: Nhân gian tất có người si tình
Trước Văn Đức Điện tuyết vừa được dọn xong, số còn lại dưới ánh nắng mặt trời đã sớm tan thành nước lầy lội trên mặt đất.
Triệu Uyển Như quỳ gối trên cầu thang trước điện, mấy tên nội thị giữ cửa vùi đầu xuống thấp nhất.
Thái độ thờ ơ của người trong điện không khỏi khiến người chạnh lòng, cung nhân đi theo cũng không dám nói gì chỉ biết quỳ cạnh nàng.
Gió lạnh gào thét.
Tiểu Nhu biết khuyên cũng vô dụng, lúc này trừ việc đau lòng, nàng cũng chỉ có thể quỳ gối cùng cô nương.
"Tại sao phải bỏ Liễu Châu công Nghi Châu?"
"Phò mã đang ở Liễu Châu!"
"Thỉnh cầu bệ hạ thu hồi lệnh đã ban ra!"
"Bệ hạ!"
Từng tiếng kêu gào tê tâm liệt phế từ ngoài truyền vào, Triệu Hằng ngồi trên án thư, sắc mặt cực kỳ khó coi.
Chu Hoài Chính đi ra ngoài liếc nhìn một cái, lại quay về đau lòng khuyên nhủ: "Thánh Thượng, cha con liền tâm, huống hồ công chúa còn đang mang thai, nếu cứ tiếp tục quỳ như vậy, chỉ sợ sớm muộn gì cũng..." Hắn không dám nói nữa, đau lòng than thở, chỉ mong vị quân phụ này sớm ngày mềm lòng.
"Bệ hạ!"
"Cha!"
"Ngài bỏ rơi phò mã thì có khác gì bỏ rơi ta!"
Âm thanh ngoài điện càng ngày càng nhỏ, mỗi một tiếng kêu đều đả động đến lòng từ ái của đế vương, nhìn sổ con trong tay, trong lòng trăm mối cảm xúc ngổn ngang.
Nhưng sổ con từ Tây Nam lại làm hắn hạ quyết tâm, quyết tuyệt nói: "Hừ, nếu là con của ta thì nên hiểu được cái gì mới là đúng.
Thiên hạ này quá nhiều chuyện lưỡng nan, ta không thể vì lợi ích cá nhân mà bỏ mặc con dân Đại Tống."
"Nhưng công chúa..."
"Muốn quỳ cứ để nó quỳ đi, biết đau mới học ngoan được!" Triệu Hằng xoay mặt vào tường, đứng khoanh tay.
Ngoài Văn Đức Điện, các đại thần sợ vạ lây lũ lượt kháo nhau đi đường vòng.
Lưu Nga nghe tin cũng chạy tới, thấy con mình như thế, cực kỳ đau lòng: "Tội gì phải vậy chứ?"
Lưu Nga phất tay bảo mọi người lui ra, tự mình đến bên cạnh Triệu Uyển Như khom lưng muốn đỡ nàng dậy, nhưng làm cách nào cũng không lay chuyển được.
Thấy nàng không động mảy may, nhướng mày hỏi: "Trước giờ ngươi luôn là đứa bé hiểu chuyện, cũng nên biết thiên hạ này không thể vì một người mà thay đổi.
Ngươi điên cuồng như vậy chỉ là vì hắn sao?"
Triệu Uyển Như vẫn quỳ bất động.
"Nếu thật muốn tốt cho hắn, vậy thì càng phải yên tâm ở lại trong cung, chờ đến ngày sinh con có được người nối dõi, cũng xem như không làm hắn thất vọng."
Triệu Uyển Như ngẩng đầu, đỏ mắt căm giận nói: "Nếu không có nàng, ta sinh đứa nhỏ này ra còn có ý nghĩa gì?"
Thật là điên cuồng: "Ông ấy không chỉ là cha ngươi, ông ấy còn là Hoàng đế Đại Tống!"
Thân thể cứng đờ của Triệu Uyển Như run lên, đột nhiên há miệng cười to, duỗi bàn tay lạnh băng ra, Tiểu Nhu hiểu ý nàng tiến lên nâng nàng dậy.
Nàng càng cười to, lại càng đáng sợ: "Đúng, ông ta là Hoàng đế Đại Tống!"
Hai chân đã quỳ đến đau đớn vẫn cố hết sức bước đi, gió lạnh từng đợt thổi vào gương mặt trắng bệch của nàng, tơ máu và nước mắt che kín đôi mắt.
Nàng lạnh đến run rẩy nói: "Nhưng phò mã, là phu quân của ta!"
"Ngươi..." Nhìn thân hình tiều tuỵ của con gái, Lưu Nga cực kỳ đau lòng, muốn vào điện khuyên bảo Hoàng đế.
"Thánh nhân, công chúa điện hạ thế này sợ là sẽ làm việc ngốc, có cần sai người phong toả cửa cung không?"
"Từ nhỏ đến lớn ta cũng không thể ngăn được nàng, ngươi dám ngăn sao?" Lưu Nga quay đầu cả giận nói.
Biết đã chạm vào điểm mấu chốt của Thánh nhân, Lôi Duẫn Cung quỳ xuống run run nói: "Nô tài đáng chết!"
Trong Di Thanh Điện bốn mùa như nhau, không nóng cũng không lạnh, ánh nến mờ nhạt thắp sáng đại điện vắng người.
Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh – ba vị Nguyên Thuỷ Thiên Tôn trên đầu có vầng hào quang, thân mặc áo màu, tay trái cầm hờ, tay phải bưng không, tượng trưng cho trạng thái vô cực và hỗn độn khi trời đất chưa hình thành.
Hỗn độn chưa khai, thiên địa chưa hình.
Đông Chí, lúc mặt trời u ám nhất, ngày ngắn đêm dài là lúc Nguyên Thuỷ Thiên Tôn sinh ra.
Đông Chí vừa qua không lâu, cũng là thời điểm tuyết rơi nhiều nhất trong năm.
"Thần Phi nương tử, trên triều đã xảy ra chuyện."
Vòng hạt trong tay Lý Thư đột nhiên đứt ra, hạt châu rơi đầy đất.
- -- cạch --- lạch cạch ---- lạch cạch ---- hạt châu rơi xuống đất lại bị bắn lên.
"Thiên Tôn." Lý Thư chắp tay lại: "Người gặp tai hoạ, tất có thể đỡ được tai ương."
"Sư tôn cũng từng nói, mỗi người đều có Đạo của mình, nhưng sư đệ một lòng hướng thiện, cuối cùng vẫn là đi lầm đường."
Một chiếc xe ngựa được khắc tượng rồng bằng ngọc trên gác chạy ra Nam Huân Môn, phía sau xe theo sát mấy chục người.
Tướng lãnh thủ thành không dám ngăn cản, chỉ biết nhìn theo cho đến khi đoàn người đi khuất tầm mắt.
"Người đâu!" Tướng lãnh thủ thành vội gỡ túi cá của mình ra, giao cho thuộc hạ mang vào cung: "Mau thông báo cho Quan gia, Huệ Ninh công chúa đã ra khỏi thành!"
Chiếu chỉ sơn son chữ vàng đã được ban ra, quân vô hí ngôn, lần này Triệu Hằng đã quyết tâm, cho dù Lưu Nga có khuyên răng nài nỉ thế nào cũng không thể đả động Hoàng đế.
"Khải tấu bệ hạ, Huệ Ninh công chúa đã mang theo tuỳ tùng trong phủ ra khỏi thành, chạy về phía Nam."
Vị phu nhân ung dung hoa quý run lên: "Ngươi nhìn xem, ngươi làm vậy là muốn lấy mạng con mình sao!"
Lưu Nga đi đến trước măt tên lính: "Nàng đi khi nào?"
Tên lính cúi đầu, không dám nhìn thẳng thánh nhan, bẩm báo nói: "Một canh giờ trước."
Lưu Nga ảo não, nàng tranh luận với người ý chí sắt đá này một canh giờ cũng không có kết quả, còn chậm trễ tin tức báo về từ cửa Nam.
"Nó muốn làm Trẫm tức chết sao!" Triệu Hằng ném cây bút trong tay, đứng dậy đi ra ngoài điện: "Để nó đi, đừng ai quan tâm đến nó."
"Trẫm thật không nên nuông chiều nó!"
"Bệ hạ!"
————————
Sau khi thuận lợi ra khỏi thành Trương Khánh quay đầu ngựa, ra lệnh cho những người phía sau: "Tìm vài vị đại phu nổi tiếng sau đó thuê xe ngựa đưa bọn họ đi cùng chúng ta.
Còn nữa, mua thêm thuốc dự trữ, nói với đại phu là mua cho sản phụ, nhưng không được nhắc đến công chúa, bọn họ sẽ tự hiểu.
Việc này liên quan đến an nguy của công chúa, không được có nửa điểm sai sót!"
"Vâng!"
Trương Khánh vốn giữ chức vụ quan trọng, tự mình ra khỏi cung là tội lớn, nhưng trước mắt cũng không thể nghĩ nhiều được như vậy.
Tính tình công chúa thế nào hắn biết, lúc này chỉ cầu cho trên đường không xảy ra chuyện gì bất trắc.
Vùng ngoại ô thành Nam, một con tuấn mã màu đen phi nhanh đuổi theo xe ngựa.
Tuấn mã lao ra dừng giữa đường, đồng thời chặn đường xe ngựa.
Người đánh xe biết tình huống bên trong, không dám kéo dây thắng gấp, thấy có một khoảng cách, mới nhẹ nhàng kéo dây cương, xe ngựa liền đi chậm lại.
Bên trong xe ngựa, Thu Hoạ và Tiểu Nhu cẩn thận đỡ Triệu Uyển Như, bỗng nhiên cảm thấy xe ngựa đi chậm lại, Tiểu Nhu liền bò ra xem xét.
"Tôn quản sự?" Thấy người phía trước là quản sự trong phủ.
"Cô nương, là Tôn quản sự!"
Tôn Thường xuống ngựa, quỳ gối trước xe, run run nói: "Thần từng hứa với A Lang phải chăm sóc tốt cho cô nương.
Hiện giờ A Lang sống chết chưa rõ, chiến trường lại cực kỳ hung hiểm, lần này Đại nương tử đi cũng không thay đổi được gì, xin Đại nương tử hãy nghĩ cho mình, nghĩ cho đứa bé trong bụng, nếu không A Lang..."
A Nhu xốc màn xe lên, người bên trong lạnh như băng: "Ta không cứu nàng, thiên hạ này sẽ không còn ai cứu nàng!"
"Dù biết không có kết quả, nhưng bảo ta phải ngồi chờ chết, ta làm không được."
"Nhưng với A Lang mà nói, so với mạng của A Lang, so với bất kỳ thứ gì trong thiên hạ, Đại cô nương mới là quan trọng nhất.
A Lang chỉ hy vọng Đại cô nương bình an khoẻ mạnh."
"Vậy nàng có biết hy vọng của ta, cũng chỉ là nàng bình an khoẻ mạnh không?" Giọng điệu lạnh nhạt dần trở nên nhu hoà: "Mà thôi, chuyện này, nàng cũng không thể đoán trước."
"Quan gia làm vậy vì cho rằng ta chỉ là một nữ nhân, cho rằng trên thế gian này, tình yêu không quan trong bằng tính mạng, cho rằng, ta không dám.
Nếu ta không đi, ông ấy sẽ không thay đổi quyết định!"
"Ngài đang...!ép bức cha ruột mình!" Trương Khánh ngồi trên lưng ngựa, cúi đầu nói.
Tôn Thường đang quỳ mọp dưới đất chợt dập đầu mạnh xuống: "Thập Tam sẽ quản lý tốt trong phủ chờ chủ nhân trở về!"
Xe ngựa vòng qua Tôn Thường tiếp tục đi về phía Nam.
Trương Khánh theo sát bên cạnh: "Tây lộ Giang Nam, Nam lộ Kinh Hồ, Đông lộ Quảng Tây, đã thông báo đến Đoàn luyện sử các Châu, nhưng người của chúng ta chỉ ở Giang Nam, những nơi khác chưa chắc dám tự ý điều binh ra tiếp ứng, hơn nữa Đoàn luyện các Châu chỉ là sương quân, sức chiến đấu không cao."
"Vậy chờ!"
Chờ Hoàng đế thay đổi quyết định.
Trương Khánh nhìn cửa sổ xe, bóng người bên trong như ẩn như hiện.
"Vâng."
Suốt một ngày, không ai trong đại nội dám nhắc đến chuyện của phò mã và Đại công chúa, Triệu Hằng cũng tự nhốt mình trong tẩm cung cả ngày không ra, mãi đến khi trời tối cung nhân vào thay than trong lò.
"Không cần!" Giọng nói cực kỳ bi thương.
Một cơn ác mộng doạ Triệu Hằng tỉnh lại, hắn sờ sờ cái trán ướt đẫm mồ hồi, cau mày hỏi: "Giờ nào rồi?"
Cung nhân nghe tiếng Hoàng đế hỏi liền thắp đèn lên: "Bẩm bệ hạ, đã là giờ Dậu ba khắc."
"Sao ta lại ngủ lâu đến vậy!" Triệu Hằng xốc áo bào trên người lên, cúi đầu hỏi: "Thánh nhân có tới đây không?"
"Vừa rồi Thánh nhân đến, thấy bệ hạ còn ngủ nên không quấy rầy."
Hoàng đế siết chặt áo bào, gân xanh trên mu bàn tay nhăn nheo hiện lên rõ ràng: "Chu Hoài Chính!"
"Thần ở đây, Quan gia."
"Tìm chìa khoá, gọi người của Xu Mật Viện đến đây cho ta."
Chu Hoài Chính ngây ra một hồi, mới đáp: "Vâng."
Cuối tháng mười hai, gần hết năm, Tào Lợi Dụng xuất quân tấn công Nghi Châu.
Triều đình lại hạ lệnh, lệnh cho Quỳ Châu lộ cùng Thứ sử các Châu ở Thành đô phủ điều binh đồng thời tiến công Liễu Châu, cũng lệnh cho quân đội ở các Châu gần biên giới chuẩn bị sẵn sàng có thể chi viện bất cứ lúc nào.
Triều đình tuyên bố cáo lệnh, không giết người đầu hàng, người tự động dâng thành, cùng lúc đó cũng hạ mật chiếu, phải cứu cho được phò mã.
Thành Nghi Châu chiến hoả ngút trời, cả toà thành bị huỷ, máu chảy thành sông, so với cảnh đông đúc náo nhiệt trên đường phố Đông Kinh, như địa ngục với thiên đường.
Trải qua trận chiến Thiền Uyên, ký kết hoà ước sỉ nhục, lại thêm quân bạo động hoành hành khởi nghĩa ở phương Nam, Triệu Hằng gặp ác mộng vài tháng liền.
"Sao cha không cứu ta? Ta không phải đứa con mà ngài thương yêu nhất sao?"
"Đừng đừng...!Nguyên Trinh! Đừng trách cha tàn nhẫn, cha cũng là bất đắc dĩ...!không!"
"Sao bệ hạ lại bỏ rơi thần? Bệ hạ kính trọng Đạo gia nhất không phải sao? Bệ hạ đã từng xem trọng thần, bởi vì thần là đồ tôn của Phù Diêu Tử, nhưng nói cho cùng bệ hạ vẫn yêu giang sơn của mình nhất." Một người đầu tóc rối bời đột nhiên ngẩng đầu lên, toàn thân đẫm máu thậm chí thân thể cũng biến dạng làm Hoàng đế sợ tới mức xụi lơ trên đất.
"Không...!Không phải!" Hoàng đế muốn chạy, liều mạng chạy, nhưng hai chân không nghe lời hắn, không thể động đậy.
"Bệ hạ tự xưng nhân từ, nhưng việc làm hôm nay thì sao?"
Người nhuộm đầy máu đang đến gần, Hoàn đế hoảng sợ hét lên, giãy giụa, thậm chí là xin tha.
"Trả mạng lại cho ta!"
Trong mộng, trưởng nữ ngày xưa mình yêu thương nhất và phò mã của nàng đều biến thành quỷ, trở về tìm hắn đòi mạng.
"Đừng!" Hét lên một tiếng, Triệu Hằng bừng tỉnh từ trong mộng, nhìn về phía cửa sổ đã bắt đầu sáng lên, hắn lau mồ hôi lạnh, hô một tiếng: "Người đâu!"
Thái giám nghe gọi liền cầm đèn vào: "Thánh thượng."
"Gọi Đinh Vị và Vương Khâm Nhược vào đây cho Trẫm!"
Thấy Hoàng đế lại ra mồ hôi lạnh, Chu Hoài Chính đáp: "Vâng." Thầm nghĩ, hẳn là đã xảy ra chuyện xấu gì rồi.
Hoàng đế triệu kiến sủng thần vào nửa đêm, tin này nhanh chóng truyền đến Khôn Ninh Điện.
"Mấy ngày nay Quan gia bị bệnh nhưng không chịu để thái y đến chuẩn trị, cứ khăng khăng phải tìm Đạo sĩ hỏi Đạo.
Hiện giờ lại tìm thuật luyện đan cầu trường sinh bất tử."
"Quan gia già rồi, cũng sợ chết, cũng sợ mất giang sơn, ông ấy là tâm sinh tướng!" Vị phu nhân ung dung hoa quý không nhanh không chậm cắt tỉa hoa trong bồn.
"Nhưng xưa nay đế vương luyện đan cầu Đạo, chẳng có ai là trường thọ!" Lôi Duẫn Cung bày tỏ lo lắng trong lòng.
"Người già rồi cũng dễ hồ đồ hơn."
Lôi Duẫn Cung lại nói: "Cũng may Quan gia vẫn tín nhiệm Đinh tướng và Vương học sĩ."
Hắn nói vậy thành ra nhắc nhở Lưu Nga.
Từ khi Triệu Uyển Như nhắc nhở, nàng mới bắt đầu chú ý tới ý đồ thực sự của ba người Đinh – Vương – Tào, trong lòng nghi ngờ hỏi: "Gần đây Đinh Vị có hành động gì không?"
"Thường xuyên ra vào cung quan ngoài thành, liên hệ chặt chẽ với Đạo gia, còn hợp tác với Vương Khâm Nhược...!xúi giục Quan gia tiến hành Thái Sơn Phong thiện"
(Thái Sơn Phong thiện: một nghi thức được các Hoàng đế Trung Hoa tỏ lòng tôn kính với đất trời.)
"A, hiện giờ hắn càng ngày càng có thể đoán được suy nghĩ trong lòng Quan gia, ngay cả ta cũng hổ thẹn không bằng!"
"Từ khi ký kết hoà ước Thiền Uyên, chuyện này đã trở thành tâm bệnh trong lòng Quan gia, nói là hiện giờ quốc khố đầy đủ, Phong thiện có thể rửa sạch..."
"Đây là cố tình che đậy! Xây dựng rầm rộ khổ cũng là bá tánh mà thôi!" Lưu Nga cả giận nói: "Chỉ hận ta là một nữ nhân, không thể ngăn cản người hồ đồ!"
"Thánh nhân, nô tài liều chết cả gan nói một câu."
"Từ xưa đến nay, quân vương đều sát phạt quyết đoán, công của Võ Hoàng, vượt qua rất nhiều đế vương."
Lưu Nga xoay người lại, lạnh lùng nhìn tên thái giám đang khom lưng trước mặt mình.
Triệu Hằng triệu kiến đại thần trong tẩm cung, nói: "Trẫm mơ thấy thần linh báo mộng, nói với Trẫm, nếu muốn bình loạn trận chiến Tây Nam lần này, phải xây Đạo tràng ở chính điện một tháng, đến lúc đó sẽ ban ba chương Thiên thư , tiết lộ thiên cơ!" Còn giấc mộng kinh hoàng kia hắn nuốt vào lòng, không dám nói.
Giấc mộng này là thật hay giả bọn họ không biết.
Vương Khâm Nhược nghiền ngẫm lời Hoàng đế, đột nhiên vui mừng kêu lên: "Thần linh báo mộng, trời phù hộ bệ hạ, chiến sự Tây Nam nhất định bình ổn!" Hoàng đế đã tin Đạo thành mê, mà Vương Khâm Nhược cũng tin theo Đạo giáo từ nhỏ, lúc còn trẻ từng đến đọc sách ở hai thư viện lớn nhất Đạo giáo là Hồ Cương Tự và Phụng Tân Hoa Lâm, chịu ảnh hưởng lớn từ Đạo giáo, giỏi việc thần tiên.
Mà hiện giờ phần lớn đệ tử Đạo gia đều không muốn nhập sĩ vào cung, nói chuyện cũng theo ý mình, không chịu hùa theo đế vương, còn Vương Khâm Nhược lại giỏi nịnh bợ, bởi vậy rất được lòng Hoàng đế, quan vận hanh thông.
"Bệ hạ thấy giấc mộng này, năm sau ắt hẳn sẽ là một năm quốc thái dân an.
Tam Tư đã thống kê quốc khố, lần trước xảy ra nhật thực Khâm Thiên Giám cũng phát hiện năm ngôi sao hội tụ ở miệng giếng phía Đông, chứng tỏ đây là điềm lành."
"Thần biết bệ hạ là minh quân, từ khi đăng cơ đến nay làm việc cẩn thận, khiến quốc khố tràn đầy.
Hiện giờ số dân tăng lên cũng đã đủ để chứng minh Hàm Bình thịnh thế.
Đại Tống chấm dứt nạn Thập quốc loạn thế, kết thúc chiến tranh, ngừng việc giết chóc, cứu lê dân bá tánh trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, hẳn là nên Phong thiện."
Hầu hết đế vương đều muốn gây dựng một phen công lao sự nghiệp, nghe Vương Khâm Nhược thổi phồng một hồi, Triệu Hằng cũng động lòng, nhưng vẫn còn do dự: "Phong thiện có hao tài tốn của quá không?"
Vương Khâm Nhược lắc đầu nói: "Phong thiện là cầu phúc, cầu nguyện điều tốt với thần linh, cầu xin mưa thuận gió hoà, cũng là vì bá tánh."
"Hơn nữa!" Hắn cố ý tạm dừng, dời tầm mắt ngẩn đầu lên nhìn Hoàng đế: "Bọn ngoại quốc như hổ rình mồi, có thể mượn ý trời để uy hiếp bọn chúng."
Ngoại quốc như hổ rình mồi, đây đã là tai hoạ từ khi lập quốc, trong đó người Khiết Đan là tai hoạ ngầm lớn nhất.
Hiện giờ tuy đã ngừng chiến, nhưng lòng người khó đoán, Vương Khâm Nhược đã nói trúng nỗi đau trong lòng Hoàng đế, cũng làm hắn cảm thấy sợ hãi.
"Trước xây Đạo tràng, thờ phụng thần linh, Phong thiện là chuyện quan trọng." Triệu Hằng ngẫm nghĩ: "Làm trước một số việc, sau này nhắc lại sẽ dễ dàng hơn, còn về phía Vương khanh gia..."
"Về phía Thừa tướng thần sẽ nói thay bệ hạ."
"Tốt, vậy giao cho ngươi."
"Ngô hoàng thánh minh!"
Sau khi bọn họ rời khỏi, Triệu Hằng lại vẫy tay với Chu Hoài Chính, nói: "Lập tức sai Vương Đức dẫn theo một ngàn cấm quân chạy về phía Nam, nhất định phải tìm được Đại công chúa để bảo vệ.
Nếu nàng bị thương dù chỉ một chút, bảo hắn đừng bao giờ đến gặp Trẫm nữa."
"Tuân lệnh!"
- -- Hết chương ---.