Sau vụ Muộn Hải, Hồ Nguyên Trừng cho quân truy lùng những tay giang hồ dám đại náo quân doanh, muốn trừng trị đám loạn thần tặc tử ấy một phen để răn đe. Nào ngờ đám người này đã chẳng còn bóng dáng, cứ như thể họ bay từ trên trời xuống, chui từ dưới đất lên vậy.
Ấy vừa là điểm yếu, cũng là điểm mạnh của nhân sĩ võ lâm. Những người này như là một đống cát, một đám bèo được buộc vào nhau một cách lỏng lẻo. Tuy là không thể đồng lòng đối địch, lúc giao tranh mạnh ai nấy đánh. Nhưng sự đời vốn là vậy. Tụ hợp dễ, tan rã cũng càng dễ. Một khi xong việc, mạnh ai nấy đi, vô câu vô thúc. Cho dù quân chính quy có thúc ngựa đuổi tới, cũng không còn đường nào mà lần.
E sợ đối phương tiếp tục quấy phá, Hồ Nguyên Trừng cho quân lui về cửa biển Đại An, lại để quân sĩ canh phòng thêm cẩn mật. Tối đến, lều nào cũng phải có một người thức trực, những người khác khi ngủ vẫn phải võ trang cẩn thận, khí giới phải để trong tầm với. Một khi có biến, người trực đêm lập tức gọi hết binh sĩ trong lều dậy, ùa ra đánh.
Quả nhiên, nhân sĩ giang hồ mắc bẫy, bị giết mất năm mươi mấy người. Ấy đều là đám cao thủ tam lưu không chịu nghe theo Thiên Cơ Lão Đạo phân phó, tự ý hành động nên mới dính phải bẫy rập của Hồ Nguyên Trừng.
Mấy ngày sau, thư đáp lại của Hồ Hán Thương truyền tới. Trong ấy ghi rõ sẽ dốc hết quốc lực tiếp viện cho Hồ Nguyên Trừng. Viện binh bao gồm mấy vạn đại quân, vài trăm chiến thuyền, ngàn khẩu pháo Thần Cơ. Khai Đại Đế Hồ Hán Thương đích thân xuất chiến, chấn hưng sĩ khí tam quân.
Hồ Nguyên Trừng không dám chậm chễ, vội vàng tự mình dẫn một toán quân ra nghênh đón. Đối ngoại lại cố tình nói khống lên viện binh đông tới hơn mười vạn vạn, thái thượng hoàng Hồ Quý Li tự mình ra trận. Kế ấy cốt là để suy yếu tinh thần chiến đấu của đối thủ, đề cao sĩ khí phe Đại Ngu, qua đó chiếm được tiên cơ. Hai bên đã sẵn sàng giao tranh một trận cuối cùng, cũng định sẵn cửa Hàm Tử sẽ là chiến địa. Trương, Mộc một mặt phát chiến thư, mặt khác lại cho quân diễn luyện mỗi ngày.
Nhưng những chuyện đánh đánh giết giết này cơ hồ chẳng có liên quan gì tới Tạng Cẩu. Mấy ngày này nó theo Quận Gió học võ nghệ, có tiến bộ rất lớn. Những ngón công phu cơ bản ấy nó đã nắm được bản chất, chỉ thiếu hoả hầu mà thôi nên có thể tự luyện. Đặc biệt là về phương diện thi triển chiêu thức Tạng Cẩu càng có tiến triển vượt bậc.
Quận Gió lim dim mắt, trông biểu cảm của lão thì chắc đang giảng đến chỗ hăng hái:
“ Kinh lạc của con người phân ra làm kinh mạch và lạc mạch. Cả thảy kinh mạch có mười hai đường chính kinh, mỗi kinh đại diện cho một trong ngũ tạng hoặc lục phủ. Những kinh này ở tay và chân mỗi bên có ba đường, phân làm hai loại âm dương. Lạc mạch có… ”
“ Sư phụ chờ chút đã!! Lục là sáu, ngũ là năm, cộng lại vị chi mười một! Thế tại sao lại có đến mười hai chính kinh?? ”
Tạng Cẩu ra chiều không hiểu, vội vàng lên tiếng hỏi. Bị cắt đứt mạch giảng, nhưng Quận Gió chẳng những không giận mà còn ôn tồn giải thích:
“ Được rồi, thằng nhóc này làm như sư phụ mi không biết dạy đồ đệ ấy. Nghe tiếp đi đã. Lạc mạch gồm tám mạch: nhâm, đốc, xung, đới, âm duy, dương duy, âm kiều, dương kiều. Ngoại trừ hai mạch nhâm và đốc ra, sáu lạc mạch còn lại không có huyệt đạo riêng nên người ta thường gọi tắt cơ thể người có mười bốn đường kinh lạc, gồm mười hai kinh mạch và hai mạch nhâm đốc. ”
Quận Gió thấy thằng nhóc nghệt mặt ra như ngỗng ỉa, biết nó đang dụng tâm ghi nhớ lời mình, bèn tiếp:
“ Được rồi, nhớ kỹ đây, mười hai chính kinh bao gồm: thủ thái âm phế kinh - thủ thiếu âm tâm kinh - thủ quyết âm tâm bào kinh, túc thái âm tỳ kinh - túc thiếu âm thận kinh - túc quyết âm can kinh. Thằng nhãi nấp đằng sau tấm liếp nghe lén kia, mau lấy văn phòng tứ bảo chép lại đi, không ta đổi ý không dạy nữa bây giờ! ”
Liễu Thăng xấu hổ vén liếp lên, vừa áy náy gãi gáy vừa ngồi xuống bên Tạng Cẩu, trong tay đã có giấy bút nghiên mực đầy đủ.
Phiêu Hương vội nói:
“ Uy, đại tướng quân bắc quốc cao quý các ngài học mấy món công phu mèo ba cẳng của đám man di Nam quốc ta làm gì chứ?? ”
Tạng Cẩu cười khẽ:
“ Nước Nam đất chật người thưa, làm gì có anh hùng hào kiệt? ”
Liễu Thăng xấu hổ đỏ bừng mặt mũi, mới lí nhí:
“ Khi trước Tử Tiêm ngông cuồng vô tri, mong tiền bối bỏ qua. ”
Quận Gió lườm hai tên giặc con một cái, khiến chúng nó rụt đầu rụt cổ lại. Lão khẽ hít sâu, rồi nói:
“ Đạo học vốn là kẻ biết dạy cho người không biết, nào có phân ra sắc tộc?? Nếu không phải khi ấy người bắc truyền xuống, e rằng ta cũng không biết tí nào về kinh mạch lạc mạch mà chỉ cho mấy đứa. Tuy nhiên lý luận là vật chết, người lại sống. Nên có kiến giải khác nhau, vận dụng khác nhau mà nên thành tựu khác nhau, không phải cứ là người Bắc nghĩ ra thì hơn dân Nam, dân Nam sáng tạo thì bỏ xa người Bắc. Chẳng những Trung Hoa, mà Đông Tây gì cũng phải vậy tuốt!
Tốt! Nhóc dám ra gặp, dám học thì Quận Gió ta dám dạy! Không biết như thế có xứng là anh hùng không??? ”
Liễu Thăng được ông khảng khái như vậy, lòng lấy làm mừng. Cậu càng khâm phục lòng dạ của Quận Gió hơn, bèn chắp tay vái:
“ Tiền bối độ lượng sảng khoái, ấy là lòng dạ của bậc đại anh hùng. ”
Mấy hôm trước y có nghe loáng thoáng mấy câu Phiêu Hương nói chuyện phiếm với Tạng Cẩu, lúc thử áp dụng thì nội công tăng tiến nhiều. Thầm nghĩ cái người dạy cho hai người thật là bậc kì nhân dị sĩ. Dù sắp đánh trận quyết định với nhà Hồ, cậu cũng không nén nổi mong ước được theo học Quận.
Lại nói, ông có thể nhẹ nhõm vào hẳn trong doanh trại nhà Minh mà dạy võ cho Tạng Cẩu, chỉ sợ trình độ võ công cũng đã đủ để xưng hùng xưng bá võ lâm Trung Nguyên.
Nghe thì ngại, không nghe lại tiếc, cuối cùng Liễu Thăng vẫn không kìm được lòng. Hôm ấy chờ sẵn, khi bên ngoài có tiếng người là lập tức mang giấy bút theo, ngồi ở xa len lén học.
Ba người dạy và học bằng tiếng Việt, cậu ta nghe câu hiểu câu không nhưng cũng cố hết sức ghi chép lại.
Quận Gió giảng tiếng về sáu kinh dương gồm: Thủ dương minh đại tràng kinh - thủ thái dương tiểu tràng kinh - thủ thiếu dương tam tiêu kinh - túc dương minh vị kinh - túc thái dương bàng quang kinh - túc thiếu dương đảm kinh. Nói hết một lượt, ông lại nhắc:
“ Vì sao chỉ có ngũ tạng, đó là vì tạng Tâm Bào mà ra. Người ta không xếp được Tâm Bào thành một tạng, ấy là do nó phụ thuộc hoàn toàn vào một tạng khác. Tim là tạng đứng đầu ngũ tạng, cũng là tạng trọng yếu nhất. Tâm Bào sinh ra để bảo vệ cho tim, không bao giờ tách rời, nên người chỉ có ngũ mà không có lục tạng. ”
Ông lại giảng giải sâu hơn về kinh lạc, về cách đả thông hai mạch Nhâm - Đốc khi tu tập nội công. Kế chuyển qua nói về các huyệt đạo, về lực và kình, về thủ pháp khắc địch chế thắng. Ông càng giảng lại càng thêm thâm ảo, ba đứa nghe câu được câu mất, nhưng đều cố gắng hết sức ghi nhớ.
Giảng xong tri thức cơ bản, Phiêu Hương biết ý lôi Liễu Thăng đang ngơ ngác dậy, đi qua chỗ khác để Quận Gió truyền thụ võ công cho Tạng Cẩu.
Võ lâm nước Nam đã có một quy củ bất thành văn từ thời Hai Bà, ấy võ công không mấy khi được chép hay khắc lại mà thường truyền miệng. Một sư phụ thường chỉ nhận vài ba đệ tử để dốc lòng truyền đạo, thế nên các môn các phái nước Nam dù lâu đời lắm cũng chỉ có mấy trăm người, song ai nấy đều tinh thông võ nghệ môn phái của mình.
Quận Gió dạy cho Tạng Cẩu môn công phu nội lực thành danh của ông là Bách Quỷ Dạ Hành. Đã được học tường tận về kinh lạc, nên Tạng Cẩu cứ y theo khẩu quyết mà hô hấp thổ nạp, chẳng tốn bao lâu hai mạch Nhâm và Đốc đã liền nhau, một luồng nội kình yếu ớt đã xuất hiện trong cơ thể.
Quận Gió lại hướng dẫn nó cách tích trữ nội lực vào huyệt đơn điền, xong xuôi mới bỏ đi. Gần đây ông cứ sáng lại đến, đêm thì rời khỏi, Tạng Cẩu cũng quen dần với hành tung xuất quỷ nhập thần của sư phụ nên chẳng bao giờ hỏi tới.
Nội công Bách Quỷ Dạ Hành vốn chẳng có tên, từ sau đêm Hội Chí Tôn người trong giang hồ mới phong cho nó cái danh này. Nguyên nhân là do lúc người luyện phát kình, nếu hoả hầu đủ thâm hậu sẽ có thể tạo ra tiếng bước chân người, tiếng tay áo kêu phần phật hoặc tiếng rên rỉ. Luyện tới mức cao thâm, một chưởng vỗ ra không chỉ có kình phong thổi rát mặt mà còn kèm theo tiếng rít gào kinh khủng như tiếng ma cười quỷ khóc. Trong lúc giao đấu, tâm cảnh chỉ cần không vững vàng, sẽ bị những âm thanh này mê hoặc, chết cũng chẳng biết vì sao.
Lần trước Quận Gió ra tay đánh Hồ Xạ, nội công bao trùm Quỷ Diện Phi Châu mới tạo nên âm thanh như tiếng cười xé tim ấy.
Bách Quỷ Dạ Hành dù không tính là nội công quá mức thâm ảo nếu so với những nội công thượng thừa khác. Thậm chí còn hơi lép vế hơn pho khinh công Lăng Không Đạp Vân và ám khí Quỷ Diện Phi Châu nhưng thắng ở tính hiệu quả.
Không có nó, cho dù thân pháp của lão đã đến mức kinh thế hãi tục cũng không thể ra vào Minh doanh như chốn không người thế được.
Tạng Cẩu nhận được chân truyền, dốc lòng học tập. Phiêu Hương thì tranh thủ thuật lại những gì mình hiểu sang tiếng Hán cho Liễu Thăng nghe, tất nhiên cô bé có giấu diếm một phần.
Gần sát ngày khai chiến, quân Hồ gióng trống khua chiêng tiến vào Hàm Tử quan. Thám báo đi dò la báo lại, chỉ thấy ở quân doanh nhà Hồ lều trại dựng lên san sát như rừng, chiến thuyền trên sông lớp lớp như sóng. Đã vậy còn có nhiều pháo Thần Cơ, lắm hoả dược, vô vàn kiếm cung thương mác.
Mộc Thạnh biết tin, cứ đi đi lại lại quanh cửa soái trướng hết ra lại vào. Còn Trương Phụ thì vò đầu, bứt tai, dứt tóc, vặt râu với đôi mắt thâm quầng hằn đầy tơ máu.
Không khí giữa hai bên căng như sợi dây đàn, Trương Phụ và Hồ Nguyên Trừng tính chuyện phái mấy toán quân nhỏ ra đánh nhứ, thăm dò thực hư quân địch.
Trận đầu tiên, Phụ để Lý Bân dẫn khoảng một trăm binh sĩ loại kém ra đọ lại quân Hồ. Hồ Đỗ là người cầm quân bên phía nhà Hồ. Để hư trương thanh thế, Nguyên Trừng phái hẳn một ngàn quân, toàn là lính tinh nhuệ một trăm tuyển một. Hai bên chèo thuyền nhỏ ra, đến giữa dòng thì gặp phải nhau. Lý Bân đứng ngay đầu thuyền, rút kiếm ra chửi:
" Quân man di mọi rợ phía nam hãy coi chừng, Lý Bân ta đây sẽ cho bọn mày biết thế nào là sứ……… ”
Vênh váo được nửa câu, Lý Bân mới nhận ra đối phương đông gấp mười quân mình, khí thế rùng rùng như có thể nuốt trọn trời đất chứ đâu có ô hợp như thủ hạ của y. Y rất bình tĩnh tra kiếm vào vỏ, nói nốt bốn chữ " sức mạnh Thiên Triều ”, rồi mới hất mặt lên, giọng khinh khỉnh:
" Đám man di đừng tưởng đông mà ta sợ, chờ đấy, một khắc sau hai ta đại chiến trăm hiệp!! ” - Nói đoạn quay vào dặn binh sĩ:
" Đem cho ta cái quần màu đỏ sẫm, mau lên. ”
" Hồi bẩm tướng quân, chỉ có đỏ tươi thôi, nhưng đây là quần yếm của một ả đào hát. Bì chức sợ… ”
Nói còn chưa dứt câu thì đã thấy Lý tướng quân thay vội cái quần trắng mình đang mặc ra, rồi còn nhúng nhúng cái quần đỏ vào nước sông cho ướt nhẹp mới chịu mặc lên. Cấp dưới trông thấy cảnh này, không hiểu ra sao. Lúc đầu y nhìn Lý Bân với ánh mắt cực kì cổ quái, nhưng rồi liếc qua phần đũng cái quần trắng Lý tướng quân mới thay ra, lúc này mới à một tiếng ra chiều đã hiểu.
Lý Bân thay quần xong, hài lòng vỗ vỗ cạp quần mấy cái, rồi mới sai một bộ hạ mang quần trắng về quân cho để giặt, còn dặn kỹ:
" Nhớ nói Lý tướng quân bất cẩn trượt chân xuống bùn, làm vấy tanh lên quần. Ra trận mà quần lấm bẩn, áo chẳng sạch là coi thường đối thủ. Hơn nữa có câu thân bẩn thì tâm không thanh tịnh, mặc quần dính bùn rất ảnh hưởng tới tâm cảnh của người cầm quân, như thế thì khó mà giành được chiến thắng. Nên cho dù có mặc y phục của phận nữ nhi, ta cũng vẫn phải thay ra để tròn đạo làm tướng, giữ lấy phong phạm chí cao của Thiên Triều. Có hiểu chưa? ”
Binh sĩ vâng vâng dạ dạ một hồi, lại khen ngợi:
" Lý tướng quân thật là bậc kì tài trong việc dùng binh, thông hiểu binh đạo chẳng thua gì Tôn Tử, Hàn Tín ngày xưa. Quả là tấm gương sáng để cho bọn thuộc hạ học tập. Lòng bội phục của tại hạ dành cho tướng quân đây thật giống như nước sông chảy cuồn cuộn, không bao giờ ngừng, như Hoàng Hà sóng xô không gì cản nổi… ”
Nịnh bợ xong, y mới xuống thuyền bơi về.
" Tướng nhà Hồ bên kia, có gan thì mau xưng tên. Lý Bân này không giết hạng vô danh tiểu tốt. Nếu như thân phận mi quá thấp thì ta tha cho một mạng mà về gọi thằng nhãi Nguyên Trừng ra đánh với ông đây. ”
Ngoài miệng thì ăn to nói lớn, nhưng thực ra trong bụng y lại nghĩ thầm: [ Mặc kệ ngươi là ai, ta cứ bảo ngươi là hạng tôm cua nhãi nhép. Sau đó mở lượng hải hà, tha cho về gọi Hồ Nguyên Trừng là được. ]
Loại người như Lý Bân được người đời gọi là " thùng rỗng kêu to ”.
" Tướng quân nói chí phải!! ”
" Thực đúng là Lý tướng quân. Đây mới là phong phạm mà một bậc đại tướng nên có. ”
Quân Minh hò reo, gõ đao vào thuẫn trợ uy vang lừng cả mặt sông. Lý Bân thì đứng ngay cửa vào khoang thuyền, đầu nhấc độ, mắt nhắm hờ, tay đặt lên đốc kiếm đeo ngang thắt lưng. Chiến bào y phất phơ bay trong gió, tay áo bay múa uyển chuyển như mây.
Y lại cho một đám lính nấp sau lưng mình, mượn khoang thuyền che chắn khiến quân Ngu không ai thấy rõ có người phía sau. Lại cho người dùng kiếm đục sẵn nóc khoang thuyền cho ánh mặt trời có chỗ mà chiếu vào, nói thác là: “ khiến cho khí đọng thoát ra ngoài, vượng khí theo ánh dương vào được trong khoang, cơ hội chiến thắng sẽ cao hơn ba thành. ”
Đám lính lấy vài mặt gương đồng ra, lợi dụng ánh sáng mặt trời để khúc xạ lên nan tre sau lưng y. Nhờ có nền gỗ đen thui, trong khoang thuyền đèn đóm đã tắt hết, ánh sáng phản chiếu lên đầu Lý Bân, cứ như hắn đang toả ra một vầng hào quang vậy.
[ Trước bộ dáng nam thần cổ trang của ta, đám khỉ nước Nam này ắt sẽ sợ hãi gào khóc xin tha mà thôi. Ha ha, tại sao đế quốc Hoa Hạ hùng mạnh của ta mà lại thua đám Việt Nam tép riu này nhỉ??? Lần này với sự trợ giúp của Lý Bân, tức sinh viên đại học chết vì uống nhầm thuốc tiêu chảy cho lợn Đồ Ngu này, quân Minh ta ắt sẽ đại thắng cho xem. Đám Nam quốc cổ đại ấy ngu như khỉ thì biết gì về tâm lí chiến kia chứ?? Một chiêu này chính là Không Thành Kế nổi danh của Gia… ]
Đoàng!!!
Lời còn chưa dứt, thì một viên cầu sắt nặng chình chịch đã lao vút vào khoang thuyền. Rầm rắc rắc một hồi, sau lưng Lý Bân đã có tiếng bong bóng nước vang lên lục bục.
() chú thích nhỏ: nhân vật Lý Bân ( Đồ Ngu) sẽ có vai trò kha khá ở thiên thứ hai của truyện, những sự kiện ở hồi này là để giúp phát triển nhân cách của y.
() Đồ là một họ ở Trung Quốc, Ngu là yên bình. Xin đừng hiểu lầm tác giả