Trương Khoảng buồn cười: “Không phải Phong Hầu có bổng lộc sao, tiền của muội đâu?”
“Ta tiêu hết để làm việc cho sư phụ rồi.”
Thanh Đàn giúp Giang Tiến Tửu tìm Phật Ly và Di Vi là việc riêng nên Giang Tiến Tửu đã cho phần tiền tháng ngoài định mức nhưng ông quá keo, tiền ông cho không đủ để nàng tiêu, nàng bù bổng lộc của mình vào cũng không đủ.
Nàng thương tâm cảm thán: “Huynh nói xem sao sư phụ không thể hào phóng như Lý đại thiện nhân vậy.”
Lý đại thiện nhân xài tiền như nước đang ngồi trong lều phát cháo, một đám ăn mày quần áo tả tơi càng làm nổi bật vẻ thanh cao không tì vết, tách rời khỏi trần thế của hắn. Hắn có khuôn mặt trẻ trung khôi ngô, đôi mắt hoa đào hơi cụp xuống, trong đôi mắt đó thỉnh thoảng ngước lên lấp lánh ánh sáng.
Thanh Đàn cảm thấy giờ phút này hắn thật sự rất giống một bức tượng Quan Âm trong chùa, à không, là Tán Tài đồng tử [*] mới đúng.
[*] Tán Tài đồng tử (散财童子): đồng tử là những đứa trẻ chưa lớn, tán tài là tài sản có thể bị phân tán, tiền tài bị hao hụt, không giữ được của cải. Trong Phật giáo có Thiện Tài đồng tử, là một biểu tượng mang đậm ý nghĩa về sự phú quý và thịnh vượng, Tán Tài đồng tử sinh ra mang ý châm biếm, ý chỉ những người tiêu tiền như nước.
Đám ăn mày vây quanh thùng cháo, chen chúc đưa chén ra: “Cho ta, cho ta.”
Bồng Lai cầm thìa múc cháo bận rộn đến mức loạn tay loạn chân, trước mắt hắn toàn là chén, có vài người hận không thể dí sát chén đến trước mặt hắn. Quản gia Thường Tiếu giúp đỡ duy trì trật tự, kêu lên: “Mọi người đừng vội, ai cũng có phần mà.”
Mọi người bận tranh nhau miếng ăn, không để ý đến phản ứng của lão ăn mày, ông ấy chạy đông chạy tây bận rộn hồi lâu, cuối cùng mới hỏi được tin tức có ích. Buổi sáng hôm đó, có một tên ăn mày tên Vĩ Ba nhìn thấy Ôn tú tài đi vào Quỷ Viên.
Thanh Đàn hỏi: “Quỷ Viên là nơi nào?”
Lão ăn mày đè thấp giọng nói, thần bí hỏi: “Nữ lang là người nơi khác đến à? Ở U Thành này không ai không biết Quỷ Viên.”
Trương Khoảng nói: “Nói hết những gì ông biết đi.”
Lão ăn mày nói: “Trước đây khu ấy là nơi sinh sống của gia đình họ Ngụy. Nam chủ nhân của nhà đó quanh năm kinh doanh ở bên ngoài. Nhà họ rất giàu, kết quả cây to thì đón gió, dẫn tới tai họa. Cả nhà già trẻ bảy tám người đều bị kẻ xấu giết hại, gia tài bị cướp sạch không còn gì. Nam chủ nhân nghe được tin dữ thì vội vàng chạy về nhà và ông ta cũng phát điên ngay ngày hôm đó. Sau đó thì ông ta không ăn không uống chỉ ở trong nhà kêu khóc thảm thiết, không bao lâu sau thì qua đời tại đó. Từ dạo đó, ma quỷ lộng hành trong khu ấy. Trời vừa mưa gió là ma quỷ sẽ kêu rên nên không ai dám đến đó.”
Thanh Đàn xưa nay gan dạ, truy hỏi: “Ma quỷ kêu cái gì?”
Lão ăn mày dậm chân một cái: “Chính là kêu la thảm thiết ấy. Khu đó cực kỳ tà khí, ngay cả chim chóc cũng không thể bay vào. Ngoài tường thường xuyên có chim chết, chuột chết. Đầy mùi chết chóc, vô cùng đáng sợ.”
Thanh Đàn lại hỏi tên ăn mày tên Vĩ Ba: “Ngươi thấy Ôn tú tài đi vào trong đó, vậy có thấy hắn ra ngoài lúc nào không?”
Vĩ Ba lắc đầu: “Ta thấy hắn vào Quỷ Viên thì ta quay đầu bỏ đi rồi. Chỗ đó đáng sợ lắm. Dù trời mưa gió thổi, bọn ta thà dầm mưa chứ cũng không ai dám vào đó trú mưa.”
Trương Khoảng đuổi hai tên ăn mày đi, nhíu mày hỏi Thanh Đàn: “Có dám đi không?”
Thanh Đàn ngẩng đầu nhìn trời, không hề gì nói: “Đang là buổi trưa, dù có ma thì nó cũng sẽ không xuất hiện. Đi thôi.”
Hai người đi đến cửa Quỷ Viên, cảm nhận được sự sợ hãi mà Vĩ Ba nói là gì. Trên bức tường mọc ra một loại dây leo không biết tên. Thân cây đầy gai đen như răng nanh móng, vuốt rũ xuống ở đầu tường, cành khô lá héo che kín bức tường có đầy những đường màu nâu đỏ, nhìn sơ qua thì giống như máu hắt lên khắp tường, có loại cảm giác rùng mình ,âm u. Dưới góc tường phủ kín rêu xanh, còn có mấy con chim chết.
Trương Khoảng giỏi dùng độc, biết rõ các loại độc vật, nhìn thấy dây leo trên tường thì kinh ngạc nói: “Đây là cây leo huyết độc của Miêu Cương mà, sao ở phương bắc lại có thứ này?”
“Quả của cây leo này có độc, chẳng trách thường xuyên có chim chết, chuột chết.” Hắn tiến lên, nhìn kỹ vết máu màu nâu đỏ trên tường: “Cái này chắc là nước do quả vỡ chảy ra, trong khoảng thời gian dài đã trở thành vẻ ma quỷ này rồi.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về Thanh Đàn khen: “Không hổ là Chiêu Hồn Xuyên, hiểu sâu biết rộng. Nói như vậy, trong khu này chưa chắc gì có ma quỷ.”
Hai người mở cửa lớn ra, trong sân là cỏ dại mọc um tùm, cực kỳ hoang vắng. Mặc dù phòng ốc đã lâu không có người ở, đã rách nát nhưng vẫn có thể nhìn ra được gia đình năm đó là một nhà giàu có.
Thanh Đàn đi vào sảnh chếch, đột nhiên có một cảm giác quen thuộc kỳ lạ, tựa như đã từng tới đây hoặc là đã từng xuất hiện trong mơ. Nhất là chiếc ghế hoa hồng [*] dưới cửa sổ, nàng thấy nó cực kỳ quen mắt.
[*] Ghế hoa hồng
undefined
Trương Khoảng thấy vẻ mặt nàng hoảng hốt thì nói đùa: “Sao vậy? Nhìn thấy ma à?”
Thanh Đàn nhìn chằm chằm vào chiếc ghế hoa hồng đó, chậm rãi nhíu đôi mày thanh tú lại: “Sao ta cứ cảm thấy ta đã từng tới đây rồi, giống như từng ở nơi này vậy.”
Trương Khoảng giả vờ kinh ngạc: “Muội đừng dọa ta. Người nhà này đều chết hết rồi.”
Thanh Đàn chợt cười lên: “Cũng có thể là kiếp trước từng tới đây. Huynh có cảm giác kiểu đó không? Có đôi khi đi ngang qua một chỗ, rõ ràng là lần đầu tiên đến nhưng lại giống như trước kia từng tới vậy.”
“Có.”
Hai người đi quanh một lượt, không phát hiện ra bất cứ sự khác thường nào, lại đi đến sân phía sau, ở đây vốn là phòng bếp và kho củi.
Trương Khoảng đứng trước một đống củi, chợt ồ lên một tiếng, gọi Thanh Đàn qua.
“Sao vậy?”
“Muội xem.”
Thanh Đàn đi đến bên cạnh hắn, nhìn theo ngón tay Trương Khoảng, trên đất trống có một lỗ nhỏ, bên cạnh còn có vài cục phân khô.
Trong lòng Thanh Đàn chợt nghĩ đến, Ôn tú tài lén nuôi một con chó trong Quỷ Viên ư?
“Xuyên ca, huynh ngửi thử xem có phải là phân chó không?”
Trương Khoảng: “...”
Bên tường là mấy cây gỗ dựng thẳng, bên cạnh có một sợi dây thừng để bó củi lại. Thanh Đàn cầm lấy mấy cây gỗ so sánh, chọn ra một cái cắm vào cái lỗ đó thì vừa khít.
Trương Khoảng ngạc nhiên nói: “Cắm ở đây làm gì? Xích chó lại à?”
Thanh Đàn nhìn mấy cây gậy gỗ cao xấp xỉ mình, lắc đầu: “Dùng để xích chó thì không cần dùng cây cao như vậy. Huống chi cây gỗ này cắm trên mặt đất, con chó dùng sức kéo một cái là lỏng ra ngay.”
Trương Khoảng nhặt dây thừng dưới đất lên, trên đó còn có một ít lông màu đen: “Đây là lông chó nhỉ.”
Thanh Đàn chợt nói: “Tháp Thanh Thiên, Quỷ Viên, cổng thành, đúng lúc ở cùng một hướng. Trước khi Ôn tú tài đến Quỷ Viên thì đã cố ý đi vòng tới tháp Thanh Thiên trước để người ta nhìn thấy hắn, nếu không thì không có cách nào giải thích được vì sao hắn đi ra ngoài từ sáng sớm. Đến giờ thìn, hắn mới đến cửa hàng lừa ngựa thuê xe đi Kinh Thành. Mộ của trượng phu Kiều nương tử nằm ở ngoài thành, bà ấy dẫn Ngọc lang ra khỏi thành thì đúng lúc đi ngang qua chỗ gần Quỷ Viên. Ôn tú tài dẫn con chó ra khỏi Quỷ Viên, sử dụng con chó giúp hắn giết Kiều nương tử.”
“Không tệ. Cọc gỗ, dây thừng, phân chó, tất cả đều là vật chứng, cũng đã có một nhân chứng, chính là tên ăn mày tên Vĩ Ba đó.” Trương Khoảng sờ cằm: “Có điều vẫn còn một vấn đề nan giải nữa, cho dù Ôn tú tài lén nuôi một con chó ở Quỷ Viên, nhưng làm thế nào để dạy con chó này đi cắn Kiều nương tử được?”
“Ta đoán hắn mặc trang phục cho cây gậy gỗ này, bắt chước thành Kiều nương tử để con chó nhào đến cắn.”
Thanh Đàn rút cọc gỗ ra, đảo ngược lại nhìn cái đầu cắm vào lỗ, có một vài dấu răng và vết cào rõ ràng, suy đoán của nàng chắc là đúng.
Trương Khoảng khó hiểu nói: “Trò dạy chó kiểu này ta cũng từng nghe nói tới. Nhưng buổi sáng hôm đó mẹ con Kiều nương tử đi cùng nhau, con chó kia làm sao biết được mà chỉ nhào đến cắn Kiều nương tử thôi?”
Hắn lại gần nhìn dấu răng trên cây gỗ, bỗng nhiên nói: “Kỳ lạ, trên cây gậy này có một mùi lạ.”
“Mùi lạ gì?”
Trương Khoảng hít hít mũi: “Giống như mùi hôi nách vậy.”
Thanh Đàn buồn cười.
Trương Khoảng nghiêm mặt nói: “Muội đừng cười, trên này quả thật có mùi hôi nách. Người dùng độc như bọn ta khứu giác còn nhạy hơn mũi chó nữa.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về
Thanh Đàn thu lại ý cười, cúi đầu nhìn kỹ. Những chỗ có dấu răng và vết cắn, màu sắc rõ ràng nhạt hơn một chút, giống như bên ngoài cây gậy này đã được quét một lớp sơn dầu, nàng ngước mắt nhìn Trương Khoảng: “Một cây gậy chuẩn bị làm củi để đốt thì không cần phải quét sơn đâu nhỉ.”
“Không phải sơn, không giống mùi sơn.” Trương Khoảng lấy dao găm ra, cạo một lớp vụn ở mặt ngoài của gậy, sau đó dùng kim bạc lăn một cái, không có độc.
Thanh Đàn hỏi: “Là gì vậy?”
“Không biết.” Trương Khoảng lúng túng cười: “Nếu như là thuốc độc thì ta có thể phân biệt ra được tám chín phần nhưng thứ này không có độc. Ta thật sự không biết là gì.”
Vì sao phải quét một lớp đồ không có độc lên gậy gỗ, nếu như là do Ôn tú tài làm thì rốt cuộc nó có tác dụng gì đây? Trong lòng Thanh Đàn đột nhiên nghĩ đến gì đó, chợt nói một câu: “Trên này có mùi hôi nách. Huynh nói xem, có phải Kiều nương tử có bị hôi nách không?”
Trương Khoảng đột nhiên nói: “Có thể lắm! Nếu không con chó kia làm sao chỉ cắn bà ấy mà không cắn con trai bà ấy chứ!”
Thanh Đàn phủi tay: “Huynh cầm đồ đi tìm Thẩm Tòng Lan đi.”
Trương Khoảng kêu ôi một tiếng, trừng mắt nói: “Chúng ta cùng đi. Công lao này muội có một nửa, há có thể để một mình ta độc chiếm,”
Thanh Đàn không hề gì nói: “Công lao cũng tính hết cho huynh luôn.”
Trương Khoảng không cảm kích, cau mày nói: “A Đàn, lần nào hai chúng ta làm việc chung, muội cũng nhường hết công lao cho ta. Một người đàn ông như ta, da mặt cũng không dày đến mức đó đâu?”
Thanh Đàn bật cười: “Xuyên ca huynh đừng ngại. Ta và huynh khác nhau. Ta làm Phong Hầu không phải vì lập công thay đổi địa vị. Ta vì nợ sư phụ thôi, chờ ta giúp ông ấy giải quyết xong một việc thì ta sẽ rút khỏi Phong Hầu.”
Trương Khoảng lập tức nói: “Chuyện gì? Nói ra xem ta có thể giúp được không.”
Thanh Đàn có chút bực bội đá vào sợi dây thừng dưới chân: “Tìm một người, tên là Phật Ly, lúc nhỏ là hòa thượng, bây giờ thì không chắc.”
“Cái gì gọi là bây giờ không chắc?”
“Mấy năm nay ta và sư phụ đã nghe ngóng rất nhiều chùa chiền nhưng không tìm được người này, có thể là hắn hoàn tục rồi.” Nếu là người nhà chùa thì phạm vi tìm kiếm sẽ nhỏ hơn một chút nhưng một khi hoàn tục thì càng giống như mò kim đáy biển vậy.
“Hắn có đặc điểm gì?”
“Da trắng mỹ mạo. Nếu như không bị hủy dung.”
Trương Khoảng bật cười: “Da trắng mỹ mạo thì được tính là đặc điểm gì chứ? Ta có thể tìm được cho muội hai trăm người như vậy ở trong tiểu quán Kinh Thành đó. Tin không.”
Thanh Đàn lườm hắn một cái: “Nếu dễ tìm như thế thì ta và sư phụ bận rộn mười mấy năm cũng không có được chút tin tức gì à.”
Trương Khoảng hỏi: “Còn có đặc điểm gì khác không?”
“Còn có một món đồ.” Thanh Đàn do dự một chút, lấy quả cầu vàng khắc rỗng ra đưa cho Trương Khoảng xem: “Nghe nói là đồ mà hoàng tộc Nam Việt dùng.”
Trương Khoảng không hề có hứng thú với quả cầu vàng. Hắn nhìn chằm chằm vào hạt châu vàng như nến ở bên trong, lại đưa đến dưới mũi dùng sức hít hà, sau đó hai mắt phát sáng.
“Quả cầu vàng này có phải của hoàng tộc Nam Việt hay không thì ta không biết, có điều hạt châu này thật sự là bảo bối.”
“Đáng tiền lắm à?”
“Cái này gọi là Tịch Tà Châu, xuất xứ từ Tây Vực, mùi hương của hạt châu có thể lưu lại mấy trăm năm. Khi đeo trên người thì tất cả độc trùng, độc vật đều sẽ tránh thật xa.”
Thanh Đàn không có phản ứng gì, không kích động cũng không hưng phấn, ngước chiếc cằm đẹp lạnh lùng lên, dáng vẻ không thèm.
Trương Khoảng tò mò hỏi: “Thứ này rất hiếm thấy, ngàn vàng khó mua được, muội lấy ở đâu ra vậy?”
“Hắn tặng muội.”
Trương Khoảng ít vào một hơi: “Chu cha, hắn cũng hào phóng thật. Món đồ này có thể làm bảo vật gia truyền đó, có thể dùng đến mấy trăm năm.”
Thanh Đàn hừ một tiếng: “Đồ mà ta bị hắn cướp đi còn quý giá hơn Tịch Tà Châu này nhiều.”
Trương Khoảng thì gợi lên lòng hiếu kỳ, trông mong hỏi: “Đồ gì vậy?”
Thanh Đàn đi ra ngoài hai bước, ngoái nhìn hắn, cười ranh mãnh: “Không thể nói cho huynh biết được.”
Trương Khoảng: “...”