Edit: Yunchan
Mai Lĩnh là vùng đồi núi thấp tọa lạc ở miền Đông Nam, trên núi non trùng điệp mọc đầy cây mai dại, mỗi khi tới mùa mai nở là hương bay ngàn dặm, hấp dẫn thương khách lui tới. Có vài người làm ăn biết nắm bắt cơ hội, dựng quán trà và khách điếm ở chân núi bằng phẳng. Vài hộ giàu có cũng đặt biệt quán ở đây. Dần dà, diện tích nhà ở ngày một rộng hơn, người định cư cũng ngày một nhiều, rồi cứ thế hình thành trấn Mai Lĩnh vòng núi ôm non chẳng biết từ bao giờ.
Vị đạo sĩ Gia Cát Thủ nọ tuy còn trẻ tuổi, nhưng nơi từng đi qua lại khá nhiều. Dọc đường kể rất nhiều chuyện về trấn Mai Lĩnh, khiến Kinh Niên có cái nhìn tổng thể về trấn nhỏ này trước cả khi bước vào cổng trấn.
Lúc này, trời đã chập tối, con đường đá dẫn vào trấn được ánh trăng chiếu vào làm ánh lên màu xám trắng. Cả con đường dù dõi mắt khắp lượt cũng chẳng có lấy một người qua lại, gió cuốn bay đám lá rụng trên đất, phát ra tiếng xào xạc tiêu điều.
“Sao trấn…. này lại vắng tanh thế này?” Kinh Niên nhìn trái nhìn phải, nhìn thế nào cũng cảm thấy lạ. Chẳng phải nói trấn nhỏ này phồn hoa có thể sánh bằng kinh thành, nhà nào cũng buôn may bán đắt sao?
Gia Cát Thủ cúi đầu nhìn thoáng qua chiếc bóng bị kéo dài dưới chân, đáp: “Có lẽ tới đúng lúc nghỉ ngơi.”
“Phải không…” Kinh Niên tự lẩm bẩm, nhớ lại lần mình tới kinh thành, dù có trễ hơn nữa cũng còn tửu lâu mở cửa tầm hoan mua vui.
Gia Cát Thủ chẳng biết suy nghĩ của cô, chỉ nói tiếp: “Cứ tìm chỗ nghỉ chân trước đã.” Nói rồi rảo nhanh bước chân đi vào sâu trong trấn, nhìn quanh hai bên đường tìm khách điếm có thể ngủ lại.
Kinh Niên theo sau lưng hắn, thả chậm bước lại đi song song với Thi Ngũ gia, nhờ ánh trăng lờ mờ để quan sát kỹ cái trấn nhỏ này. Bất kể đi tới đâu cũng có thể ngửi thấy mùi hương tỏa ra từ dãy núi chập chùng đen ngòm phía bên trái, còn kéo theo từng đợt gió rét căm căm.
Đi chưa bao lâu, Gia Cát Thủ bỗng dừng chân ngoái đầu, Kinh Niên cũng dừng lại, nhìn sang bên đường. Từng cái đèn lồng chiêu bài xếp thành dãy có trật tự, con đường trước mặt bỗng trở nên sáng sủa hẳn lên, có điều chẳng soi thấy nửa bóng người nào.
Hai người đi tiếp tới con phố đằng trước, dọc phố mở đầy khách điếm tửu lâu, nhưng kỳ lạ là đèn lồng trước tiệm nhà nào cũng rất sáng, nhưng cửa lớn thì đóng im ỉm, ngay cả một người đứng chào khách cũng không thấy.
Gia Cát Thủ hiếu kỳ nhưng lo lắng lại nhiều hơn, ở đây không có tiệm nào buôn bán, chẳng lẽ bắt họ phải ngủ ngoài trời sao? Chẳng phải hắn chưa từng nghỉ chân ngoài trời, nhưng ngả ra đất ngay giữa phố thì đúng là chưa thử qua lần nào.
Kinh Niên nhìn ra sầu não của hắn, cười nói: “Hay là chúng ta thử gõ cửa đi?” Nói rồi chạy thật nhanh lên bậc thềm của một khách điếm, Gia Cát Thủ vội vàng theo sau.
Kinh Niên toan kéo cái vòng cửa, thì đúng lúc này bỗng nghe bên trong vọng ra một tràng cười to, cô giật mình, áp lỗ tai tới nghe thử. Gia Cát Thủ nghe thấy tiếng cười kia thì cũng ngẩn ra, thấy cô dán tai lên ván cửa thì cũng học theo, rốt cuộc nghe được tiếng ầm ĩ huyên náo, như một đám người đang uống rượu tán chuyện.
Hai người liếc nhau, sau đó hai cái tai cùng rời khỏi ván cửa. Kinh Niên muốn vào trong thăm dò tới cùng, bèn nhấc cái vòng cửa lên gõ gõ. Chỉ chốc lát sau, cửa được kéo ra, một tiểu ca ăn mặc như hỏa kế thò người ra ngoài, lúc thấy Kinh Niên thì lộ ra cái mặt kinh ngạc, nhưng khi hắn ngó tới Thi Ngũ gia đằng sau và Gia Cát Thủ mặc đạo bào thì kêu a một tiếng hết sức nhẹ nhàng, sau đó né người qua bên, cung kính nói: “Nhị vị mời vào.”
Gia Cát Thủ hơi chần chừ, Kinh Niên thì nhảy tót vào cửa không khách sáo, đi được một hai bước bỗng khựng lại, đứng bất động tại chỗ. Lúc này Gia Cát Thủ cũng sải bước lên tới, đang định hỏi cô sao không đi tiếp, nhưng đến khi nhìn thấy cảnh tượng trước mắt thì cũng nghệt người ra.
Trong khách điếm này có bảy bàn khách nhân, ba bàn ghép lại kề sát vào vách tường phía Tây, trên bàn bày cháo trắng và dưa cải, ngồi quây quần bên bàn là năm sáu người mặc đạo bào. Bốn bàn còn lại thì ghép vào dựa sát vách tường phía Tây, trên bàn rượu thịt ê hề, chén bát lộn xộn, ngồi ở đó là ba nam tử trẻ tuổi ăn mặc khác nhau kiễng chân vắt chéo, mỗi người cầm một ngọn đèn soi về hướng cửa nhòm ngó, sau lưng họ là mấy người bị dán bùa chú đứng lẫn chung một chỗ, không phân biệt được chủ nhân là ai.
“Không phải đạo sĩ… thì cũng là Thi quan…” Gia Cát Thủ thì thào, chân mày cũng chau lại theo.
Lúc này, chưởng quỹ đứng sau bàn chạy tới, cười hỏi: “Nhị vị muốn lên phòng trọ trên lầu luôn, hay là ở dưới này dùng chút thức ăn trước?”
Dọc đường đi vội nên cũng chưa ăn uống gì, được chưởng quỹ hỏi như vậy, Gia Cát Thủ bỗng cảm thấy bụng réo ùng ục. Vì vậy nói với Kinh Niên: “Chúng ta ngồi trước đi.”
Chưa đợi Kinh Niên trả lời, một nam tử ở bốn bàn bên kia đã cao giọng nói: “Tiểu cô nương, lại đây ngồi đi, huynh đệ ta mời muội ăn uống thả cửa, tội gì phải theo tên đạo sĩ thúi đó húp cháo loãng?”
Vừa kêu xong, hai người ngồi cùng bàn cũng cười phá lên. Gia Cát Thủ chỉ hờ hững liếc mắt qua như không thèm chấp. Nhưng đạo sĩ ở ba bàn kia lại nổi đóa, một người trong số đó đập bàn đứng dậy, lôi kéo: “Tiểu đạo gia bên kia, qua đây hàn huyên đi, đừng để mùi rượu làm bẩn mũi ngươi!”
Chưởng quỹ đứng bên quýnh đến độ toát mồ hôi đầu, nhưng không dám tùy tiện ngắt lời, chỉ chờ hai người trước mặt ra quyết định.
Kinh Niên nhìn nhìn bốn bàn bên này, rồi ngó sang Gia Cát Thủ, hỏi: “Ngươi muốn ăn gì?”
“… Cháo trắng bánh bao.”
“Ngươi tính mời ta sao?”
“… Chia đều!”
“Vậy xin lỗi không tiếp được ~” Kinh Niên xoay gót chạy vèo về hướng bốn bàn.
Gia Cát Thủ hung hăng trừng cô một cái, mới chậm rãi đi về hướng mấy người đồng đạo.
Kinh Niên vừa ngồi vào chỗ bốn bàn ghép, thì một Thi quan ăn mặc như võ phu lập tức bảo hỏa kế dọn bớt mấy món ăn thừa rượu cặn xuống, thay vào một mâm khác, lấy thêm một bộ bát đũa, trong khi hai người còn lại ăn diện như công tử thì nhìn chòng chọc Thi Ngũ gia cả buổi trời.
Người ăn mặc kiểu võ phu gắp một miếng thịt nướng vào bát của Kinh Niên, cười nói: “Tiểu đệ họ Lô, danh là Hoài Nhâm, cô nương xưng hô thế nào?”
Kinh Niên cám ơn một tiếng rồi mới trả lời: “Lô đại ca, cứ gọi Kinh Niên được rồi.”
Hai tiếng đại ca gọi lên rõ là trong trẻo lảnh lót, khiến Lô Hoài Nhâm êm tai mát ruột. Hai người còn lại cũng không chịu thua kém, cả hai đều tự báo danh hào, một người tên là Tùy Phi, một người tên là Thư Khai Triệt. Kinh Niên không thiên vị gọi mỗi người một tiếng đại ca. Hai người nghe tới rạng rỡ mặt mày, toàn bộ đồ ngon trên bàn đều bỏ hết vào trong bát của Kinh Niên, thoáng cái đã chất thành núi.
Kinh Niên tạ ơn mấy tiếng liền, chưa vội ăn ngay mà móc khăn ra phủi bụi cho Thi Ngũ gia trước, nói: “Ngũ gia, ngài đợi thêm tý nữa nhé, chờ Kinh Niên ăn cơm xong sẽ về nghỉ chung với ngài.”
Nói xong mới cầm chén đũa lên.
Hành động này của cô lọt vào mắt của ba người đồng hành, cả ba đều thấy kỳ quái, nhưng không phải là quá khó hiểu, tới y phục mặc lâu còn có cảm tình, nói chi tới trợ thủ tốt luôn theo mình vào Nam ra Bắc.
Người tên Tùy Phi xít lại gần, bắt chuyện với Kinh Niên: “Kinh Niên muội, muội thật là không đơn giản, hành nghề như chúng ta không phải là không có nữ nhân, nhưng người nhỏ tuổi như muội thì mới thấy lần đầu.”
Kinh Niên đang thả sức lùa cơm, nghe y nói thế thì ngẩng đầu cười: “Tuổi của ta cũng không coi là nhỏ nữa, ra ngoài kiếm tiền nuôi sống mình cũng không phải là việc khó gì…”
Tùy Phi nghĩ tiểu cô nương này lang bạt một mình chắc là tứ cố vô thân, không nơi nương tựa, nên không mở miệng nhắc tới chuyện này nữa. Ánh mắt quét về phía Thi Ngũ gia, dừng lại trên mặt: “Hành đầu này của muội thật không tệ.” Hai tên nhà y hợp lại cũng không so nổi, đã làm nghề này thì chỉ liếc mắt đã định được khả năng rồi.
Nghe có người khen Thi Ngũ gia, Kinh Niên tất nhiên vui tới nở hoa, khổ nỗi trong miệng nhồi đầy cơm với thức ăn, nên chẳng thể làm gì hơn là gật đầu lia lịa thay cho câu trả lời.
Lúc này, Thư Khai Triệt bỗng chen vào: “Nói vậy công lực của tiểu muội không kém, mới thu được hành đầu tốt thế này… bằng không thì…” Trong giọng mang theo vẻ sầu lo mơ hồ.
Lô Hoài Nhâm thấy y muốn nói lại thôi thì lắc đầu, bàn tay đặt lên đùi: “Haizz, Kinh Niên muội à, hành đầu này của muội tài giỏi tới đâu ta không biết, ta chỉ biết muội còn nhỏ quá, chỉ là một bé gái thôi, khi không phải đền mạng thì tiếc lắm. Đại ca ta mời muội ăn một bữa thỏa thuê, tối nay ngủ một giấc cho đã, rồi sáng mai tranh thủ rời khỏi trấn này nhanh đi!”
Kinh Niên nghe hắn nói vậy thì biết ngay trấn này có chuyện, Thi quan và đạo sĩ cùng tụ tập lại đây nhất định cũng vì thế, bèn lên tiếng hỏi: “Lô đại ca, rốt cuộc trấn này làm sao vậy? Cái gì gọi là đền mạng? Kinh Niên nghe mà hồ đồ.”
Người bên cạnh nghe cô hỏi thì ngỡ ngàng ra mặt, ngay cả những đạo sĩ đối diện, hỏa kế đang làm việc luôn tay và chưởng quỹ đang lui cui gảy bàn tính cũng đồng loạt ngó về bên này, vẻ mặt cứ như thấy quỷ.
Tùy Phi phản ứng nhanh nhất, chỉ đờ ra một giây rồi hỏi tiếp: “Tiểu muội, không phải muội tới vì chuyện trong trấn này sao?” Thấy Kinh Niên gật đầu, y mới nói tiếp: “Hiện khắp nơi đều dán cáo thị, trong ngoài thành đều sôi sục hết lên, vậy mà muội không nghe thấy gì thật sao?” Giọng điệu rõ ràng không thể tin nổi.
Kinh Niên xấu hổ thấy rõ: “Tùy đại ca có chỗ không biết, ta mới từ thành Phú Quý tới, trước đây thường đi đường rừng đường núi nên không gặp được mấy ai, ở lại trong thành cũng chỉ có một hai ngày, còn phải vội làm ăn. Thành ra cáo thị gì đó, Kinh Niên hoàn toàn không nhìn thấy, cho dù có người bàn luận cũng không lắng nghe. Lần này vội tới đây nghỉ đêm, nên mới may mắn kết bạn với các vị đại ca.”
Nói rồi giở ra cái mặt phước may ba đời, tuy trong câu nói không có từ nịnh hót nào, nhưng mấy tiếng đại ca gọi với giọng non nớt ngọt ngào, nghe vào xuôi tai tới độ không gì tả nổi, làm ba người lập tức cười tươi roi rói.
Kinh Niên theo sát đề tài cũ: “Ba vị đại ca, có thể kể cho ta chút đỉnh được không, huyện Mai Lĩnh này xảy ra chuyện lớn gì sao? Dù Kinh Niên phải đi thì trong lòng cũng muốn biết nguyên nhân, bằng không tò mò lên thì lại không đi thoải mái được.”
Ba người kia nhìn nhau một lúc, nghĩ cô nói cũng có lý. Đã nói tới mức này rồi, không nói rõ hết thì chẳng phải vô trách nhiệm quá sao? Thế nên Thư Khai Triệt bèn cất giọng, kể vanh vách chân tướng bên trong…
Trấn Mai Lĩnh này là đường giao thông chính của vùng Đông Nam, là thánh địa nghỉ ngơi nổi tiếng gần xa. Ngày nào cũng náo nhiệt tấp nập như trẩy hội, đặc biệt là vào mùa Đông hàn, biển người ngắm mai đổ về lũ lượt, thế nên hàng đêm càng sáng rực đèn đuốc, khách điếm và trà lâu đều đông nghịt khách khứa.
Đó là cảnh phồn vinh của cuối năm ngoái tới đầu năm nay. Song mới đây, khi hoa mai nở rộ đầu cành, mùi hoa thơm nức đưa tới sự hiếu kỳ của mọi người, khách thưởng ngoạn cảm thấy thích thú bèn kết thành đoàn kéo lên núi. Nhưng chuyến đi này lại không thấy một ai trở ra, sau đó có thêm hai ba nhóm đến để tìm hiểu tới cùng, tất cả đều một đi không trở lại. Thế là không ai dám vào nữa, người dân trong vùng kháo nhau rằng, loáng thoáng nghe thấy trong núi vẳng ra từng hồi âm thanh, như tiếng người rên xiết.
Việc này trỗi dậy, huyên náo tới nỗi lòng người hoang mang, dân trong trấn nghi trên núi có quỷ quái, bèn đi khắp nơi mời Thi quan và Đạo sĩ, nhưng lần lượt đều có đi không về. Đến đây dân trong trấn càng bất an hơn, người bên ngoài không dám vào trấn, buôn bán cũng chẳng còn lòng dạ đâu mà làm. Vì thế mọi người hợp lại đề xuất dán cáo thị ở các nơi, triệu tập Thi quan, Đạo sĩ và cao thủ tài giỏi các lộ tới trấn. Thứ nhất là để tìm người, thứ hai là để xác định rõ trong núi có quỷ quái hay không, để mọi người yên dạ. Hễ ai sẵn lòng vào núi, thì mặc kệ kết quả ra sao, tìm được người thì thêm năm trăm lượng, nếu hàng phục được quỷ quái, thì cứ tính theo giá thị trường. Cũng nhờ món thù lao khổng lồ này mới có thể triệu tập được nhiều người tới đây như vậy.
“Không chỉ mỗi nhà này, mà mấy khách điếm trong trấn đều đầy người hết.” Sau khi kể xong, Thư Khai Triệt nốc ngay một hớp trà cho trơn cổ họng, mắt liếc qua nhóm đạo sĩ bên kia, miễn cưỡng nói: “Chúng ta làm nghề này, ở đâu có tiền thì tới, kiếm tiền chính là liều mạng. Khác với bọn giả bộ thanh cao, luôn mồm nói không cần trả công, tới lúc chết rồi cũng chả có tiền chôn.” Giọng điệu sặc mùi đâm chọt, còn cười xấu xa.
Mấy người Đạo sĩ trừng y phẫn nộ, nhưng chẳng ai vặt lại, như thể khinh thường chẳng thèm chấp, tiếp tục quay đầu nói chuyện với người nhà mình.
Thư Khai Triệt cười khẩy một tiếng, sau đó ngả vào lưng ghế nhắm mắt dưỡng thần. Lúc này Kinh Niên cũng đã ăn tới no căng, Lô Hoài Nhâm thấy bát cơm của cô đã hết veo nhưng không có ý định động đũa nữa, bèn nói: “Tiểu muội, sao muội không ăn nhiều một chút? Đừng khách sáo với ta!”
Kinh Niên lắc đầu cười, vỗ vỗ bụng: “No lắm rồi, ăn nữa bể bụng.”
Nếu câu này đổi cho một nữ tử khác nói thì rõ là thô tục, nhưng Kinh Niên nhìn ngược nhìn xuôi vẫn còn là con nít, người ngoài nghe thấy chỉ nói cô ngây thơ ngay thẳng.
Tùy Phi thấy cô dụi dụi mắt, cảm thấy động tác này quả là trẻ con đáng yêu, nhủ thầm nếu mình có một muội ruột như vậy, thì giá nào cũng không nỡ để cô ra ngoài bôn ba. Nghĩ tới đây, y nhất thời nảy lòng thương hại, dịu giọng nói: “Muội tử, ta thấy muội mệt lắm rồi, chi bằng đi nghỉ trước đi.”
Lô Hoài Nhâm cười lớn tiếp lời: “Đúng đúng, mấy đại lão gia chúng ta thức suốt đêm là chuyện thường, còn bé con giờ này phải buồn ngủ rồi.”
Thư Khai Triệt cũng gật đầu hùa theo: “Sáng mai mọi người phải lên núi, không thì nhất định sẽ tiễn muội một đoạn đường.”
Kinh Niên hàn huyên thêm vài câu với họ, rồi bảo hỏa kế dẫn lên lầu. Gia Cát Thủ nhìn cô lên lầu, nét mặt mang theo vài phần ủ dột.
Đêm khuya thanh vắng, chỉ có ngọn đèn lồng ngoài cửa đong đưa theo gió, trong phòng khách hỏa kế gục xuống bàn nằm ngủ, bãi chiến trường ngổn ngang chén bát đã được dọn sạch từ lâu.
Kinh Niên đứng ở đầu hành lang ngó xuống, sau đó nhẹ nhàng nhanh nhẹn lỉnh về phòng, Thi Ngũ gia vẫn ngồi nghiêm chỉnh trên giường như mọi khi.
“Ngũ gia, tiểu ca đó mới ngủ thôi, chúng ta đợi thêm lát nữa nhé.” Nói rồi bước tới trước cửa sổ, vừa mở cửa ra gió lạnh đã thổi táp vào mặt lạnh đến xương. Khí hậu dường như đã thay đổi khác hẳn lúc mới vào thành, rõ ràng đã qua đầu xuân mà thời tiết lại rét căm. Kinh Niên mặc tới hai lớp áo mùa xuân, đáng lẽ là vừa đủ, thế mà bây giờ lại bất giác rùng mình, rì rầm hai tiếng “Lạnh quá.”
Vừa than xong, chợt thấy Thi Ngũ gia đứng dậy, nhảy chậm qua, mở rộng hai tay ra, rồi ôm cô vào trong ngực. Kinh Niên trợn tròn mắt một giây, sau đó thở dài như nghĩ tới cái gì: “Ngũ gia, hồi nãy là Kinh Niên vô tâm…”
Nói đoạn quay người lại đối mặt với Thi Ngũ gia, áp má vào ngực hắn, nhắm mắt lại: “Ngũ gia ôm vẫn ấm thế này, mặc kệ lúc nào, Kinh Niên cũng thích được Ngũ gia ôm…”
Cô biết đây không phải xuất phát từ ý muốn của Ngũ gia, nhưng biết thì có sao đâu, chỉ cần thân thể này có thể sưởi ấm cho cô là đủ rồi…
“Xin lỗi, Ngũ gia, Kinh Niên quá ích kỷ, ngài trách ta đi, cứ trách ta đi…” Kinh Niên vòng tay qua ôm lấy eo của Thi Ngũ gia, thở hắt ra một hơi rồi nói: “Ngũ gia, Kinh Niên không lạnh, ngài buông tay đi.”
Lúc này Thi Ngũ gia mới thả hai cánh tay ra, buông thõng bên chân, Kinh Niên lùi về sau một bước, nhìn ra ngoài cửa sổ: “Khí âm lãnh như vậy, quả thật giống như trong gió ẩn giấu vô số lưỡi dao bén, thứ trong núi không phải tầm thường… Ngũ gia, Kinh Niên không muốn cứu người, cũng không muốn để người ta nhìn thấy bản lĩnh thật của Ngũ gia ngài, mà bỏ chạy cũng không phải tác phong của Kinh Niên. Kinh Niên rất tò mò, đành làm phiền Ngũ gia mang Kinh Niên đi thôi.”
Nói xong móc cây bút đỏ ra vẽ vài nét, Thi Ngũ gia lập tức bế thốc cô lên, tung người nhảy từ cửa sổ lầu hai xuống, chạy vài bước, rồi lại nhảy vút lên một mái hiên khác, mũi chân điểm nhẹ trên mái ngói nóc nhà, vọt lên vài lần đã nhảy qua mấy hộ dân. Bóng lam bật nhảy lên xuống trên không trung, không tạo ra tý tiếng động nào, nhắm thẳng về hướng núi bay vút tới.
Bóng lam chìm vào màn đêm chưa bao lâu, thì một cánh cửa sổ trên lầu hai của khách điếm cũng bị đẩy ra, sau đó một bóng xanh nhảy vút xuống đất.
Vượt qua bụi cỏ mọc lút sau trấn để vào núi, ngay lúc bay qua ngọn cỏ cuối cùng Kinh Niên bèn lệnh cho Thi Ngũ gia thả cô xuống, rồi men theo đất núi chạy vội vào trong. Càng vào sâu sương mù càng dầy, mùi thơm càng nồng, và cũng càng rét. Hơi thở phả ra trước mặt toàn bộ đều hóa thành luồng khí trắng đục.
Chạy mãi tới khi dưới chân phát ra tiếng lạo xạo, Kinh Niên mới dừng bước nhìn xuống, trên mặt cỏ dưới dất đã kết một lớp sương giá dầy cộp. Ngước mắt nhìn mấy cây mai gần bên, trên cánh hoa đầu cành đều phủ kín sương trắng, hệt như vừa hứng chịu một trận đại tuyết. Nếu không có màn sương dầy cản mất tầm nhìn, thì cảnh tượng thu vào mắt sẽ là một bức tranh đẹp tới cỡ nào.
Kinh Niên chà chà cánh tay, không dám dừng lại lâu mà tiếp tục chạy về phía trước. Trong một vùng trắng xóa không tài nào phân biệt rõ phương hướng, chỉ biết chạy lâu như vậy, đại khái đã vào sâu trong núi. Đừng nói không thấy một ai, mà ngay cả một cái xác cũng không thấy nốt. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác, những người vào núi trước đây đi đâu cả rồi? Đừng nói là chôn xuống đất nhé!
Ngay giây phút hoang mang này, một mùi ẩm ướt chợt xộc thẳng vào mũi, Kinh Niên hẫng lại, mắt đảo quanh lùng tìm. Trên cỏ vang lên tiếng “Sột soạt”, nhưng màn sương trắng trước mắt hệt như chiếc màn che dầy cộp, không cho phép nhìn thấy bất cứ thứ gì bên ngoài. Thình lình, một tiếng “Vút” phá không dội tới, mang theo một bóng đen quét xiêng vào trong.
Kinh Niên thét to: “Nhảy!”
Đồng thời nhảy lùi lại cùng Thi Ngũ gia, né khỏi đợt tấn công này. Tới khi đáp xuống đất thì bốn phía cũng yên ắng trở lại. Kinh Niên gấp rút móc cây bút đỏ ra đổi chữ trên bùa cho Thi Ngũ gia, địch trong tối ta ngoài sáng, nói cô không khẩn trương chút nào là nói dối, chỉ còn cách lấy tĩnh chế động, chờ cho đối phương ra tay lần nữa, từ đó mò ra phương hướng để trả đòn.
Quả nhiên, lại nghe “Vút vút vút” mấy tiếng, cái bóng dài vung tới như roi, quét ngang, bổ dọc, trói vòng, tất cả chỉ trong nháy mắt. Kinh Niên cũng tránh rất nhanh, mỗi lần thứ đó trờ tới cô chỉ nhảy nhẹ, chạy chậm, dùng động tác có biên độ cực nhỏ để tránh công kích thật mau lẹ.
Thi Ngũ gia càng linh hoạt hơn, băng qua giữa hàng lớp bóng đen đan xen hệt như yến lượn. Đột nhiên, bóng đen đâm tới trực diện, hắn bèn vung một đòn “Thiết bản kiều”, ngửa ra sau tránh khỏi đợt tấn công, tay trái duỗi ra bắt được một bóng đen, rồi tiện đà lộn ra sau nửa vòng, tiếp đất vững vàng. Sau đó kéo mạnh một phát, ở đằng trước không xa chợt phát ra tiếng “Soạt”, như có vật gì bị kéo lê trên thảm cỏ.
Thi Ngũ gia lùi về sau vài bước, kéo thêm phát nữa, thứ đen đúa đó chợt tuột khỏi tay, thoắt cái rụt về trong màn sương. Kinh Niên chạy lên nhìn thử, thấy lòng bàn tay trái của Thi Ngũ gia dính chất nhầy đen ngòm, bốc ra mùi gay mũi.
“Mùi này rất quen, trước đây ta từng ngửi thấy ở đâu rồi…” Ngón trỏ của Kinh Niên khều khều chóp mũi, ngón cái thì xoa một cái, cầm ống tay áo lên lau tay giúp Thi Ngũ gia, trong khi miệng vẫn lẩm bẩm: “Nếu là thứ đó thì kỳ quá.”
Không chờ Kinh Niên lau xong, vài tia sáng trắng đã xé không bắn thẳng tới, cánh tay Thi Ngũ gia chợt với ra ôm phắt lấy sườn của Kinh Niên, trượt nghiêng sang bên mấy bước, ngay sau đó lại nhảy vút lên, ánh sáng trắng sượt qua dưới chân, đánh “Choang choang choang” vào thân cây mai rồi tức thì vỡ vụn thành những viên băng, mà thân cây khô lại chẳng hư hại chút nào.
Cùng lúc đó, vài chùm sáng trắng lại phóng tới, mà Thi Ngũ gia thì đang lơ lửng giữa không trung. Thế là hắn đá nghiêng đùi phải, đạp lên cành mai ngay bên cạnh, mượn lực đàn hồi dẻo dai của cành cây để nhảy sang một cành khác. Chùm sáng trắng kia lại đuổi rát theo hệt như hình với bóng, Thi Ngũ gia qua lại vòng vèo giữa những cành cây mọc ngang dọc, dù né được tất nhưng lại bị cuốn lấy không cách nào thoát thân. Hơn nữa Kinh Niên còn chưa thăm dò được lai lịch của đối thủ, không nhìn thấy phương hướng cụ thể, trong chốc lát, chẳng thể làm gì hơn là vọt lên nhảy xuống theo Thi Ngũ gia.
Giữa lúc Kinh Niên đang vắt óc tìm cách, thì phía sau chợt lóe lên hào quang vạn trượng, trong tích tắc cả vùng như bị hút vào trong biển kim quang. Kinh Niên nhắm tịt mắt lại, đợi Thi Ngũ gia đáp xuống đất, thả mình xuống mới mở ra lại. Sực nhớ trước đây cũng từng gặp tình huống tương tự, cô lập tức ngoái đầu lại, lúc này sương mù đã từ từ tản đi, có thể nhìn thấy một người đang đứng trên hai nhánh cây bên ngoài, thanh bào cao quan, tay cầm bát quái Thái Hư, không phải Gia Cát Thủ thì ai vào đây?
Kinh Niên hơi ngớ ra, lập tức cười nói: “Đạo gia, ngươi đuổi theo rất đúng lúc, ta còn…”
Lời còn chưa dứt đã phát hiện mặt Gia Cát Thủ cắt không còn giọt máu trừng mắt nhìn đất chằm chằm, há miệng muốn nói gì đó nhưng môi cứ mở ra khép lại. Tim Kinh Niên thót lên, từ từ quay đầu lại.
Đối diện là một vật trắng toát dài ngoằng, lần theo vật trắng đó dời lên chút xíu là….
“Ngũ gia…” Cô căng miệng cười khan một tiếng, giật giật ống tay áo Thi Ngũ gia: “Chúng ta đi thôi!”
Nói xong quay lưng cắm đầu chạy như điên, Thi Ngũ gia nhảy theo sát gót.
Gia Cát Thủ thấy Kinh Niên chạy tới trước mặt mình, thứ đằng sau cũng di chuyển theo ngày một gần, tới khi Kinh Niên chạy sượt qua mới hoàn hồn, chạy bổ theo, vừa chạy vừa kêu: “Cô trốn cái gì?”
“Vậy ngài trốn cái gì hả?” Kinh Niên la với lại mà chẳng thèm ngoái đầu.
Gia Cát Thủ bức lên chạy sóng vai với cô, mặt đầy bực tức, rống thẳng về hướng cô: “Có gan mò tới mà không có gan chịu trách nhiệm sao? Giết chết thứ kia là có thể cầm được tiền thưởng lớn rồi, sao không đứng lại làm đi?!”
“Đạo gia, ngài đề cao Kinh Niên quá rồi đó, thứ đồ chơi kia không thuộc trách nhiệm của ta, còn đạo sĩ chẳng phải nên trừ hại cho dân sao? Ngài cứ yên tâm đi, chuyện nhặt xác Kinh Niên rành lắm.”
Gia Cát Thủ cáu tới nổi mặt đỏ tới mang tai: “Thứ này bần đạo xía vào làm gì? Đạo sĩ chỉ biết xua hồn đuổi quỷ, chuyện la hét khẩu hiệu không phải là chuyên môn của Thi quan các cô sao?”
“Ta nói nè đạo gia, ngài tội gì tính toán thế chứ? Không phải Thi quan chúng ta cũng bị các ngài chửi là con buôn thô tục, người nực hơi tiền suốt sao? Hơn nữa…” Nói đoạn giẫm lên đất một phát, nhảy phắt khỏi nơi vừa đứng.
Thi Ngũ gia và Gia Cát Thủ cũng đều trượt nhanh sang bên, né khỏi tia sáng trắng chiếu thẳng từ trên xuống.
“Ngài lơ ta cũng bỏ, vậy rốt cuộc thứ này ai lo?” Kinh Niên ngẩng đầu nhìn lên trên, chỉ thấy hai cái mồm to như chậu máu treo lơ lửng giữa không trung, cái lưỡi đen ngòm chìa ra lắc lư lên xuống phát ra tiếng khè khè rợn tóc gáy, chẳng phải gì khác mà chính là một con rắn hai đầu to vĩ đại.
Đường kính của con rắn đó rộng chừng một thân cây già năm người ôm, cái bụng trắng hếu, thân rắn dát đầy vảy trắng ánh bạc, riêng phần đuôi là đen kịt như mực. Trên hai cái đầu, một bên có cặp mắt xanh biếc như phỉ thúy, một bên thì đỏ tươi như son. Cái mình dài ngoằng quấn hai vòng trên mặt đất, lúc cái đầu kia ngẩng lên thì vượt qua cả ngọn cây, tỏa sáng cùng ánh trăng.
Dù giờ phút này hết sức nguy cấp, nhưng Kinh Niên vẫn có lòng phát biểu cảm tưởng: “Đẹp quá chừng, thật là mỹ sắc thế gian khó thể sánh bằng!”
Gia Cát Thủ lườm cô, nghi lỗ tai mình có vấn đề, bằng không sao lại nghe có người trong lúc nguy cấp còn rảnh rang ca ngợi tướng tá của đối thủ? Chẳng bằng khen đây là con quái vật khát máu hung tợn thì đúng hơn.
“Theo bần đạo thấy, chúng ta có chạy trời cũng không khỏi nắng, thôi thì dứt khoát ở lại, liều một mất một còn với nó!”
Kinh Niên hơi lưỡng lự: “Linh Xà hai đầu này ở trên đỉnh Tuyết sơn, sao lại xuất hiện trong ngọn núi phía Nam?”
Thảo nào thấy mùi quen quen, trước đây lúc cô vượt qua Tuyết sơn với Thi Ngũ gia có từng đụng phải, đúng lúc con rắn kia đang ngủ say, bọn họ nhẹ nhàng chuồn khỏi mới không đến nỗi xảy ra chuyện hỏng bét này.
Kinh Niên nhớ lại tập tính của Linh Xà, ngẫm lại nó ở lỳ trong núi rất lâu mà không bò xuống trấn quậy phá, bèn buột miệng nói: “Linh Xà sẽ không đả thương người vô cớ, nhưng cũng không cho phép bất cứ vật sống nào xông vào lãnh thổ của mình, ta thấy chắc là nó đã chiếm núi này làm ổ rồi, chỉ cần chúng ta ra khỏi chỗ này là sẽ bình an vô sự thôi!”
Gia Cát Thủ toan đáp lại, thì ngay lúc này đầu rắn mắt xanh há miệng, vài tia sáng trắng tức khắc bắn ra, hắn buộc lòng phải nhảy qua bên. Chưa đợi hắn lấy lại thăng bằng thì cái đầu mắt đỏ lại bắn thêm mấy phát, làm hắn phải nhảy tiếp lần nữa, núp ra đằng sau một thân cây. Sau đó con rắn lập tức quay đầu đánh thốc về phía Kinh Niên, hai đầu luân phiên, đuôi cũng quất tới.
Kinh Niên vừa né vừa nói với Gia Cát Thủ: “Ngài coi, ngài mới trốn ra sau cây là nó không động khẩu nữa, có người nói Linh Xà trời sinh thích cây cối hoa cỏ, chúng ta giết nó có phải là dã man quá không?”
Gia Cát Thủ tức quá hóa cười, nhỏ giọng giễu cợt: “Ta thấy cô nói ngược thì có.”
Hiện giờ ngay cả chạy trốn họ cũng không thoát nổi, kết cục đại khái chẳng khác gì với mấy người mất tích trước đây. Nghĩ rồi hắn bịt một mắt lại, trong đồng tử của con mắt còn lại lóe lên kim quang, hắn dùng kim nhãn này nhìn vào bụng rắn, vừa nhìn vào thì tim cũng lạnh đi phân nửa.
Kinh Niên chú ý tới động tác này của hắn, sau vài lần trở mình cũng tới được bên cạnh hắn, thấy kim quang trong mắt hắn chưa tắt, bèn hỏi: “Ngài thấy gì qua mắt âm dương thế?”
Linh Xà thấy Kinh Niên trốn ra sau cây thì cũng không truy kích nữa, hai đầu và một đuôi dồn toàn sức để đối phó với Thi Ngũ gia, lúc này Gia Cát Thủ mới có thời gian để trả lời câu hỏi của cô.
“Trong bụng có chừng một trăm hồn phách, xem ra toàn bộ người vào núi đều bị nuốt chửng hết rồi.”
Nếu như không tiêu diệt Linh Xà trước, xua hết khí âm hàn, thì những hồn phách này sẽ bị nhốt trong bụng rắn vĩnh viễn, chịu hết mọi giày vò. Nhưng theo tình hình hiện tại, thì họ chẳng những không diệt nổi Linh Xà, mà rất có thể còn trở thành đồng bọn của chừng trăm oan hồn đó.
“Này, cô quen con rắn quái này lắm phải không, vậy nó có nhược điểm gì?”
Kinh Niên đáp ngay mà chẳng hề nghĩ ngợi: “Sợ lửa, sợ nóng.”
“Sợ lửa sợ nóng?”
“Đoán thôi.” Cô cười hì hì, thấy mặt Gia Cát Thủ sầm xuống thì lật đật nói tiếp: “Linh Xà là vật chí âm chí hàn, nếu nhắc tới thứ có thể khắc âm hàn, thì khắp thiên hạ ngoài mặt trời ra không phải là lửa sao?”
Gia Cát Thủ thấy lời cô nói cũng khá có lý, ngẫm lại ánh sáng bát quái khi nãy dù có thể xua tan sương mù nhưng lại không mấy ảnh hưởng tới Linh Xà, chẳng biết lửa có tác dụng hay không?
“Đạo gia, ngài biết chú thuật gọi lửa này nọ không?”
Gia Cát Thủ gật đầu, tiếp lời: “Biết, nhưng sức lửa còn chưa đủ, sợ là không được.”
“Có được hay không phải thử mới biết, ta sẽ lên trước, thừa cơ nó cuốn lấy bọn ta thì trổ tài, đương nhiên, nếu ngài muốn bỏ của chạy lấy người thì ta cũng không phản đối.”
Nói rồi Kinh Niên xua xua tay, xông lên gánh công kích với Thi Ngũ gia.
Gia Cát Thủ cắn răng nói: “Sao bần đạo lại thua một tiểu nha đầu như cô hả!”
Nói rồi bước ra khỏi thân cây, lúc này con rắn đang ác chiến với một người một thi, không rảnh chú ý tới xung quanh. Thấy thế hắn mới định tâm lại, đặt bát quái Thái Hư trước ngực, miệng lâm râm niệm chú. Trang sức hình bán cầu khảm vào giữa bát quái phóng ra ánh vàng mờ mờ, bên trong hình như có một ngọn lửa chập chờn, thế lửa dần mạnh lên, mãi tới khi lấp đầy bên trong nó, chuyển vần thần tốc như một quả cầu lửa, cơn sóng nhiệt phát tán ra bốn phía, ánh sáng vàng đi đến đâu sương giá lập tức hòa tan đến đó.
Gia Cát Thủ trở tay ra sau cổ rút thanh trường kiếm, thân kiếm khắc chú văn, mềm dẻo như cành liễu. Đột nhiên hắn cầm ngang chuôi kiếm, kề thân kiếm lên trang sức hình cầu rồi ma sát qua lại, nơi tiếp xúc với món trang sức lập tức bùng lên ngọn lửa đỏ vàng xen lẫn, trường kiếm thoắt cái hóa thành kiếm lửa.
Linh Xà cảm nhận được nhiệt khí, hai cái đầu bỗng nhiên co rụt lại, tạm ngừng động tác. Kinh Niên nhìn lại, bật thốt lên kích động: “Đại Diễm Thái Dương kiếm!”
Kích động xong cô vội lệnh cho Thi Ngũ gia lùi lại, còn mình cũng nhảy liền mấy cái, đáp xuống một gốc cây xa tít.
“Đạo gia, thuật của ngài cao cấp như vậy, làm Kinh Niên phải lau mắt mà nhìn.” Lúc nói câu này cô nhân tiện thở hắt ra một hơi, lau cái trán tháo mồ hôi hột. Khả năng của cô cũng không tới nỗi, nhưng lâu rồi không luyện thực chiến, đa số toàn để Ngũ gia ra tay dọn dẹp, xương cốt khó đảm bảo không rỉ sét. Lúc này nhìn phản ứng của Linh Xà, có lẽ thiên tính sợ lửa thật sự bị cô đoán mò mà trúng rồi.
“Đừng vui mừng quá sớm, thuật này bần đạo chỉ luyện được ba thành công lực, đây là lần đầu dùng thử, uy lực ra sao không dám chắc đâu.” Gia Cát Thủ liếc Kinh Niên, giơ kiếm đi chậm tới trước, mỗi bước ép tới, Linh Xà lại thụt ra sau vài tấc, hai đầu giữa không trung lắc lư dữ dội, cái đuôi cũng quất xuống đất uỳnh uỳnh.