Từ hành cung đi về hướng Tây Nam trăm dặm, núi xanh quanh co, sông lớn như dải thắt lưng, nơi đây chính là chỗ lăng tẩm Ngô Việt vương ông ngoại của Thúc Thận Huy.
Anh em của Trang Thái phi nhiều năm trước được phong Vương ở Đông Dương, ở cách đây năm sáu trăm dặm, đêm qua Thúc Thận Huy yên lặng cải trang đến nơi, dĩ nhiên phía bên kia còn chưa nhận được tin, nên cũng không cần phô trương. Sáng sớm, dưới sự hộ tống của một viên quan Chấp sự do Thái phi sắp xếp, một toán mấy chục người xuất phát đi Vương lăng. Buổi chiều đến nơi. Quan giữ lăng đêm qua đã được người cỡi khoái mã đưa tin, đã chuẩn bị kỹ càng mọi lễ vật bái tế từ trước. Nghỉ ngơi thay y phục xong, Thúc Thận Huy đưa Khương Hàm Nguyên vào Vương lăng làm lễ bái tế.
Ông ngoại đã qua đời khi y còn nhỏ, chỉ từng đến thăm một lần duy nhất là vào năm y bảy tuổi. Lúc ấy ông ngoại tuổi già bệnh nặng, phụ hoàng y thương xót Mẫu phi của y, đặc biệt đồng ý cho bà dẫn theo hoàng tử xuôi Nam thăm viếng. Nhớ lúc ấy ở lại hai tháng. Dù chỉ vỏn vẹn hai tháng, sau khi y hồi kinh, ông ngoại đã cưỡi hạc quy tiên, nhưng ông ngoại rất yêu thích và cưng chiều bảo bọc, khiến Thúc Thận Huy khắc sâu ấn tượng, nhớ mãi đến giờ. Ấy cũng là vì sao đã sau nhiều năm, vừa tới, y liền không để ý đi đường mệt mỏi, hôm nay đã đến cúng bái trước.
Đây không phải là làm cho người xem mà là niềm kính trọng và hoài niệm của người thân đã qua đời của y.
Vẻ mặt y tao nhã, cực kỳ trịnh trọng. Khương Hàm Nguyên không biết Ngô Việt vương, nhưng cũng biết chiến tích vĩ đại trong thời loạn bảo vệ Giang Nam, che chở dân chúng một phương tránh được chiến hỏa đồ thán của ngài, đã tới, đương nhiên cũng là thành kính kính bái.
Tế lễ qua đi, trời đã ngả hoàng hôn. Đường về thành không gần lắm, ngay đêm đó, hai người theo thông lệ, nghỉ tại chùa Công Đức trong núi gần đó.
Hàng năm, Vương tộc đến đây tế tổ xong, chắc chắn người làm phải nghỉ đêm tại chùa Công Đức, qua hôm sau mới rời núi về thành. Nên trong chùa cũng đã chuyên dành ra mười mấy gian tinh xá dùng để nghênh đón quý nhân. Nhất là lúc này, người đến là vợ chồng Nhiếp Chính Vương đương triều, tiếp đãi càng thêm chu đáo, trụ trì tự mình rời núi đến đón.
Đoàn người vào chùa dùng bữa chay, trên núi trời tối rất nhanh, nhanh chóng đã vào đêm.
Người ta nói núi sâu chùa cổ rất hợp cho giấc ngủ ngon. Dù Khương Hàm Nguyên không hề thấy mệt mỏi nhưng cũng không biết đi đâu, dưới sự dẫn dắt của Trương Bảo và hai tiểu sa di tùy ý đi dạo một vòng chung quanh, lúc quay về đã đóng cửa ngủ sớm.
Tuy cô và Thúc Thận Huy là vợ chồng, nhưng ở trong chùa, nam tân nữ quyến đương nhiên không nên ở chung. Chỗ của cô ở là hậu điện phía Tây, chuyên bố trí giành cho nữ quyến. Thúc Thận Huy ở phía trước, gần khu am trụ trì ở.
Trương Bảo hầu hạ xong xuôi, quay lại trước mặt Thúc Thận Huy.
Ở đây có một hòa thượng chơi cờ rất giỏi. Buổi chiều trong núi không có gì làm, Thúc Thận Huy bèn gọi đến, pha trà đánh cờ, bất giác trăng đã lên giữa trời, tận hứng mới tàn.
Về phòng, y bèn hỏi đêm nay Vương phi đã làm gì.
Trương Bảo bẩm: “Ăn xong, Vương phi chỉ dạo mấy bước quanh núi rồi đi ngủ sớm. Trong núi yên tĩnh, giờ này hẳn ngủ rồi ạ!”
Vừa đáp xong, cậu thấy Nhiếp Chính Vương cũng không trả lời, dừng trước cửa sổ nhìn ra trăng sáng xa xa trên bầu trời đêm, không biết đang nghĩ gì, lát sau, chậm rãi cúi đầu, đóng cửa sổ, bảo đi ngủ đi.
Một đêm trăng sáng gió mát, lúc này, ngoại trừ tiếng gió trong núi, thi thoảng chỉ nghe vài tiếng cú kêu mơ hồ vọng từ núi sâu, càng thêm tịch liêu.
Đêm đã khuya, Thúc Thận Huy nằm trên giường yên tĩnh nhắm mắt, song mãi lâu cũng không thể nào ngủ được.
Trương Bảo ngủ ở gian ngoài có lẽ dạo gần đây quá mệt mỏi, vừa đặt lưng đã ngáy như sấm, khiến Thúc Thận Huy càng không thể chìm vào giấc ngủ. Y nhắm mắt một lát, chợt nghĩ đến người mà Khương Tổ Vọng phái đến đón nàng ấy, nghe nói cuối tháng sẽ đến, chỉ còn không đến mười ngày.
Trong lòng y bỗng tuôn ra một cơn bực bội, xoay người ngồi dậy, ngồi trong bóng đêm một lát, bèn xuống giường quờ quạng mặc y phục, đi qua tiếng ngáy không dứt của cậu tiểu hầu, mở cửa. Trụ cửa ọp ẹp phát ra tiếng kẽo kẹt vọng vào trong tai Trương Bảo.
Cậu ta dù đã thiếp đi, song trực đêm nhiều năm đã luyện thành phản ứng như bản năng, nghe tiếng chợt bừng tỉnh, hé mắt, mơ mơ màng màng nhìn thấy thảng như Nhiếp Chính Vương ra ngoài, lập tức nhảy xuống giường đuổi kịp hỏi: “Đã trễ thế này, điện hạ còn định đi đâu?”
Thúc Thận Huy là nghĩ đến lúc đánh cờ, trụ trì có đề cập qua một câu, đêm nay giờ Sửu ba khắc có thủy triều lên, ngoài bờ sông mấy chục dặm có tòa cổ tháp, là điểm xem triều đẹp nhất. Y thực sự bị tiếng ngáy của Trương Bảo làm cho mất ngủ, phập phồng không yên, thấy còn kịp giờ, chi bằng đi xem triều đêm. Bèn nói một câu, bảo cậu tự đi ngủ, không cần theo.
Trương Bảo há chịu bị bỏ lại vội hấp tấp xỏ giày đuổi theo, bảo rằng cậu cũng phải theo nghe dùng. Đi mấy bước, chợt nghĩ tới: “Điện hạ không đưa Vương phi cùng đi sao ạ?”
Thúc Thận Huy dừng bước, quay sang liếc cậu, “Hay mai cậu đi bẩm Thái phi lĩnh thưởng đi.”
Trương Bảo rụt cổ ngậm miệng vội đuổi theo.
Thúc Thận Huy dẫn theo hai thị vệ trực đêm, gọi một hòa thượng biết đường, cộng thêm Trương Bảo, tới chuồng ngựa dẫn ngựa ra từ cửa sau chùa mà đi về hướng bờ sông.
Ánh trăng trong sáng đủ để chiếu đường, nhưng đường trong núi quanh co uốn lượng, chạy mấy chục dặm mất hơn nửa canh giờ, thấy không kịp đến bờ sông đã tới giờ triều lên, bèn vọt đi.
Ngắm triều vốn chẳng qua là ý nghĩ nhất thời chợt tới. Sau khi lên đường, Thúc Thận Huy cũng chẳng mấy mong chờ, hứng thú bộc phát không còn mấy, vó ngựa chậm dần, cuối cùng ghìm ngựa đứng trên con đường núi dưới ánh trăng.
Người đi cùng cảm giác được, tất cả đều dừng lại nhìn Nhiếp Chính Vương trên lưng ngựa. Hòa thượng rất sợ hãi, xuống ngựa xin tội.
Thúc Thận Huy ngồi trên lưng ngựa, ngóng nhìn phía trước.
Bờ sông dưới chân núi không còn xa, thấp thoáng có thể nhìn thấy hình dáng toà tháp cổ, dưới đêm trăng, ngọn tháp cao ngất, lờ mờ.
Hòa thượng nói, mặc dù thời điểm triều lên đã qua, nhưng cũng có mấy điều đồn về toà tháp cổ, vì thế mà nhiều năm qua, tục truyền dưới tháp tụ đủ cát khí, trèo lên đỉnh tháp có thể bảo hộ bình an.
Thúc Thận Huy nào tin vào những lời thôn dã này chứ, nhưng nửa đêm chạy đi, đã đến đây rồi, dù có thế nào trèo lên đỉnh cũng không tính là uổng công một chuyến.
Y chợt không thấy hứng thú chút nào. Đang định quay đầu khởi hành trở về, bỗng lúc này nghe Trương Bảo sau lưng hô to: “Cháy! Hình như trong chùa có cháy!”
Thúc Thận Huy nghe tiếng quay lại, quả nhiên nhìn ra sau lưng, chỗ chùa Công Đức trong núi, ánh lửa đang liếm trời, xem ra không nhỏ. Vì đêm khuya, xung quanh đen kịt, chỉ một áng đỏ kia, cực kỳ bắt mắt.
Ánh lửa hóa thành hai điểm, chiếu rọi vào cặp đồng tử của Thúc Thận Huy. Y nghĩ tới một người, tim như cũng bị ánh lửa kia liếm tới, thít chặt phút chốc, khi những người bên cạnh còn chưa kịp phản ứng, đột nhiên kéo mạnh ngựa cưỡi chuyển hướng, phóng nước đại về phía ánh lửa.
Gió núi đang lớn, lửa mượn gió thổi hừng hực đốt. Vị trí của y xem thì cách chùa không xa, nhìn có thể thấy nhưng thực tế uốn lượn quanh co, y không phải thần nhân để đằng vân giá vũ, bằng tấm thân máu thịt nặng nề này trong tích tắc sao có thể chạy về tới ngay. Điều duy nhất y có thể làm là phóng nước đại, vó ngựa phi nhanh một mạch, đá vụn lạo xạo từ đường núi rơi xuống không dứt, bỏ rơi đám tùy tùng thật xa.
Trên đoạn đường chạy về, tràn đầy cõi lòng y chỉ một nỗi chờ mong, đó là chỗ cháy xa nàng ấy chút. Nàng phải bình an vô sự. Nhưng càng đến gần chùa núi, niềm hy vọng càng xa vời. Đến khi y rốt cuộc về tới, phi thân nhảy xuống lưng ngựa, xông vào cổng chùa, đập vào mắt y đầy rõ ràng. Chỗ bốc cháy nào phải nơi khác, mà là vùng phía sau mà cô nghỉ ngơi. Gió bọc ngọn lửa cuồn cuộn bốn bề, quanh tai là tiếng kêu khóc lộn xộn, y nhìn thấy đám hòa thượng từng người hoảng hốt, ôm thùng nước vừa đi vừa về chuyền nước, nhưng trong ngọn lửa lớn rừng rực này, như dã tràng xe cát, chớp mắt đã bốc hơi sạch. Có mấy hòa thượng ôm mền đứng gần, trụ trì được vài hòa thượng dìu đỡ. Đám hòa thượng dậm chân có, gào khóc có, niệm Phật có, thấy y bèn lảo đảo chạy tới, quỳ thụp đầy đất. Bảo nhang nến phía hậu điện bị chuột cắn đứt, đã thiêu đốt đại điện, nhanh chóng lan ra sương phòng bên cạnh.
Y cơ bản không để ý đến đám hòa thượng này đang nói gì, y cũng chẳng muốn nghe. Ánh mắt y khẩn trương lướt qua từng bóng lại từng bóng hình lộn xộn múa may trước mắt, lo lắng tìm người y muốn gặp. Lúc này, y nhìn thấy Lưu Hướng nhanh chân chạy về phía mình.
“Vương phi đâu! Nàng đâu rồi?” Thúc Thận Huy quát.
Một ý niệm mong chờ đã mất sạch, giờ đây trong lòng y chỉ còn lại mỗi một ý mong chờ duy nhất, đó là nàng ấy đã sớm tự thoát thân, đang ở một nơi an toàn không có ánh lửa.
Nhưng câu trả lời của Lưu Hướng lại làm tim y chìm xuống lần nữa, như rơi vào hố băng.
Trong đám người chạy ra từ đám cháy không thấy Vương phi, hai thủ hạ phụ trách phòng thủ phía Tây sương chỗ nàng ấy ở đêm nay cũng không thấy bóng dáng.
“Sau khi phát hỏa, thần tìm kiếm Vương phi khắp nơi, nhưng Tây sương phòng quá gần hậu điện, lại ở dưới đầu gió, quá nhanh. Vi thần dẫn người mấy lần vọt vào cũng không tìm thấy. Rồi sau đó khói lửa quá lớn, hiện giờ không còn cách nào —— ” Mặt ông đầy vết khói hun, râu tóc cháy sém, giọng cũng bị khói hun đến khàn đặc.
Thúc Thận Huy đẩy người ra, trong tiếng kinh ngạc khắp nơi sau lưng, xông đến một ô cửa cháy lung lay sắp đổ, chạy đến chỗ cô nghỉ.
Đúng như lời của Lưu Hướng, thế lửa đã xem như nuốt hết toàn bộ hậu điện và một vùng sương phòng gần đó, biển lửa hừng hực. Đốm lửa khói từ không trung không ngừng rơi xuống, hơi tới gần, đập vào mặt là sóng lửa cuồn cuộn, ép râu tóc người dựng lên, lỗ chân lông đều mở, hơi nóng áp bức rót vào da.
“Nguyên! Nguyên!”
“Khương Hàm Nguyên!”
Thúc Thận Huy nhớ tới lần trước một tiếng mình từng gọi. Lại kêu to lần nữa.
Nhưng lần này không có ai đáp lại. Chỉ có một trận gió kẹp lấy đốm khói lửa cuồn cuộn đối diện lao tới y. Y kịch liệt ho khan.
Lưu Hướng và vài tùy vệ khác vọt lên, “Điện hạ đi mau! Ở đây lửa quá lớn!”
Nàng ấy rốt cuộc đang ở đâu vậy. Chả nhẽ ngủ say đến bất tỉnh, giờ đang bị vây giữa biển lửa, mất mạng?
Y bị khói lửa và hơi nóng làm cho gần như không thể mở mắt hoàn toàn. Lông mày y cũng như muốn bị lửa to liếm mất. Làn da trên người y cảm giác như cháy phỏng kim châm. Trong lòng y, một cảm giác sợ hãi thảng như lúc trước y từng trải qua mà giây phút này còn thêm như đâm vào tim nữa.
Y bị cảm giác sợ hãi vồ lấy rất chặt.
Y tự hối hận vì đêm nay không hiểu sao lại rời nàng ấy. Nếu không đi, y vẫn ở đây, nếu phát hiện có cháy y hoàn toàn có thể kịp thời chạy đến chứ không phải như lúc này, không làm gì được.
Y nhìn thấy một thị vệ chạy vội đến, người khoác một tấm chăn dày ướt nhẹp. Y một tay giật lấy, nhanh chóng đưa mắt nhìn quanh, xác định vị trí xong bèn quấn mền ướt trên đầu, nín thở phóng tới một chỗ trong không trung đang cháy.
Khu phòng ở còn chưa sập, bên trong chưa bị thiêu rụi hoàn toàn. Nói không chừng nàng ấy chỉ bị khói hun hôn mê thôi. Y đang ở đây, nếu không tự mình vào xem qua, sẽ không cam lòng.
“Điện hạ quay lại!” Lưu Hướng lạc giọng rống to, dũng cảm quên mình cùng bọn thủ hạ đuổi theo ngăn cản.
“Điện hạ…” “Điện hạ… “
“Điện hạ!”
Trong đám âm thanh kiệt lực lạc giọng hô to đầy hỗn loạn, chợt Thúc Thận Huy nghe thấy một giọng con gái.
Một tiếng điện hạ này, như một mảnh chuông đang lăn lộn bỗng phát ra một tiếng trong trẻo mà thâm trầm, đè xuống mọi âm thanh hỗn tạp, đánh vào màng nhĩ y, thẳng đếm trái tim y.
Tim y vang ầm nảy lên.
Y dừng chân trước ánh lửa, quay lại, nhìn thấy một bóng người đang vội chạy về phía mình.
“Điện hạ quay lại— ” Khương Hàm Nguyên dùng hết hơi, hướng về bóng người mơ hồ trong ánh lửa kia, lớn tiếng gọi.
Đêm nay sau khi đặt lưng, cô nhẩm tính thời gian Phàn Kính sẽ đến. Nếu không có gì thì hẳn sẽ là cuối tháng, cũng chỉ còn bảy tám ngày. Cô thực không ngủ được, bèn nhớ đến lúc chạng vạng tối tản bộ tiểu sa di có bẩm có một ngọn tháp cổ ngoài mấy mươi dặm có thể xem triều đẹp nhất. Cô nhất thời hứng chí xuống giường, cùng hai thân vệ tùy thân chạy thẳng ra khỏi chùa, cưỡi ngựa tìm đường, đến nửa đêm, rốt cuộc đã tìm được ngôi tháp cổ bên bờ sông, trèo lên đỉnh đón gió ngắm cảnh thủy triều.
Lúc ấy thủy triều đêm đã qua, mặt sông dần dần lắng lại, xem xong cô vẫn chưa muốn về lắm, dứt khoát trèo lên đỉnh tháp, một mình ngồi dựa vào trên đỉnh tháp cao cao. Đang đón gió đêm, nhìn quanh bốn bề, lại phát hiện ánh lửa ở hướng ngôi chùa. Vừa chạy về tới chùa đã nghe người nói Nhiếp Chính Vương đang tìm mình khắp nơi.
“Điện hạ!”
“Điện hạ quay lại đi — “
Y khựng lại một lát, đột nhiên quăng khăn ướt ra, vội chạy đến cô, giang tay ôm lấy cô vào lòng.
Cứ thế, trong ánh mắt bao người chung quanh, y ôm chặt lấy cô, vùi mặt vào tóc cô, không nhúc nhích.
Lực tay y mạnh đến mức Khương Hàm Nguyên cảm thấy xương sườn đều như muốn bị bẻ gãy, mơ hồ đau đớn. Không chỉ thế, cô còn ngửi thấy mùi khói lửa ám vào da tóc y, còn cảm giác được nhịp tim đang đập bình bịch mãnh liệt dưới ngực y.
Cô buông thõng hai tay, yên tĩnh mặc cho y ôm mình. Một lát sau, cảm thấy cuối cùng y cũng nhúc nhích, từ từ buông lỏng cô, đổi sang nắm lấy tay cô, nhanh chân bước ra ngoài.
Đám Lưu Hướng cũng rối rít giúp nhau dập tắt đốm lửa trên tóc trên người, nhanh chóng rút khỏi đám cháy.
Ngay sau khi đoàn người ra ngoài, cùng với một cơn gió bỗng ào tới, hậu điện và sương phòng bị cháy sụp đổ đánh ầm.
Đêm chỉ còn vài canh giờ, Khương Hàm Nguyên nghỉ ở trong gian phòng nhỏ mà Thúc Thận Huy vốn nghỉ ngơi. Y lệnh cho cô không được phép ra ngoài, phải ngủ. Bảo Lưu Hướng canh chừng.
Bên ngoài các vị sư quỳ đầy đất chờ thỉnh tội. Sau khi y rời khỏi đã sắp xếp người chữa cháy. Đến hừng đông, lửa cuối cùng cũng đã tắt. May không có người chết, chỉ bốn năm nhà sư bị bỏng. Y quay về nghỉ ngơi xong cũng không ở thêm, ngay sau đó đã đưa Khương Hàm Nguyên xuống núi quay về.
Trên đường về lần này, Khương Hàm Nguyên thấy y im lặng lạ thường. Nhiều lần, cô cảm giác tựa như y đang ngó mình, nhưng đến khi quay lại nhìn thì y lại trốn tránh ánh mắt của cô.
Tâm tình cô cũng đang hỗn loạn, trận hỏa hoạn bất ngờ đêm qua làm cô rất mông lung. Nhưng ngoại trừ im lặng, lúc này, dường như cô cũng không có gì để nói.
Chiều cùng ngày, họ về tới hành cung. Mới bước lên sơn giai đã thấy viên thái giám chấp sự hôm trước bước nhanh ra đón, hành lễ xong, cười nói: “Vương phi điện hạ, Phàn tướng quân của Nhạn Môn đã đến!”
Khương Hàm Nguyên khẽ giật mình, dừng bước trên bậc thang.
Đêm qua cô vừa tính ngày Phàn Kính đến, cho là cuối tháng, không ngờ ông bất ngờ đến sớm. Không chỉ vậy, là sớm rất nhiều ngày!
Cô vốn nên vì thế mà thấy hân hoan. Song chẳng biết tại sao, có thể là còn chưa tỉnh táo lại sau trận cháy lớn, lúc này tự dưng nghe được tin, trong lòng cô lại chẳng thấy hân hoan tẹo nào.
Theo phản xạ cô quay sang nhìn người đi cùng mình. Thấy y cũng khựng lại, xoay mặt sang nhìn cô. Hai người đang yên lặng bốn mắt nhìn nhau, bỗng, một giọng to tràn đầy vui vẻ từ phía trước vọng tới: “Tiểu nữ quân! Ta đến chậm, chớ trách!”
Khương Hàm Nguyên giương mắt, nhìn thấy một đại hán râu ria xồm xoàm được mấy cung nhân dẫn đường, vội vàng bước xuống bậc, nhanh chân đi về phía mình.
Thật đúng là chú Phàn Kính.
Cô tỉnh táo lại, cũng vội vàng bước tới mỉm cười: “Chú Phàn! Sao hôm nay người đã đến rồi?”
Phàn Kính tươi cười, đang tính trả lời, lại nhìn thấy người bên cạnh cô, dừng lại, thu nét tươi cười, nhanh bước đến gần người kia làm lễ đại bái, cung kính nói: “Mạt tướng Phàn Kính hành dinh Nhạn Môn, bái kiến Nhiếp Chính Vương điện hạ!”
Lúc Nhiếp Chính Vương đi tuần biên Phàn Kính từng gặp y. HIện giờ tuy y không còn dáng vẻ thiếu niên nữa, nhưng ngũ quan vẫn như xưa, chỉ khí chất có thay đổi thôi. Dĩ nhiên Phàn Kính nhận ra ngay.
Thúc Thận Huy đưa mắt nhìn vị khách đến từ Nhạn Môn, từ từ lộ ý cười, cho bình thân, không chỉ thế, còn giang tay giả nâng ông lên.
“Phàn tướng quân không cần đa lễ.” Y nói.
Phàn Kính cực kỳ ngoài dự kiến.
Ông chẳng qua chỉ là một vị tướng quân trong số đông đảo tướng quân ở Nhạn Môn, không gọi là có tên tuổi. Mới gặp mặt, Nhiếp Chính Vương lại dùng lễ ngộ ấy với ông, không khỏi kinh ngạc, vội tạ ơn rồi luôn miệng xưng không dám.
Thúc Thận Huy lại thăm dò, “Không phải vài hôm nữa Phàn tướng quân mới đến à?”
Trước đây dù Phàn Kính từng gặp mặt và có ấn tượng cực tốt đối với y. Song xưa đâu bằng nay, giờ y đã là Nhiếp Chính Vương, uy thế không thể so bì, không ngờ đã rất lâu sau nhiều năm ngài vẫn thân thiện như xưa.
Phàn Kính thả lỏng tâm tình, giải thích: “Mạt tướng nhận lệnh Đại tướng quân đi đón nữ tướng quân, sợ làm trễ nãi việc chính sự của Nhiếp Chính Vương, bèn đi cả ngày lẫn đêm, nên mới đến sớm mấy ngày.”
Thúc Thận Huy vẫn mỉm cười: “Rõ rồi. Phàn tướng quân trung tâm đáng khen, vất vả rồi. Vừa rồi đã gặp mẫu phi của ta rồi chứ?”
Phàn Kính bận rộn mà cung kính nói: “Sáng nay mạt tướng vừa đến đã may mắn được Thái Hoàng Thái phi triệu kiến, thân thiết nói chuyện, còn mời cơm. Mạt tướng cực kỳ cảm kích.”
Thúc Thận Huy khẽ gật, xoay sang Khương Hàm Nguyên nãy giờ không nói gì: “Hẳn nàng và Phàn tướng quân có lời muốn nói, ta không quấy rầy nữa.” Nói xong, y cất bước đi vào.
Phàn Kính đưa mắt nhìn bóng Nhiếp Chính Vương nhẹ lướt đi, mãi đến mất dạng mới thu tầm mắt, nhìn Khương Hàm Nguyên chân thành khen: “Phong phạm của Nhiếp Chính Vương càng hơn năm đó!”
Khương Hàm Nguyên cười đáp, dẫn ông vào, hỏi thăm đám người bên kia.
Phàn Kính bảo tất cả rất khỏe, còn nói cô vừa đi một tháng, ba ngày hai lượt tụi Dương Hổ lại tìm ông nghe ngóng hôm nào cô về. Biết lần này ông đi đóng cô, tất cả đều rất vui mừng.
Khương Hàm Nguyên cười nói: “Ta cũng có phần nhớ bọn hắn.”
Trước mặt không có người ngoài, Phàn Kính cười nói: “Tôi biết tiểu nữ quân lòng hướng Nhạn Môn, đã rời ba bốn tháng hẳn ngày đêm đều nghĩ tới quay về. Chú Phàn sợ cô đợi lâu mới vội chạy đến. Ban nãy gặp Thái phi, tôi còn cố ý đề cập, bảo trong quân doanh cô có chuyện quan trọng, tránh Thái phi cho rằng cô không muốn ở lại. Tiểu nữ quân đã suy nghĩ hôm nào khởi hành chưa?”
Khương Hàm Nguyên trầm ngâm một lát, nói: “Chú Phàn đã đến sớm, vậy chúng ta mau chóng khởi hành. Tôn trưởng ở trên, để cháu đi nói trước với Thái phi một tiếng.”