Càng đi về phía Nam, khí hậu càng ấm áp, khi nhìn hai bên bờ sông còn thấy hoa dại nở rộ, cây cối xanh um tươi tốt, khiến Chiêu Linh nhận ra rằng, y đã đặt chân tới chốn cũ Vân Việt.
Đây là một mảnh đất xa lạ, lần đầu tiên y tới đây, chỉ nhớ được những điều đã từng “dò hỏi” Việt Tiềm mà thôi.
Vân Việt và Dung Quốc đã từng là kẻ thù truyền kiếp, bởi mạnh mẽ mà kiêng kị lẫn nhau, chiến loạn không dứt.
Hơn mười năm trước, Vân Việt nội loạn, Dung Quốc nhân cơ hội này thảo phát, thiên thời địa lợi nhân hoà, công phá Vân Thuỷ thành, Vương tộc Vân Việt diệt vong, đặt một dấu chấm hết cho đại quốc đã từng có mấy trăm năm lịch sử này.
Khi diệt quốc, Vân Việt đã thủng trăm ngàn lỗ, hệt như một gốc cây già mục nát, hoa lá tan tành. Dung Vương còn đang là cây to khí thịnh, chỉ dốc chút sức đã hái được trái chín.
Môn khách Vệ Bình của Thái tử chỉ về nhánh sông phía trước, lên tiếng giữa âm thanh chim hót líu lo hai bên bờ sông: “Phía trước là nơi con sông phân nhánh, đi theo hướng Tây là Mạnh Dương thành, đi về hướng Đông là tới Vân Thuỷ thành.”
“Vệ khanh đã từng tới Vân Việt sao?” Gió Nam thổi qua áo bào Chiêu Linh, y im lặng đứng trên mũi thuyền, ngắm nhìn phong cảnh.
Thân thuyền nhẹ nhàng lay động theo gió, từng toà núi xanh rì biến mất rồi lại nối đuôi nhau xuất hiện, núi sông thanh lệ, khiến người lưu luyến. Vệ Bình nói: “Đây là lần đầu tiên thần tới đây, lại hệt như đã từng đi qua vài lần, vừa quen biết vừa mới mẻ.”
Sau khi tiến vào Vân Việt, một đường nhìn ngắm, cảm thấy quả nhiên là không giống nhau, đất cảnh phong tình như có cảm giác vô cùng quen thuộc mà cũng xa lạ, hệt như cảm giác Việt Tiềm dành cho Chiêu Linh.
Thuyền lớn đi về nhánh sông rồi hướng về phía tây, thẳng tiến về trạm đầu tiên của hành trinhg — trọng trấn của chốn cũ Vân Việt, Mạnh Dương thành.
Mạnh Dương thành dựa vào phía Đông của núi Tử Đồng, toạ trong núi sâu, chính toà thành gần núi này lại có quặng mỏ quy mô lớn nhất thiên hạ.
Màn đêm thăm thẳm, thuyền thả neo bên bờ sông, Chiêu Linh chìm vào giấc ngủ, mười mấy thân ảnh thủ vệ bảo hộ bên ngoài, đề phòng nghiêm ngặt, tuần tra trắng đêm.
Chốn cũ Vân Việt vô cùng nguy hiểm, có điều một đường xuôi Nam, đám người bọn họ vẫn chưa gặp bất cứ chuyện hiểm nguy nào.
Đi một đường thường thấy thuyền Dung vãng lai qua lại, ven đường còn có trạm gác của Dung binh, Dung Quốc đặt rất nhiều cứ điểm tại Bắc bộ Vân Việt, quân trú cũng nhiều, không như nơi Nam bộ khắp nơi đều là cường đạo.
Một đường đi thẳng, mấy ngày sau thuyền cập bến phà, Chiêu Linh và tuỳ tùng đổi qua thuyền nhỏ, tiếp tục đi về phía Tây, tiến vào rừng núi Vân Việt.
Mạng lưới sông ngòi của Vân Việt vô cùng phức tạp, có rất nhiều rừng sâu núi thẳm, nếu không có ai dẫn đường chắc chắn sẽ bị lạc.
Chiêu Linh đi thuyền nhỏ, chen lẫn còn có vài con thuyền xung quanh, từng thuyền từng thuyền đều giống y hệt nhau, điểm khác biệt duy nhất là người lái trên thuyền của y không phải binh sĩ, mà là hộ vệ của Thái tử.
Vì lí do an toàn, đoạn khe suối này Chiêu Linh vẫn luôn ở trong khoang thuyền, có môn khách Vệ Bình làm bạn, giảng giả về lịch sử địa lý của Vân Việt cho y nghe.
Kiến thức của Chiêu Linh vốn đã rộng rãu, học nhiều biết rộng, mà Vệ Bình lại càng rõ về những điều thâm sâu của Vân Việt hơn y.
Đến tướng quân Dung Quốc trú tại Vân Việt cũng phải lật bản đồ mới nói được xem nơi này là chỗ nào, Vệ Bình lại không cần, đầu y như chứa đựng bản đồ khắp thiên hạ, không phải lật xem.
Thuyền nhỏ đi qua một trạm dịch cũ, từ kết cấu nóc nhà lẫn trạm dịch được xây từ đất bùn có thể thấy là phong cách của Vân Việt thời kỳ trước. Vệ Bình thò đầu ra từ khoang thuyền, lại nhanh chóng thu về rồi nói với Chiêu Linh: “Cách sáu dặm về phía Đông núi Tử Đồng, có một thành đô hoang phế, được gọi là Khư đài, người Vân Việt còn hay gọi là Tử đài. Truyền thuyết cổ xưa từng nói, tộc Đài thảo phạt người Nhung phía Tây, người Đài tinh thông luyện kim hung mãnh thiện chiến.”
Vệ Bình tiếp tục giảng giải về lịch sử địa phương, nói về những truyền thuyết lịch sử đã vô cùng cổ xưa rồi.”
Chiêu Linh nói: “Đài Quốc bị Thiêm Quốc tiêu diệt, Thiêm Quốc lại bị Việt Võ Vương của Vân Việt tiêu diệt, Vân Việt Quốc lại rơi vào tay Dung Quốc. Núi Tử Đồng giúp những quốc gia này lớn mạnh, cũng khiến những quốc gia này suy yếu, chính là do mỏ đồng chất lượng vô cùng tốt, có vũ khí chinh phạt, cho nên đều tham chiến mà chết. Đây chính là lời nhắc nhở, dù quốc gia lớn hay nhỏ, không thể không tiết chế mà bóc lột bách tính, đều sẽ tham chiến mà chết.”
Vệ Bình gật gật đầu, lại lắc lắc rồi nói: “Ngược lại, thần cho là vô số quốc gia bị thôn tính, tiêu vong đều là theo thời gian mà phát triển. Thời thượng cổ đế quốc rực rỡ, được xưng là Vạn Bang, khó có tiểu quốc được ghi lại; tới thời Đàm công của Dung Quốc, thiên hạ chỉ còn có mười mấy ba mươi bang, đến hôm nay các nước chư hầu cũng chỉ còn có mười hai nước. Nếu muốn mở rộng Dung Quốc, nhất định phải thống nhất thiên hạ.”
Bên khe suối rừng rậm um tùm, có ong có muỗi, một ngọn gió thổi qua lay sậy bên bờ hồ, vô số chim chóc bay múa, dù là ngày đông nhưng mảnh đất phương Nam này vẫn bừng bừng sinh cơ.
Chiêu Linh bùi ngùi: “Nếu thật sự có một ngày như vậy, thiên hạ sẽ không còn chiến hoả, đúc kiếm vì loạn, bách tính trong thiên hạ đều là con dân, chắc chắn sẽ là thái bình thịnh thế.”
Nghe đến thịnh thế, y vẫn chưa có cơ hội được thấy, nếu quả thật có một ngày như thế, hẳn là chuyện sau này cả trăm năm.
Đội thuyền chậm rãi tiến lên, binh lính trên thuyền cảnh giác từng khe suối và bụi lau sậy, trong bụi cây tựa như có động tĩnh, có lẽ có kẻ địch đang mai phục. Gió vừa thổi, vô số con vịt trời bay ra, lúc này binh lính mới thả lỏng cảnh giới.
Bọn họ không biết rằng, trong bụi cây quả thật có nguy hiểm, một nhánh tiểu đội binh lính Vân Việt đang nấp bên trong, ngày đêm giám thị dòng suối này, giám sát hướng đi của Dung binh.
Một ngón tay vạch bụi lay sậy lộ ra đôi mắt rồi lại nhanh chóng gạt bụi lay sậy lại, đôi mắt kia đã biến mất không thấy tăm hơi, chỉ nghe chủ nhân nói: “Mặt phía Bắc có đường mới không đi, nhiều người như vậy lại đi vào khe suối, ta thấy chắc chắn bọn họ đang muốn đi tới đường Kim Cốc, vận chuyển vật phẩm quan trọng, có lẽ là quân lương. Đáng tiếc chúng ta quá ít người, không thể cướp được nó.”
Phàn Xuân liếc mắt nhìn đối thương một cái, nói nhỏ: “Yến Thượng, ngươi ngốc à, không thấy toàn bộ người trên thuyền đều đi giày quan sao? Bên trong thuyền nhất định là đại quan rồi.”
Yến Thượng kích động nói: “Đại quan thì càng phải cướp!”
Phàn Xuân xuỳ xuỳ: “Ngươi là một nô lệ Dung Quốc, may mắn nên mới được Ba Na giải cứu, mới mấy ngày đã dám học người ta đánh cướp? Thành thật chút đi, đừng gây ra động tĩnh lớn. Ba Na đã có lệnh, chúng ta phải ở đây tuần tra đường thuỷ, không thể khiến Dung binh chú ý tới, bại lộ hành tung.”
Nhớ đến mệnh lệnh của Ba Na, lúc này Yến Thượng mới ngoan ngoãn ngậm miệng.
Chờ đội thuyền đi xa, Yến Thượng mới dám lên tiếng hỏi: “Trận thế lớn tới vậy, người được hộ tống rốt cuộc là ai?”
Hắn đã nói ra nghi vấn của rất nhiều người.
Phía trước có một bến tàu nhỏ, trên bến tàu còn có mấy Dung binh đang trông coi, cắm một cây cờ lay động theo gió.
Chiêu Linh và tuỳ tùng xuống thuyền, chuyển từ ngồi thuyền sang ngồi xe ngựa.
Hai chiếc xe ngựa rong ruổi mà đi, một nhánh nhỏ hộ vệ tuỳ tùng, hộ tống Chiêu Linh lên núi lễ Phật rồi càng đi sâu vào, đường nhỏ dưới chân dần biến thành đường lớn dẫn thẳng về Mạnh Dương thành.
Mấy năm trước, đoạn đường núi này gồ ghề vô cùng khó đi, sau đó bách tính Vân Việt đốn núi mở đường, tạo ra một con đường núi có thể đi xe ngựa được.
Dung Quốc xâm chiếm Vân Việt hơn mười năm, gặp núi mở đường, ven đường vô cùng đề phòng, cuối cùng cũng khai thông được một con đường dẫn thẳng từ mỏ đồng thau về Dung Quốc, được gọi là: Kim ngữ.
Xe ngựa đi qua đường Kim Cốc, tới Kim Cốc thành dưới chân núi.
Một đường xuôi Nam phong trần mệt mỏi, cuối cùng cũng tới Kim Cốc mới có thể chỉnh đốn tử tế lại, đi lên trước nữa đã là tới Mạnh Dương thành.
Vệ Bình bước xuống xe ngựa, ngước nhìn tường thành cao chót vót và quân đội trông giữ trên thành, khen: “Thật sự quá hùng tráng!”
Từ xa xa, Chiêu Linh đã trông thấy một đội tướng sĩ đi từ cửa thành ra, thủ tướng vội vội vàng vàng tiến lên nghênh đón.
Vệ Bình lầm bầm lầu bầu: “Từ nhỏ Vân Việt Vương đã xây dựng cửa Kim Cốc là để phòng ngự người Di dưới sông Nam Di, sau đó người Di lùi bước tiến vào Mộng trạch, cửa này liền bị bỏ đi. Dung Quốc làm chủ vân Việt, điều động hơn vạn người Vân Việt sửa chữa cửa Kim Cốc là để đề phòng người Vân Việt Nam bộ làm phản. Hơn mười năm qua, chẳng phát huy tác dụng nổi một lần.”
Không dùng được cũng không phải thứ vô dụng, chính vì có sự tồn tại của nó, nêm mặt phía Nam của núi Tử Đồng mới có yên ổn lâu dài, kinh doanh trong mỏ của núi Tử Đồng cũng chưa bao giờ bị người Vân Việt phá hoại.
Tướng sĩ trông coi mênh mông cuồn cuộn ra khỏi thành, cung nghênh sứ giả Dung Quốc đến từ Dần Đô. Trước khi nghênh đón, bọn họ còn tưởng chỉ là sứ giả phổ thông, tới khi bước ra ngoài thấy hộ vệ của Thái tử bỏ xiêm y thuyền phu đi, lộ ra bội kiếm bên hông, lúc này mới ý thức được rằng thân phận của sứ giả e là cực kỳ cao quý.
Bỏ gần lấy xa, bọn họ chọn đi qua cửa Kim Cốc là vì muốn xem xét cả địa phương phòng giữ. Cửa Kim Cốc vững như thành đồng vách sắt, tướng sĩ thủ hộ trung thành với cương vị công tác, quả là đáng được ca ngợi.
Vào trong cửa Kim Cốc cũng coi như kết thúc mấy ngày sóng gió, Chiêu Linh cũng thế mà tuỳ tùng cũng vậy, ai cũng phải nghỉ ngơi thật tốt.
Ngày hôm sau, thủ tướng cửa Kim Cốc phái một nhánh quân đội hộ tống Chiêu Linh tới Mạnh Dương thành.
Thật ra cũng không cần thiết mấy, ven đường vô cùng an toàn, trên đường lớn Dung Quốc thi thoảng lại có Dung binh đi qua. Để đảm bảo không có sơ hở nào, thủ tướng vẫn cố chấp phái quân đội hộ tống sứ giả, vị sứ giả ấy còn là Linh công tử, đệ đệ cùng một mẹ với Thái tử.
Thủ tướng biết rõ, trong phạm vi quản lý của hắn, nếu có nửa điểm sơ xuất ảnh hưởng tới Linh công tử, đầu hắn sẽ phải dọn nhà.
Còn chưa tới Mạnh Dương thành, xa xa đã thấy một dòng suối ở ngoại ô thành lớn, nhìn tựa dát bạc, uốn lượn giữa núi non trùng điệp, trải dài qua tường thành rồi chia làm vô số rễ nhỏ, nhằng nhịt khắp nơi, dò vào các góc sâu hút trong rừng tậm.
Ngoại ô Mạnh Dương thành đã từng là rừng rậm nay lại càng mênh mông hơn, dòng suối ẩn sâu vào trong rừng, như một khe suối bí ẩn tăm tối, kéo dài mấy trăm năm phục vụ cho việc luyện kim. Từ phía Tây ngoại ô hướng về sau, vô số bếp lò luyện kim được xây dựng dọc theo bên mạn suối.
Qua bao nhiêu mùa mưa, bếp lò dưới chân núi nghi ngút khói và hơi nước khắp bốn phía chung quanh, tan vào không khí Mạnh Dương thànhh, hệt như huyền phù giữa không trung,
Chiêu Linh ngồi trên xe ngựa, xe ngựa đi dọc theo sơn đạo hướng lên trên, lái vào trong cửa thành cao to. Ngoài cửa là quan binh xếp hàng nghênh tiếp, thủ thành Khuất Tuấn và Hoàn Tư Mã, còn có phụ tá Trịnh Tín chờ đợi đã lâu.
Mạnh Dương thành là trọng trấn của Dung Quốc tại chốn cũ Vân Việt, nơi này có vô số nô lệ, hoặc là tinh luyện kim loại, hoặc là làm công tác tương quan, hoặc là đẩy xe gỗ qua lại giữa Mạnh Dương thành và núi Tử Đồng, không ngừng vận chuyển mỏ đồng. Đám người này kéo dài không dứt, lượn lờ thành hàng theo khói bếp bay lên cao.
Thân bị vây giữa núi đồi, ngẩng lên chỉ thấy trời trong vắt hoặc đêm đen đầy sao. Những khi trời trong, người ta sẽ quên đi cảnh cực khổ của những nô lệ trong núi. Bóng dáng bọn họ bị khói bếp che lấp đi, tiếng rê,n rỉ cũng bị tiếng ầm ĩ khi luyện kim bao phủ lên.
Có vô số binh lính trong lò luyện kim, vô số binh lính trong kho thu thập, xe ngựa qua lại không dứt, dọc theo đường lớn vận chuyển về tứ phương Dung Quốc, những thứ được vận chuyển không chỉ có khoáng sản mà còn có đồ đạc đồng thau đã được rèn đúc tỉ mỉ.
Không khí trong Mạnh Dương thành khiến những người mới tới đều cảm thấy không khoẻ, đầu tiên là mùi cháy khét trong không khí, từ khoang miệng đến lá phổi đều cảm thấy khó chịu, cứ thế mà không nhịn được muốn ngừng thở.
Đó là tình hình dưới núi, Mạnh Dương thành vẫn luôn như thế, phải lên thật cao cảm giác khó chịu đến nghẹt thở này mới biến mất. Ở nơi đây vừa ầm ĩ vừa mờ ảo, trước nay vẫn luôn như vậy.
Buổi tối, phụ tá Trịnh Tín của Hoàn Tư Mã mở một tấm bản đồ toàn cảnh Vân Việt Quốc ra, người hầu đứng bên cạnh cầm đuốc soi đường, chỉ ngón tay lên từng nơi rồi giải thích loạn thế Vân Việt cho Chiêu Linh nghe.
Trịnh Tín nói: “Hiện nay cường đạo nổi dậy như ong trên đất Vân Việt, nơi nơi đều có phản tặc, Bắc bộ có Thường Quý, người này làm loạn đã nhiều năm, là ung nhọt sâu xa chưa thể diệt; Đông Nam có huynh đệ Quảng thị người huyện Triệu Hải, người ở Đông Nam còn tấn công lẫn nhau, khó có thành tựu; phía Tây có Phong Bá Ích quanh năm cướp giết lương thực được vận chuyển bằng đường thuỷ, thủ đoạn tàn khốc, khiến nước ta tổn hại không ít tướng sĩ. Gần đây phía quận Giang còn có một tên phản tặc tự xưng là “Thanh Vương”, kẻ này công hãm quận Giang và một số huyện Nam Di, đã nhiều lần đánh bại quận binh, không thể khinh thường.”
Thủ tướng Khuất Tuấn của Mạnh Dương thành nói: “Phong Bá Ích tự xưng là tôn tử của Phong Tư Mã của chốn cũ Vân Việt, tên phản tặc này có thể phục chúng, thời còn cường thịnh có không ít ngu dân ngu nguội bị gã đầu độc. Mùa đông năm ngoái, mạt tướng suất binh đánh vào sào huyệt của Phong Bá Ích, giết giặc một ngàn, bắt được ba ngàn thường dân và gia quyết, từ đó dư nghiệt tứ tán, Phong Bá Ích cũng không biết tung tích.”
Trịnh Tín lấy tay vòng một phạm vi bao quát cả núi Tử Đồng và Mạnh Dương thành rồi nói: “Những nơi này đã từng là phạm vi hoạt động của Phong Bá Ích, hiện giờ hắn chốn chạy nơi rừng sâu núi cao, không dám tiếp tục lộ đầu.”
Nghe hai người thuật lại, Chiêu Linh hỏi: “Những phản tặc trước ta đều đã nghe nói, có điều người ở quận Giang, đến nay vẫn không biết tên họ sao?”
Trịnh Tín trả lời: “Có lời đồn nói rằng phản tặc lần này là nhi tử của Việt Linh Vương, rất nhiều người gọi hắn là “Ba Na”, tức là “Vương tử” trong tiếng Vân Việt.”
Vệ Bình vẫn luôn trầm mặc hơi nhíu mày lại, đối với hiểu biết của y về lịch sử Vân Việt, sau khi Việt Linh Vương bỏ mình vì diệt quốc, những nhi tử hầu như đã bị giết sạch không còn ai, chỉ có một kẻ điếc không sợ súng — Việt Tiềm.
Khuất Tuấn nói: “Trước kia vùng Đông Nam cũng từng có phản tặc tự xưng là nhi tử của Việt Linh Vương, lừa dối dân Vân Việt, sau đó Huyện uý bắt được, điều tra rõ thân phận thì phát hiện ra chỉ là một điền phu cấy mạ.”
Không ít kẻ xưng là nhi tử Vân Việt Vương, giả mạo tướng quân Vân Việt Quốc, triệu tập nhân dân tạo phản, nhưng đại đa số đều là hàng giả.
Sau một phen trò chuyện, Khuất Tuấn rời đi, Trịnh Tín chậm rãi thu bản đồ lại, Vệ Bình lại bên cạnh hỗ trợ còn Chiêu Linh đi tới trước cửa sổ. Ngoài cửa sổ có vô số đốm lửa, đó là lửa tinh luyện kim loại, trong đêm tối phảng phất tựa như sao xa.
Chiêu Linh quay đầu lại, như chỉ thuận tiện nhắc tới, hỏi Trịnh Tín: “Đầu thu năm ngoái, những người Vân Việt bị biếm làm nô lệ tới Mạnh Dương thành, bây giờ đang ở đâu?”
Vệ Bình đang cuộn bản đồ lại, nghe thấy câu nói này đột nhiên ngẩng đầu lên.
“Binh lính làm việc không đến nơi đến chốn, khiến nô lệ nửa đường chạy trốn, hiện nay còn đang bị giam giữ trong ngục của Mạnh Dương thành.” Trịnh Tín phải nghĩ một lúc mới nhớ ra người này, chuyện cũng đã qua lâu, hơn nữa cũng không phải chuyện gì lớn.
Nô lệ chạy trốn là chuyện thường xảy ra, cho nên khi bắt được sẽ đều bị xử tử, dùng hình phạt này để đe doạ những nô lệ khác.
Rất nhanh sau đó, Trịnh Tín lại ý thức được không đúng, một nhân vật nhỏ như thế, còn là chuyện năm trước, sao đột nhiên Linh công tử lại đề cập tới, vội hỏi: “Công tử muốn thẩm vấn gã sao?”
Chiêu Linh nói: “Ta có việc muốn hỏi hắn.”
Trịnh Tín lộ ra vẻ mặt kinh ngạc, không biết đây là có chuyện gì, sao vào ngục rồi mà còn có thể kinh động Linh công tử; thần sắc Vệ Bình vô cùng tối tăm, binh lính chỉ là nhân vật nhỏ, nhưng trong đám nô lệ đã chạy trốn lại có Việt Tiềm.
Đã từng có một mệnh lệnh thần bí yêu cầu binh lính chết Việt Tiềm trên đường.
Mệnh lệnh ấy là của Thái tử.
Việc giết Việt Tiềm vốn là phải gạt Linh công tử, nhưng Linh công tử có thể đã có dự liệu từ lâu.
Vệ Bình nghĩ thầm, còn bận bỏ bản đồ vào lòng Trịnh Tín, lựa chọn lảng tránh lui ra khỏi phòng, chỉ để Linh công tử và Trịnh Tín ở lại.
Sau khi suốt đêm thăm dò tù nhân, cuối cùng Chiêu Linh cũng nhìn thấy binh lính trong tù kia. Y để tất cả mọi người lui xuống, bao gồm cả Trịnh Tín.
Trịnh Tín không rõ Linh công tử và binh lính kia muốn nói cái gì, thời gian bọn họ trò chuyện không lâu, khi đi ra không nhìn được bất kỳ đầu mối nào, gương mặt xinh đẹp vô hỉ vô bi.
Cửa lao phía sau đóng chặt lại, Trịnh Tín và Linh công tử đi qua con đường thật dài, vô cùng cung kính đưa Linh công tử tới gian phòng thư thích nhất của Mạnh Dương thành, đó là nơi tạm được dùng để làm phòng ngủ của Linh công tử.
Trong đêm tối, bốn phía là màn giường dày nặng, Chiêu Linh vùi thân trong bóng tối, lẳng lặng nhớ về cuộc trò chuyện của mình và binh lính trong tù kia.
Y nói: “Ta hỏi ngươi một lần nữa, tất cả những gì ngươi nói là thật?”
Binh lính kia đáp: “Hồi bẩm công tử, tất cả những lời của tội thần đều là thật.”
Chiêu Linh nói: “Vậy ngươi lặp lại những lời giải thích ấy một lần nữa.”
Binh lính nói: “Ngày ấy thuyền tới bến phà Việt Tân, trời còn chưa sáng, ta phái hai tên thân tín tới. Bọn họ gọi Việt Tiềm đi từ trong khoang nô lệ ra, một đường thiếu nước thiếu lương thực, dù có khoẻ mạnh tới đâu, dằn vặt vài ngày cũng không còn ra hình thù gì. Việt Tiềm không chống cự được chút nào, đàng hoàng bị áp giải ra khỏi thuyền nô lệ.
Binh sĩ nghe mệnh lệnh của ta, dẫn Việt Tiềm tới một góc không người, một đao chấm dứt tính mạng hắn. Thi thể bị bó đá rồi thả vào lòng sông, thần không biết quỷ không hay.”
Gã tiếp tục nói: “Tội thần trước giờ vẫn luôn làm việc cẩn thận, tận tâm tận lực, mong rằng công tử cứu giúp, cho tội thần sớm ngày được ra tù, đoàn tụ với người nhà ở Dần thành.”
Trong phòng ngủ đen kịt, Chiêu Linh nhớ lại những lời gã nói, hồi tưởng lại cảnh Việt Tiềm bệnh tật liên miên bị dẫn từ khoang nô lệ ra ngoài, đàng hoàng, phục tùng theo mệnh lệnh.
Với tính cách của Việt Tiềm, nào có chuyện hắn sẽ bó tay chịu trói.
Một đao chấm dứt tính mạng, là đâm vào lòng sao?
Với thân thủ của Việt Tiềm, dù bị trói chặt hai tay, hắn cũng có thể phản kháng.
Thi thể bị bọc đá, thả vào giữa sông.
Việt Tiềm thực sự đã chết rồi sao?
Chiêu Linh bình tĩnh mà nghĩ: Coi như hắn đã chết đi.
Lời nói của binh lính kia trăm ngàn lỗ hổng, thật ra Chiêu Linh không tin.
“Việt Tiềm…”
Trong đêm đen, y khẽ gọi tên Việt Tiềm, nhắm chặt mắt lại rồi tưởng tưởng chỉ cần mở mắt, người ấy đã đang nằm bên cạnh mình.
Đã bao nhiêu đêm bọn họ cùng giường chung gối, khó rời khó bỏ.
Chiêu Linh nhẹ nhàng than thở: “Ngươi đang ở đâu?”
Phản tặc phía Nam nơi quận Giang, “Thanh Vương” chính là ngươi sao?
Càng tới gần chốn cũ Vân Việt, Chiêu Linh càng có một cảm giác cho rằng Việt Tiềm còn sống, đặc biệt là sau khi tới Mạnh Dương thành, cảm giác ấy lại càng thêm mãnh liệt.
Buổi tối đầu tiên tại Mạnh Dương thành, Chiêu Linh mơ về khoảng thời gian ngày xưa có Việt Tiềm bầu bạn, mơ thấy nụ hôn của hắn, cái ôm của hắn.
Giấc mơ này vô cùng vi diệu.
Xà văn trên vai và cánh tay Việt Tiềm lộ ra, xoay chuyển rồi hoá thành một con Thanh xà, quấn lên cành ngô đồng. Sương mù núi Nam vô cùng mông lung, dưới ánh trăng mê muội, hơi nước đập vào mặt, Chiêu Linh phát hiện mình cũng hoá thành chim Phượng, bay lượn trong sương.
Giấc mộng này vừa kỳ quái vừa lạ lùng, trong mộng Chiêu Linh không muốn lại gần cây ngô đồng, y ra sức bay lượn, bay qua từng mảnh rừng núi, chẳng biết uể oải là gì.
Y tới chốn cũ Vân Việt, lông cánh xoẹt qua “sao xa” nơi Mạnh Dương thành, đó là lửa đỏ trong lò đúc nghi ngút, ngọn lửa liếm lên thành lò, chim Phượng kêu vang, giương cánh bay xa.
Chiêu Linh bay quanh trên không trung, cực kỳ mệt mỏi, muốn được nghỉ chân. Y bay tới phế tích Đô thành của Đài Quốc — Khư đài.
Trong mộng, Chiêu Linh nhớ tới câu nói kia của Vệ Bình: Khư đài, người Vân Việt còn gọi nó là Tử đài.
Tử đài nhất định sẽ có màu tím đồng.
Vì vậy, giữa những đổ nát thê lương của Khư đài, chim Phượng bay đến nơi cao nhất của phế tích, đậu trên một đài quan sát nhỏ trên mặt đất, nghỉ ngơi ở đây rồi dùng mỏ chim chải chuốt lông cánh.
Gió đêm thổi quan mào ngũ sắc trên đỉnh đầu y, y thích ý rung rung lông chim, nhìn xung quanh bốn phía rồi bỗng phát hiện ra một con Thanh xà cực lớn đang nằm trong bụi hoa.
Một tiếng Phượng hót vang lên king động cả chim bay cá nhảy trong núi, chim Phượng bay lên hơn nửa khoảng không, gió cao dìu dắt lông cánh nó.
Trong nháy mắt, chim Phượng thấy Thanh xà mở đôi mắt vàng óng ra, gió đêm lay động lông bờm của nó, sừng trên đầu cũng rất dài.
Chiêu Linh tỉnh lại từ trong mộng, sau đó ngủ say trong Mạnh Dương thành.
Dưới Mạnh Dương thành là tiếng luyện kim liên miên, phòng ngủ của nô lệ được trát bằng gỗ mỏng, Việt Tiềm nằm trên giường lót cỏ, bên cạnh là tiếng ngáy chập chùng của nô lệ.
Việt Tiềm tỉnh lại từ trong mộng, cảm thấy khó mà tin nổi, còn tinh tế hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ ấy.
Trong mơ, hắn hoá thành Thanh xà nghỉ ngơi trên Tử đài, chính một tiếng Phượng hót đã khiến hắn tỉnh lại.
Trong giấc mộng ấy, dưới góc nhìn của Thanh xà, hắn mở trong mắt vàng óng ra, nhìn thấy một con chim Phượng đang bay trên không trung. Chỉ mới thoáng nhìn đã thấy mào ngũ sắc sặc sỡ của chim Phượng, còn có lông đuôi thướt tha cực kỳ đẹp.
***
Tác giả có lời muốn nói: Việt xà, ngươi lẻn vào Mạnh Dương thành làm nô lệ là muốn làm gì?
Việt Tiềm: Đoán xem.
—
Việt Tiềm: A Linh, ngươi là chim Phượng kia sao?