đen sang xanh nhạt hơn. Giờ đã là mấy giờ đêm rồi?
“Anh không thấy họ.” Alec, lo lắng nhìn quanh phòng tìm người thân, nghe như thể cách đó cả trăm dặm, hoặc sâu dưới nước. “Giờ họ đáng ra phải ở đây rồi-”
Giọng anh nhỏ đi khi cơn choáng váng của Clary tệ hơn. Cô đặt tay lên cây cột gần đó để đứng vững. Một bàn tay vuốt dọc lưng cô – Simon. Cậu đang nói gì với Jace, có vẻ căng thẳng. Giọng cậu nhỏ lại thành hàng tá cái gì đó, lên bổng xuống trầm quanh cô như những cơn sóng.
“Chưa bao giờ thấy cái gì tương tự. Nhưng con quỷ chỉ quay lưng và bỏ đi, chỉ biến mất mà thôi.”
“Có lẽ là vì bình minh lên. Chúng sợ ánh mặt trời, và giờ không còn muộn nữa.”
“Không, còn hơn thế.”
“Cậu chỉ không muốn nghĩ rằng chúng sẽ quay lại vào tối mai, hoặc tối ngày kia thôi.”
“Đừng nói vậy; không có lý gì để nói thế. Họ sẽ dựng kết giới lại.”
“Và Valentine sẽ lại hạ chúng xuống.”
“Có lẽ điều đó không tốt hơn điều chúng ta đáng được hưởng. Có lẽ Valentine đúng – có lẽ làm đồng mình với cư dân Thế Giới Ngầm có nghĩa rằng chúng ta sẽ mất đi sự chúc phúc của Thiên Thần.”
“Im mồm đi. Tôn trọng người ta tí chứ. Họ đang đếm số người chết tại Quảng Trường Thiên Thần.”
“Họ đây rồi,” Alec nói. “Đằng kia, cạnh bục, có vẻ như-”
Giọng anh lạc đi, và rồi anh đi mất, lách qua đám đông. Clary nheo mắt, cố nhìn cho rõ. Tất cả những gì cô thấy là những hình dáng nhòe nhoẹt – cô nghe thấy Jace hít một hơi, và rồi, không nói thêm lời nào, lách qua đám đông để đuổi theo Alec. Clary thả tay khỏi cây cột, muốn đi theo họ, nhưng lảo đảo suýt ngã. Simon tóm lấy cô.
“Cậu cần nắm xuống, Clary,” cậu nói.
“Không,” cô thều thào. “Mình muốn biết chuyện gì đã xảy ra-”
Cô ngừng lại. Cậu đang nhìn qua cô, theo Jace, và cậu có vẻ choáng váng. Dựa vào cây cột, cô nhón chân, cố nhìn qua đám đông-
Nhà Lightwood, họ ở đằng kia: cô Marsye đang ôm lấy Isabelle, người đang khóc thút thít, và chú Robert Lightwood đang ngồi bệt trên đất và ôm gì đó – không, ai đó, và Clary nghĩ tới lần đầu tiên cô gặp Max, tại Học Viện, nằm im lìm say ngủ trên ghế dài, gọng kính lệch lạc và tay buông thõng trên sàn. Thằng bé bạ đâu ngủ đây, Jace đã nói vậy, và giờ trông thằng bé gần như đang ngủ trong lòng bố, nhưng Clary biết rằng sự thật không phải vậy. Alec đang quỳ gối, nắm lấy bàn tay Max, nhưng Jace vẫn đứng tại chỗ, không nhúc nhích, và hơn tất cả, trông anh như bị mất phương hướng, như thể không biết anh đang ở đâu hay đang làm gì. Tất cả những gì Clary muốn là chạy tới bên anh và ôm lấy anh, nhưng vẻ mặt Simon cùng những ký ức về khoảng thời gian ở trang viên và vòng tay Jace ôm cô tại đó đã ngăn cô lại. Cô là người cuối cùng trên trái đất có thể an ủi anh.
“Clary,” Simon nói, nhưng cô đã chạy xa khỏi cậu, mặc cho cơn chóng mặt và đau đầu. Cô chạy ra khỏi cửa Sảnh và đẩy cửa, chạy xuống những bậc thang và đứng tại đó, hít từng ngụm không khí lạnh lẽo. Ở đằng xa, đường chân trời đanh sáng lên ánh lửa đó, những vì sao đang mờ đi vì bầu trời đang sáng dần. Đêm đã qua. Bình mình đang tới