Lockridge thả McCaleb xuống vỉa hè Phố Cabrillo, cách vũng neo thuyền chừng non cây số. Quãng đường còn lại ông đi bộ, nép vào dưới bóng râm dãy cửa hàng nhỏ ven đại lộ. Kế hoạch của họ là Buddy sẽ để chìa khóa lại trong chiếc Taurus rồi đi về thuyền như thể mọi thứ trong cuộc sống anh ta vẫn đều đều như thường lệ. Nếu Lockridge thấy có gì bất thường, có ai đó lảng vảng quanh vũng neo thuyền mà anh ta không nhận ra là ai, anh ta sẽ phải nhấp nháy ngọn đèn trên cột buồm chiếc Xuống Đáy Hai Lần. McCaleb sẽ thấy được ánh đèn đó từ khá xa và tránh lại gần.
Khi bắt đầu thấy được vũng neo thuyền, McCaleb lia mắt nhìn chóp đỉnh hàng chục cột buồm. Trời đã tối song ông chẳng thấy ánh đèn nào. Mọi chuyện xem ra xuôi chèo mát mái. Ông liếc quanh thì thấy có một điện thoại công cộng bên ngoài một siêu thị mini, liền đi lại đó để gọi cho Lockridge, đằng nào thì cũng cần phải gọi. Làm thế ông cũng có cơ hội để đặt cái túi da nặng trịch xuống một chút. Buddy nhấc máy ngay lập tức.
“Có an toàn không?” McCaleb hỏi, nhớ lại một câu trong một bộ phim ông rất thích từ vài năm trước.
“Chắc là có,” Buddy nói. “Tôi chả thấy ai, cũng chẳng ma nào túm lấy tôi nơi lối vào. Cũng chả thấy cái gì kiểu như ô tô của cớm không mang huy hiệu đỗ trong bãi xe cả.”
“Thuyền của tôi trông ra sao?”
Có một chút im lặng trong khi Buddy nhìn quanh.
“Vẫn đó thôi. Coi bộ người ta đã chăng băng màu vàng giữa hai cầu tàu, kiểu như là anh sẽ không được vào trong đó hay sao ấy.”
“Được rồi, Bud, tôi vào đây. Tôi sẽ vào trong nhà giặt là trước rồi nhét túi xách của tôi vào một trong mấy cái máy sấy. Nếu tôi vào trong thuyền mà bị họ chộp bất ngờ thì anh tới lấy cái túi rồi ngồi canh cho đến khi tôi thoát được. Đồng ý chứ?”
“Chắc rồi.”
“OK, nghe này. Nếu mọi chuyện êm xuôi trên thuyền, tôi sẽ không ở lại lâu, nên tôi sẽ nói điều này ngay bây giờ, cám ơn anh vì tất cả, Buddy ạ, anh đã giúp tôi nhiều lắm.”
“Không hề gì đâu, bạn. Tôi cóc cần biết mấy thằng con hoang đó đang cố làm gì anh. Tôi biết anh cừ lắm.”
McCaleb cảm ơn anh ta lần nữa rồi gác máy, đoạn nhặt túi lên, cắp dưới nách mà đi về vũng neo thuyền. Đầu tiên ông lẻn vào nhà giặt và tìm thấy một máy sấy rỗng để giấu cái túi. Đoạn ông đi về thuyền của mình mà chẳng gặp rắc rối gì. Trước khi mở khóa cánh cửa trượt, ông nhìn quanh vũng một lần cuối thì chẳng thấy có gì không ổn, chẳng có gì xem ra cần cảnh giác. Ông nhận thấy dáng người đen thẫm của Buddy Lockridge ngồi nơi buồng lái chiếc Xuống Đáy Hai Lần. Ông nghe tiếng một điệu vê nốt wah-wah của kèn harmonica, liền gật đầu về phía cái bóng kia. Đoạn ông đẩy cửa mở ra.
Thuyền bốc mùi ngột ngại ôi oai nhưng vẫn có chút mùi nước hoa phảng phất còn sót lại. Ông đoán rằng Jaye Winston đã để lại mùi ấy. Ông không bật đèn mà thò tay tìm cây đèn pin chèn vào vào mặt dưới bàn vẽ hải đồ. Ông bật đèn lên rồi lia xuống bên cạnh mình và chĩa xuống sàn. Ông chui xuống dưới hầm, biết mình phải di chuyển cho nhanh. Ông chỉ muốn vơ vội ít quần áo, thuốc men và dự trữ y tế đủ dùng trong vài ngày. Ông hình dung rằng, dù thế nào đi chăng nữa, chừng đó là toàn bộ thời gian mình có được.
Ông mở một trong các cửa hầm dọc hành lang rồi lấy cái túi xách to ra. Đoạn ông vào phòng ngủ chính lấy số quần áo mình cần. Việc đó phải làm lén lút dưới ánh đèn pin cho nên chậm hẳn đi, nhưng cuối cùng ông cũng lấy được thứ mình cần.
Khi đã xong, ông xách túi đi qua hành lang về phía mũi thuyền để lấy thuốc men, dụng cụ y tế và cái kẹp hồ sơ. Ông đặt cái túi để mở xuống bồn rửa bát, và đã toan cho các hộp và lọ thuốc vào đó thì chợt nhận ra một điều gì. Khi băng qua hành lang, có một ngọn đèn ở phía trên. Đèn trong bếp. Hoặc có thể một trong các đèn trần ở phòng khách. Ông lập tức điếng người, liền cố lắng nghe xem có tiếng động nào từ trên kia không, đồng thời xét lại xem nãy giờ chính mình đã làm gì. Ông tin chắc rằng ban nãy khi bước vào mình đã không bật một ngọn đèn nào.
Ông lắng nghe đến gần nửa phút nhưng chẳng có gì. Ông nhanh chóng lùi lại vào hành lang rồi nhìn lên cầu thang. Ông đứng im thin thít, vừa lắng nghe lần nữa vừa cố cân nhắc xem mình có những lựa chọn nào. Lối duy nhất để thoát ra ngoài nếu không phải lên lại cầu thang là dùng cửa hầm dẫn lên boong nơi mái phòng ngủ đằng trước. Nhưng nếu cho rằng kẻ nào đó trên kia chưa phát hiện ra cái lối thoát đó thì thật ngu xuẩn.
“Buddy,” ông gọi. “Anh đấy à?”
Câu trả lời phải mãi một hồi lâu mới cất lên.
“Không, không phải Buddy, Terry ạ.”
Một giọng nữ. McCaleb nhận ra giọng đó.
“Jaye à?”
“Sao anh không lên đây?”
Ông nhìn lại chỗ đầu thuyền. Cây đèn pin đang nằm trong cái túi to, chẳng soi sáng gì mấy ngoài những thứ nằm trong túi. Còn thì ông hoàn toàn chìm trong bóng tối.
“Tôi lên đây.”
Chị ngồi trên chiếc ghế xoay có đệm gần cái bàn uống cà phê bằng gỗ tếch. Rõ là hồi nãy ông đã đi ngang qua chị trong bóng tối. Ông nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế cùng bộ ở phía đối diện.
“Chào Jaye.
Công việc thế nào?”
“Chưa có khi nào tệ hại như thế này.”
“Tôi cũng vậy. Sáng nay tôi đã định gọi cho chị.”
“Thì tôi ở đây rồi.”
“Còn bạn bè chị đâu?”
“Họ không phải bạn bè tôi. Và nhất định họ không phải là bạn bè anh, Terry.”
“Chẳng có vẻ gì là vậy. Thế chuyện gì đang xảy ra? Làm sao chị ở đây mà họ thì không?”
“Bởi vì thi thoảng một trong mấy thằng đần cảnh sát khu này hóa ra lại khôn hơn mấy tay ở Cục.”
McCaleb mỉm cười không chút vui vẻ.
“Chị biết trước là tôi phải về để lấy thuốc.”
Chị mỉm cười đáp lại rồi gật đầu.
“Họ đoán là anh đang trên đường tới Mexico nếu không phải là đã ở đó rồi. Nhưng tôi thấy trong tủ còn đầy thuốc nên biết là anh phải quay về. Nó như sợi dây buộc anh lại vậy.”
“Vậy giờ chị sẽ tóm tôi, sẽ bắt giữ tôi và được vinh quang.”
“Không nhất thiết.”
Thoạt tiên ông không trả lời. Ông ngẫm nghĩ những lời chị nói, tự hỏi chị đang chơi trò này theo cách nào.
“Chị nói gì vậy Jaye?”
“Tôi nói rằng trực giác bảo tôi một đằng, chứng cứ bảo tôi một nẻo. Tôi thường tin ở trực giác mình.”
“Tôi cũng thế. Chị nói tới bằng chứng nào vậy? Hôm nay người của chị tìm thấy gì ở đây?”
“Chả có gì nhiều, chỉ là một cái mũ bóng chày trên đó có logo CI. Chúng tôi đoán hai chữ ấy nghĩa là Catalina Island - Đảo Catalina, và nó khớp với mô tả của James Noone về cái mũ mà kẻ lái chiếc Cherokee đội. Rồi chẳng có gì khác nữa - cho đến khi chúng tôi mở ngăn kéo trên cùng của bàn vẽ hải đồ.”
McCaleb nhìn lên bàn về hải đồ. Ông nhớ mình đã mở ngăn kéo trên cùng để kiểm tra sau khi kẻ đột nhập bị ông dọa cho hết hồn đã bỏ chạy vào đêm đó. Trong đó nào có gì không ổn hoặc có khả năng gây hại cho ông đâu.
“Cái gì trong đó?”
“Trong á? Trong thì không. Ở bên dưới ấy. Dán vào bên dưới.”
McCaleb đứng dậy đi lại chỗ các ngăn kéo bàn vẽ hải đồ. Ông lôi hẳn ngăn kéo trên cùng ra mà lật úp xuống. Ông miết ngón tay lên chỗ dinh dính do những mẩu băng keo dày để lại. Ông mỉm cười lắc đầu. Ông nghĩ tên đột nhập kể cũng tài, chỉ trong phút chốc hắn đã kịp chui vào, lấy ra một cái gói đã đính băng keo sẵn mà dán đánh bộp vào mặt dưới ngăn kéo để mở này.
“Để tôi đoán nhé,” ông nói. “Nó là một cái túi...”
“Không. Đừng nói gì hết. Anh mà nói gì là nó có thể quay lại hại anh đấy. Tôi không muốn làm hại anh, Terry.”
“Tôi chả bận tâm gì chuyện đó. Không bận tâm nữa. Nên cứ để tôi đoán. Dưới ngăn kéo là một cái túi - túi nhựa kiểu Ziploc. Trong đó có cái hoa tai hình chữ thập lấy của Gloria Torres và một bức ảnh chụp gia đình James Cordell. Bức ảnh bị lấy khỏi xe anh ta ấy.”
Winston gật. McCaleb trở lại chỗ ngồi.
“Anh bỏ sót cái khuy măng sét của Donald Kenyon,” chị nói. “Bằng bạc thật, hình ký hiệu đồng đô la.”
“Cái đó tôi không biết. Tôi cá rằng Nevins và Uhlig cùng tay Arrango khốn nạn đó giống như là một bước lên trời khi họ phát hiện ra cái túi.”
“Bọn họ vênh váo còn phải nói,” chị nói, gật đầu. “Hể hả lắm.”
“Nhưng chị thì không.”
“Không. Thế thì dễ quá.”
Họ ngồi lặng thinh một hồi.
“Anh biết không, Terry, xem ra anh chẳng mấy bận tâm đến chuyện người ta tìm ra trên thuyền của anh bằng chứng cho thấy anh có liên quan đến ba vụ giết người. Ấy là chưa kể anh có động cơ rõ rệt để gây ra ba vụ đó.” Chị gật đầu về phía ngực McCaleb. “Thế mà bây giờ, anh xem ra chỉ hơi hơi khó chịu mà thôi. Anh có muốn cho tôi hay tại sao không?”
McCaleb cúi về phía trước, tì cùi chỏ lên đầu gối. Khi ngồi như vậy, mặt ông hiện rõ hơn dưới ánh đèn.
“Tất cả đều được sắp đặt hết, Jaye ạ. Cái mũ, cái hoa tai, mọi thứ. Đêm qua có kẻ đột nhập vào đây. Hắn chẳng lấy gì sất. Thành thử ắt là hắn phải để lại một cái gì. Tôi có nhân chứng. Tôi đang bị người ta sắp đặt để mưu hại. Tôi không biết tại sao, nhưng đây toàn là sắp đặt hết.”
“Chà, nếu anh nghĩ đó là Bolotov thì quên đi. Hắn đã vào nằm khám Van Nuys từ hôm bị tay sĩ quan chuyên giám sát hắn lâu nay tóm vào chiều Chủ nhật vừa rồi.”
“Không, tôi không nghĩ tới Bolotov. Hắn không nằm trong diện tình nghi.”
“Nói thế nghe hoàn toàn khác trước kia anh nói.”
“Các sự kiện đã loại bỏ khả năng hắn là nghi phạm. Chị nhớ chứ, tôi từng cho rằng hắn là thủ phạm vụ trộm gần nơi hắn làm việc, vụ khẩu HK P bị mất ấy. Nếu đúng vậy, hẳn là hắn sẽ cầm chính khẩu súng khiến hắn thành nghi phạm trong vụ Cordell và Torres. Nhưng vụ trộm đó xảy ra vào tháng Mười hai, gần lễ Giáng sinh. Giờ ta thêm vào đó vụ Kenyon. Anh ta bị giết bằng một khẩu P hồi tháng Mười một. Vậy thì không thể là cùng một khẩu đó; cho dù đúng là Bolotov gây ra vụ trộm ấy đi nữa. Thành thử hắn ngoài vòng khả nghi. Tuy nhiên tôi vẫn không biết vì sao hắn lại nổi cồ lên với tôi rồi bỏ chạy.”
“Thì như anh nói, rất có khả năng hắn là thủ phạm vụ trộm hồi Giáng sinh. Anh đến đấy hù dọa hắn, làm cứ như anh sắp buộc cho hắn hai ba vụ giết người. Hắn liền chạy trốn. Có thế thôi.”
McCaleb gật đầu.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với hắn?”
“Chủ của hắn sắp đâm đơn kiện thay vì đòi bồi thường cửa sổ bị vỡ. Thế đấy. Người ta sẽ thả hắn ra sau phiên tòa hôm nay.”
McCaleb lại gật đầu, mắt nhìn xuống thảm.
“Thành thử quên hắn đi, Terry, anh còn gì nữa nào?”
Ông lại ngước mắt lên nhìn chị chăm chú.
“Tôi gần tới nơi rồi. Tôi chỉ còn một hai bước nữa là có thể ráp nối tất cả lại với nhau. Giờ tôi biết hung thủ là ai rồi. Và chỉ ít hôm nữa tôi sẽ biết ai đã thuê hắn. Tôi có họ tên rồi, một danh sách các nghi phạm. Tôi biết kẻ chúng ta tìm nằm trong danh sách đó. Hãy tin ở trực giác của chị trong chuyện này, Jaye ạ. Bây giờ chị có thể cứ cho rằng tôi dính vào vụ này rồi thì kéo tôi vào và bắt giữ tôi, nhưng làm thế là sai mà cũng chả khớp sự thật nữa. Cuối cùng tôi sẽ chứng minh được điều đó. Nhưng trong lúc đó chúng ta sẽ đánh mất cái cơ hội mình đang có ngay lúc này.”
“Ai là hung thủ?”
McCaleb đứng dậy.
“Tôi phải đi lấy cái túi. Tôi sẽ cho chị xem.”
“Túi của anh đâu?”
“Trong một cái máy sấy chỗ nhà giặt của vũng thuyền. Tôi nhét nó đó. Tôi không biết khi tôi đến đây thì chuyện gì sẽ xảy ra mà.”
Chị nghĩ một thoáng.
“Cho tôi đi lấy đi,” ông nói. “Chị vẫn còn cả đống thuốc men ở đây mà. Tôi sẽ chả đi đâu hết. Nếu chị không tin tôi thì đi với tôi.”
Chị xua tay.
“Thôi được rồi, đi đi. Lấy cái túi của anh về. Tôi đợi.”
Trên đường đến chỗ nhà giặt McCaleb gặp Buddy Lockridge, anh ta đang cầm cái túi da lấy từ chỗ máy sấy ra.
“Mọi chuyện ổn chứ? Anh đã bảo tôi đi lấy cái này nếu thấy có ai đó gạ anh tòm tem chút đỉnh.”
“Mọi chuyện ổn Buddy ạ. Chắc thế.”
“Tôi không biết chị chàng này nói gì với anh, nhưng chị chàng là một trong những người có mặt ở đây hồi sáng đấy.”
McCaleb nhận túi xách từ tay anh ta rồi trở lại thuyền. Vào trong, ông bật tivi lên, đút cuốn băng quay ở Siêu thị Sherman vào đầu video rồi cho chạy. Ông tua nhanh hình rồi quan sát các cử động giật cục của hung thủ khi hắn bước vào, bắn Gloria Torres và chủ hiệu rồi biến mất. Đoạn Người Tốt bụng bước vào và McCaleb cho băng trở về tốc độ bình thường. Ngay lúc Người Tốt bụng đang lúi húi làm gì đó trên thân hình sõng sượt của Gloria mà chợt ngẩng lên, McCaleb nhấn nút ngưng, khung hình liền sững lại.
Ông chỉ người đàn ông trên màn hình tivi mà ngoái lại Jaye Winston.
“Đó. Hung thủ của chị đó.”
Chị nhìn chằm chằm vào màn hình một lúc lâu, khuôn mặt không để lộ một ý nghĩ nào.
“Được rồi, nói tôi nghe làm thế nào đó là hung thủ của tôi được?”
“Là trình tự thời gian. Arrango và Walters đã chẳng thấy gì hơn ngoài một vụ cướp và giết thông thường. Trông thì có vẻ thế thật, nên ai mà bắt bẻ họ được chứ? Nhưng bọn họ làm ăn thế là lôm côm. Họ chẳng hề bận tâm hoàn tất cho xong hay là kiểm chứng trình tự các sự kiện. Họ thấy cái gì thì cứ cho đúng là như thế. Nhưng có một chỗ mắc mứu giữa thời điểm hung thủ bước vào được ghi nhận trong cuốn video quay tại cửa hàng với thời điểm trên đồng hồ của Trung tâm khi Người Tốt bụng gọi điện tới.”
“Phải. Chuyện ấy anh có bảo tôi. Chênh lệch bao nhiêu, nửa phút gì đấy phải không?”
“Ba mươi tư giây. Theo băng video của cửa hàng thì Người Tốt bụng gọi điện báo về vụ nã súng ba mươi tư giây trước khi vụ đó xảy ra.”
“Nhưng anh có nói Walters và Arrango bảo họ không thể kiểm chứng độ chính xác của đồng hồ trên cuốn băng. Họ chỉ cho rằng nó chênh là bởi ông già - ông Kang ấy - có lẽ đã tự chỉnh.”
“Phải, họ cho là thế. Tôi thì không.”
McCaleb tua ngược băng về chỗ có thể thấy rõ đồng hồ của Chan Ho Kang khi tay ông ta duỗi ngay đơ qua quầy. Ông cho đoạn đó quay chậm, tua tới tua lui cho tới khi dòng thời gian ở mép dưới màn hình chạy đến đúng thời điểm. Ông lại dừng hình. Đoạn ông lại chỗ túi xách, lấy ra bức ảnh đã được phóng to làm rõ từ khung hình đó.
“Đây, tôi đã phân tích kỹ để phân lập chính xác thời điểm điều này xảy ra. Chị thấy cái đồng hồ chứ?”
Chị gật đầu. Ông đưa cho chị bức ảnh.
“Tôi đã nhờ một người bạn vẫn hay làm việc này việc nọ cho Cục làm rõ khung hình này lên. Bản in ra đó. Như chị thấy, thời điểm trên đồng hồ và trên cuốn băng là khớp nhau. Đến từng giây. Ông Kang ắt hẳn đã chỉnh giờ trên camera cho khớp với giờ trên đồng hồ của mình. Chị theo sát tôi đấy chứ?”
“Tôi theo sát anh. Video và đồng hồ là khớp nhau. Thế nghĩa là gì?”
McCaleb giơ tay lên làm hiệu đợi chút rồi lấy sổ ra, lật đến chỗ các ghi chú về trình tự thời gian.
“Giờ ta biết rằng theo đồng hồ của Trung tâm Truyền thông Trung ương, Người Tốt bụng gọi điện báo về vụ nã súng vào lúc ::, nghĩa là ba mươi tư giây trước khi vụ nã súng xảy ra theo giờ trên cuốn băng. OK?”
“OK.”
Ông giải thích về việc lúc chiều ông đã ghé chỗ cửa hàng, rồi sau đó đến nhà Kang, ở đó ông đã được phép tiếp cận cái đồng hồ. Ông cho chị biết rằng kể từ khi vụ án mạng xảy ra cái đồng hồ chưa hề được chỉnh lại.
“Chừng đó tôi gọi đến Trung tâm yêu cầu họ cho biết thời gian chuẩn rồi so sánh với thời gian trên cái đồng hồ ấy. Đồng hồ ấy chạy sớm hơn đồng hồ của Trung tâm vỏn vẹn bốn giây mà thôi. Vậy có nghĩa là đồng hồ trên cuốn băng chỉ sớm hơn bốn giây so với giờ của Trung tâm tại thời điểm xảy ra các vụ giết người.”
Winston nheo mắt cúi về phía trước, cố theo sát lời giải thích của ông.
“Thế có nghĩa là...”
Chị không nói hết.
“Có nghĩa là hầu như đồng hồ trên cuốn băng với đồng hồ của Trung tâm chẳng chênh nhau một tí nào, có bốn giây thôi mà. Thành thử khi Người Tốt bụng gọi điện báo về vụ nã súng lúc mười giờ bốn mốt phút ba giây theo đồng hồ của Trung tâm thì lúc đó chính xác là mười giờ bốn mốt phút bảy giây theo giờ trên cuốn băng ở cửa hàng. Chênh nhau có bốn giây thôi.”
“Nhưng không thể có chuyện đó được,” Winston vừa nói vừa lắc đầu. “Lúc đó đã có vụ nã súng nào đâu. Còn sớm quá, trước những ba mươi giây. Lúc đó thậm chí Gloria còn chưa bước vào cửa hàng nữa là. Chắc cô ta chỉ đang tấp xe vào.”
McCaleb lặng thinh. Ông để mặc chị rút ra kết luận mà không cần ông nói hay mớm ý. Ông biết nếu tự chị đi đến cùng một điểm chốt cùng đó thì tác dụng sẽ mạnh hơn.
“Vậy là,” chị nói, “cái gã này, Người Tốt bụng này, ắt hẳn đã gọi điện báo về vụ nã súng trước khi nó xảy ra.”
McCaleb gật đầu. Ông lưu ý thấy sự chăm chú ngày càng tăng trong mắt chị.
“Tại sao hắn làm thế trừ phi... hắn biết. Trừ phi hắn biết vụ nã súng sắp sửa xảy ra? Hắn - mẹ kiếp! - hắn ắt phải là hung thủ!”
McCaleb gật đầu lần nữa, song lần này với một nụ cười hài lòng trên mặt. Ông biết giờ đây chị đã ngồi cùng xe với ông. Và họ sắp sửa nhấn ga tiến tới.