Edit: Yunchan
Tới khi Điện Hạ rút ngân châm, Gia Cát Thủ và Kinh Niên ở lại nhà giữa, Huyền Ảnh lánh ra sau tấm bình phong, sau khi ăn uống xong thì chia nhau ra thay đồ bẩn. Bởi Điện Hạ và Gia Cát Thủ chưa bình phục, nên Huyền Ảnh ở bên hầu hạ, còn Kinh Niên và Hoàn Tình thì bỏ đồ vào trong chậu, đi chung tới đầm nước ngoài tháp để giặt giũ.
Hai người ngồi sóng vai trên tảng đá nổi dưới nền tháp, chậu gỗ đặt ở giữa, Thi Ngũ gia đứng ở bên rìa nền tháp. Kinh Niên vừa cầm chày gỗ ra sức đập bồm bộp lên y phục ướt, vừa liếc sang gò má của người bên cạnh.
Hoàn Tình biết cô đang nhìn mình, nhưng không nhìn đáp lại, đầu cũng không chệch đi chút nào, chỉ cố hết sức xốc y phục lên lật sang mặt khác, trải lên mặt đá rồi nện tiếp, cây chày gỗ cầm trong tay cô dường như còn nặng hơn cả côn sắt.
Kinh Niên thấy khóe môi cô ta mỉm cười, nhưng miệng thì mím chặt như không có ý định nói chuyện, thế là cô không ngại lên tiếng phá vỡ sự im lặng: “Hai ta từng gặp nhau chưa? Cô biết ta phải không? Ở bên khách điếm cô từng kêu tên Kinh Niên, có phải là nghe bọn Huyền Ảnh nói không!”
Hoàn Tình vẫn không dừng động tác trên tay, trên trán nhỏ mồ hôi tí tách mà mặt vẫn không đổi sắc, thậm chí nụ cười càng rõ nét hơn. Sau đó cô đặt chày gỗ qua bên, hai tay nắm lấy vai áo nhúng vào nước vò sạch, vết máu tản ra hệt như từng sợi mực đen. Vò được một lát, cô xách lên rồi trải ra trên mặt đá, đến đây mới trả lời câu hỏi: “Cô chưa từng gặp ta, nhưng ta lại nhận ra cô.” Cô ngoảnh mặt về hướng Kinh Niên, mắt mày cong cong làm cho người ta liên tưởng tới mặt phật cười.
Kinh Niên ngạc nhiên: “Ta chưa từng gặp cô, sao cô lại nhận ra ta?”
Hoàn Tình đáp: “Có những chuyện có thể nói, có những chuyện không thể nói, cô không cần so đo những thứ ngoài lề, chỉ coi ta là một người hữu duyên thôi.”
Kinh Niên suy nghĩ một chút, hỏi: “Chuyện gì có thể nói, còn chuyện gì không thể nói? Cô thần thần bí bí như vậy, làm ta càng hiếu kỳ hơn rồi!” Thấy cô ta vẫn cười chứ không đáp, bèn hỏi tiếp: “Quỷ thần tiên yêu, cô là loại nào?”
Câu hỏi này rất thất lễ, nhưng Hoàn Tình không để bụng mà vui vẻ đáp: “Ta là người.” Thấy Kinh Niên ngó trái nhòm phải nửa tin nửa ngờ, tự dưng mỉm cười: “Cô không cần nghi ngờ, chẳng qua ta biết nhiều thấy nhiều hơn người thường thôi, Kinh Niên cô nương, cô cũng vậy.”
Kinh Niên hơi ngẩn ra, càng nhìn vào cặp mắt xuyên thấu mọi thứ đó thì càng thấy chột dạ, ánh mắt kia quá trong suốt, như mặt gương vậy, soi hết mọi ngóc ngách khiến người ta không còn chỗ nào che giấu, cô dứt mắt quay đầu đi, thì thào: “Hoàn Tình cô nương, cô nhìn thấy gì ở ta?”
Hồi lâu không nghe đáp lại, cô rầu rĩ nói: “Chuyện này… cũng không thể nói sao?”
Hoàn Tình ngắm nhìn cô từ trên xuống dưới, lướt qua đỉnh đầu rồi nhìn ra phía sau cô, cuối cùng dời mắt về, thì thầm khe khẽ: “Một sợi dây máu thắt hai đầu, hàng tháng hàng năm trông bất tận, mệnh không do trời chỉ thêm sầu.”
Lời này vừa nói xong Kinh Niên bỗng chấn động tâm thần, im bặt thật lâu.
Hoàn Tình bỏ y phục đã vắt khô vào trong chậu, rồi lấy một bộ đồ ướt khác ra đập tiếp, cách một lát thấy Kinh Niên không ừ hử tiếng nào, y phục đang cầm cũng không vò tiếp, chỉ si ngốc ngơ ngác nhìn xuống dưới, rõ ràng đã bị vạch trần tâm sự mà không ai có thể nhìn ra nên nhất thời không chấp nhận được, thấy thế Hoàn Tình bèn trấn an: “Ta cũng không muốn dọa cô, vì cô hỏi vấn đề có thể nói, mà ta không thể không nói, cho nên ta biết không phải đọc suy nghĩ của cô, mà chỉ trùng hợp nhìn thấy tiền căn hậu quả trong này thôi.”
Thấy Kinh Niên toan mở miệng, Hoàn Tình bèn tiếp luôn: “Ta không thể nói nửa câu dối trá, cũng không thể giấu diếm nửa phần, cho nên sẽ không lừa cô, cô cũng đừng hỏi là thấy lúc nào ở đâu, làm sao thấy, những thứ này ta không thể nói.”
Dù cho trong lòng Kinh Niên có trăm ngàn ẩn số muốn hỏi, nhưng thấy Hoàn Tình thẳng thừng như vậy cũng không tiện truy cùng đuổi tận, bèn chọn ra vài nghi vấn trong đầu, lấy những điều liên quan tới bản thân, điều không thể suy xét, điều lo âu sợ hãi, tất cả xâu thành vài câu đơn giản, sau đó hăng hái hỏi thăm: “… Bên cạnh chúng ta sắp sửa xảy ra chuyện gì cô có thấy được không? Cô thấy với không thấy đối với chúng ta mà nói làm sao phân biệt? Cô đã nhìn thấu ta rồi, vậy có thể mách nước chút đỉnh, nói cho ta biết con đường nên đi với con đường không nên đi không… Những thứ này có thể nói hay không nói?”
Hoàn Tình thả y phục xuống, dịch chân ngồi đối diện với cô, kéo tay cô qua đặt giữa hai tay mình, rồi ôn hòa nói: “Chuyện quá khứ ta có thể thấy, nhưng không có sức mạnh để thay đổi, chuyện tương lai không có định số, chẳng ai biết trước được, nhưng chuyện đang diễn ra thì ta lại thấy rất nhiều, rất chính xác. Nếu cô không đi ngang qua đây, thì e là hai ta phải lỡ mất kiếp này, hôm nay hai ta gặp nhau, có thể coi là bèo nước tương phùng, khiến ta tận hết tình chủ nhà tại Diêm Vương tự này. Kinh Niên, con đường nên đi đó câu trả lời là do cô quyết định, chỉ xin không thẹn với trời đất, không thẹn với bản thân thôi.”
Giọng thành khẩn thấm thía như bề trên giáo dục con cháu, Kinh Niên chưa bao giờ được người ta đối xử bằng thái độ này, bây giờ lại bị ánh mắt dịu dàng pha lẫn yêu thương này nhìn tới nỗi xót lòng, sinh ra một loại cảm giác khó hiểu trước nay chưa từng có, cô gái trước mắt này dường như trời sinh đã mang theo loại ma lực khiến người ta tin phục.
Cô bỗng cảm thấy nhánh xương khô lạnh băng đang ấp trên tay trở nên ấm áp, loại cảm giác thoải mái này như đang ngồi trên mây phiêu du, mấy lời bình thường nhất định sẽ không nói với người ngoài lại không cầm nổi phun ra khỏi miệng: “Sao có thể không thẹn, ta có thể lừa được thế nhân, nhưng không gạt được bản thân… ta giúp người khác, nhưng ai giúp ta? Ta vốn là một thứ thừa thãi, trước đây là cái bóng của người khác, bây giờ là cái bóng của Ngũ gia… sau này sẽ lại biến thành của những người khác…” Dứt lời thở dài một hơi, quay đầu nhìn về phía Thi Ngũ gia, lộ ra một nụ cười thoải mái.
Hoàn Tình đan chặt mười ngón tay vào nhau, nhắm mắt đắn đo chốc lát rồi lại mở mắt ra, cầm bàn tay đang ấp trong tay phủ lên ngực Kinh Niên: “Suy nghĩ trong lòng và việc cô đang làm có trái ngược nhau không? Kỳ vọng và sợ hãi của cô có nhất quán với nhau không? Có câu quan tâm tất loạn, còn tồn tại trên thế gian này thì mới có khả năng, đừng để sợ hãi che mờ mắt.”
Kinh Niên mơ hồ, chẳng biết cụ thể ám chỉ điều gì, nét mặt Hoàn Tình vẫn ân cần thành khẩn, nhưng lời nói ra lại hơi bị ông nói gà bà nói vịt.
Hoàn Tình buông tay ra, quay người lại cầm chày gỗ, một tay xoa xoa mồ hôi giữa trán, híp mắt nhìn sóng nước lăn tăn, rồi cười nói: “Giặt nhanh chút thôi, nhân lúc trời nắng phơi khô, nói không chừng tới tối là khô rồi.”
Kinh Niên sững sờ, nhìn bộ đồ trong tay nhỏ nước tanh xuống dốc tảng đá rồi chảy vào trong đầm, lật đật quay đầu lại vò tiếp. Cô không nhìn ra chân thân của Hoàn Tình nên vốn hơi lo lắng, tính mượn thời gian này để thăm dò, nhưng qua cuộc đối thoại vừa rồi, cô đã phủi bay suy nghĩ này ra khỏi lòng. Mặc kệ là thân phận gì, mặc kệ lời Hoàn Tình nói đáng tin mấy phần, nhưng chỉ cần cô ấy không làm khó họ là đủ rồi. Cứ coi như gặp được thế ngoại cao nhân đi, có thể gặp mà không thể cầu. Một khi đã xác định suy nghĩ thì cô cũng không hỏi lung tung nữa, hết sức chuyên tâm giặt y phục.
Hai người giặt xong thì treo quần áo lên sợi dây thừng giăng ngang ngoài cửa sổ phía Nam để hong khô, sau đó vào trong tháp. Hoàn Tình thay nhang đèn dọn dẹp tự đường, Kinh Niên thì dẫn Thi Ngũ gia lên thiền phòng tầng hai, lấy tro bùa pha với Thiên Tuế Hương làm rượu thuốc cho Điện Hạ và Gia Cát Thủ uống. Nằm trên giường tới tận hoàng hôn, cuối cùng tinh thần hai người cũng phấn chấn trở lại, quần áo cũng được gió hong khô, cho nên không ai muốn nán lại nữa.
Hoàn Tình cũng không giữ lại lâu hơn, dẫn họ tới tượng thờ trước điện bái lạy và rút xăm cho châm ngôn.
Kinh Niên rút được thẻ —- lấy tâm làm mắt, không gặp vô duyên, đừng hỏi tạo hóa sẽ ra sao, vinh hèn được mất tự công đạo.
Điện Hạ rút được thẻ —– không cầu tư mưu, không lấy gian tín, không động vì lợi, không hư vì sắc.
Huyền Ảnh rút được thẻ —– Một đời lao khổ đều do mệnh, biết quân phủ cực thái tương lai.
Gia Cát Thủ rút được thẻ —- Nhật Nguyệt cùng thay, người hiền ở bên, nhân duyên thiên định.
Hoàn Tình không giải xăm mà tiễn mọi người ra khỏi tháp, băng qua cầu hẹp, rồi hướng mặt về phía mọi người nói: “Ta là thân đại kiếp, hàng ngày phải coi chừng tự đường không được rời xa, có việc gì khó hãy tới đây tìm ta, ắt có thể giúp đỡ.” Khi nói lời này, tầm mắt rơi trên người Thi Ngũ gia, hành động này lọt vào mắt Kinh Niên, mặc dù cô hoang mang khó hiểu nhưng bên ngoài vẫn thản nhiên.
Từ biệt Hoàn Tình xong, mấy người vòng qua tháp tự nhắm thẳng về hướng Nam, trên đường thuê thêm bốn con ngựa, mỗi tối ăn cơm xong thì nghỉ ngơi, vào canh ba thì lên đường rời điếm, ra roi thúc ngựa, chưa đầy bảy ngày đã chạy tới cảnh nội Nam tỉnh. Khi tới ba ngã giao nhau, có hai ngã lên kinh —– một ngã đường xa phải vượt qua hai ngọn núi, một ngã đường gần, cần đi ngang qua Thổ Diêu trấn. Điện Hạ sau một lúc cân nhắc, quyết định không đổi lộ tuyến, không vòng đường xa, mà trực tiếp đi qua đường trấn.
Thổ Diêu trấn giống như Phong Hoa cốc, cũng là một nơi trong tứ đại âm huyệt, đã có bài học trước đây nên họ không mò đường đi đêm nữa, mà ngủ nhờ trong một nhà dân trong thôn, đợi sáng mai vào trấn.
Do trưng thu đất dựng miếu quan, dân trong trấn đã bị cưỡng chế di dời hết, quan phủ rào đất để khởi công, lấy một phiến đá to để ngăn vùng, chỉ chừa hai con đường mòn cho người vãng lai đi lại. Ở đây không hạ lệnh cấm hành, công trình dỡ nhà xới đất đang tiến hành ở bên trong, dòng người ra vào kinh đều chen chúc trên con đường hẹp bên ngoài, tiếng người ồn ào, tiếng đi đường huyên náo và tiếng thi công “Uỳnh uỳnh” trộn lẫn vào nhau, xáo tung mảnh đất này thành một vùng hỗn loạn.
Điện Hạ dắt ngựa đi tuốt đằng trước, cầm quạt xếp phất qua phất lại, không cho dòng người chen chúc đụng vào mình, ngoái đầu nói: “Lúc ta đi ra còn chưa rào đá, mặt đường rất rộng, ngồi trên lưng ngựa đi một nước đã qua được.”
Gia Cát Thủ nối gót theo sau, thỉnh thoảng bị người đi sượt qua va vào, bây giờ còn chưa tới giữa trưa mà nho sam đã ướt nhẹp mồ hôi, trong tay hắn cầm cái quạt hương bồ mượn từ chỗ Kinh Niên, vừa đi vừa phẩy, bày tỏ cảm xúc với mùi mồ hôi xông ngợp mũi: “Không ngờ mùi người thối lên cũng làm người ta hết chịu nổi!”
Nếu mùi xác chết trong Phong Hoa cốc đủ làm hắn choáng, thì cái mùi ở đây dư sức làm hắn té xỉu, chỉ có loại thôi thúc muốn đâm tường.
Thi Ngũ gia cưỡi trên lưng ngựa, Kinh Niên dắt ngựa đi ở sau cùng, cô hết sức đồng cảm với câu phát biểu của Gia Cát Thủ, bèn chen tới cạnh Huyền Ảnh đằng trước giở giọng trêu: “Đạo gia, nhiêu đây ngài đã chịu không nổi, Kinh Niên còn ngửi qua mấy thứ thối hơn kìa!”
Gia Cát Thủ không thèm tin lời cô, hỏi bật lại một câu: “Mùi gì còn thối hơn cái này hả? Chẳng lẽ là… phân?”
Kinh Niên cười lăn lộn, với tay đập lưng hắn: “Nhiêu đó thì nhằm nhò gì? Mấy thứ đó chỉ ở trong bồn cầu cùng lắm một đêm đã bị đem đi đổ, ngài nên ngửi thử hố phân ngoài đồng á, phân người phân chó phân heo phân trâu, tất tần tật khuất đều, mặt trời hơ hơ, sinh giòi sinh bọ, chậc! Thật đúng là… thối hết xiết!!”
Gia Cát Thủ nghe cô nói xong mặt cũng tái theo, chỉ nghĩ thôi mà đã thấy buồn nôn, nếu ngửi phải thật thì đúng là hỏng đời, cuống cuồng dùng tay che miệng: “Ta… ta khi không đi ngửi thứ đó làm gì hả?”
Kinh Niên cười tới mức hệt như hồ ly thành tinh: “Phải ngửi phải ngửi! Hễ ăn chay niệm phật đều cần đi nhìn thử, rau cải trong cháo mà các ngài ba bữa không rời… chính là mọc từ trong đó ra á!”
Gia Cát Thủ chỉ cảm thấy trong dạ dày trào lên cuồng phong bão tố, nước chua xộc thẳng lên trên, hắn lắp bắp phản bác: “Nào… nào có chuyện này, ngươi chớ nói bậy!”
Kinh Niên cười hì hì: “Ta chẳng thèm nói bậy, là đạo gia ngài không biết gì về chuyện nhà nông, không tin thì đi hỏi Điện Hạ thử xem, nếu không hỏi Huyền Ảnh cũng được, hỏi thử xem dưa cải ngài ăn sinh ra lớn lên thế nào, vậy là biết ngay ta có hù ngài hay không thôi!”
Điện Hạ nghe họ bàn tới phân, thấy đề tài này hơi bất nhã nên vốn không muốn chen vào, nhưng bị chỉ mặt đặt tên thì cũng không tiện giả câm tiếp, đành phải cười khổ đáp: “Phải, phải, Mục ngự quan nói quả là… không sai.”
Cây nông nghiệp dựa vào chất dinh dưỡng trong phân để sinh trưởng, nói là mọc ra từ đó cũng không quá đáng.
Nhưng Gia Cát Thủ biết Điện Hạ một lòng hướng về Kinh Niên, lời nói ra cũng bớt nhiều tính chân thật, bèn quay đầu hỏi Huyền Ảnh sau lưng: “Huyền Ảnh hộ vệ, ngươi nói cho bần đạo nghe xem, cô nương kia nói thật hay đùa?”
Huyền Ảnh im lặng một lúc, trong giọng khàn chứa ý cười hiếm hoi: “Mục ngự quan quá phóng đại, nông vật trồng trong đất tất nhiên phải bón phân, nhưng không thể nói là mọc ra từ đó.”
Câu này của hắn cũng tính là rõ ràng dễ hiểu, người có tý thường thức đều hiểu được ngay, vậy mà Gia Cát Thủ vẫn cứ không phân biệt được, là một tên mù việc nông, từ trước tới giờ chỉ biết ăn sẵn, chứ chẳng quan tâm lần tới nguồn gốc bao giờ. Thế là hắn cau mày suy tư, hỏi lại: “Ngươi nói… bón phân, chính là cái phân đó sao?”
Huyền Ảnh đáp: “Không chỉ những thứ đó, mà nước bùn trong hồ sen cũng có thể dùng để tưới đồng ruộng.”
Kinh Niên chõ lời vào: “Huyền Ảnh, ngươi thật là am hiểu đủ thứ, sợ là ngay cả nữ hồng cũng không thua cô nương đâu?”
Huyền Ảnh cúi đầu không đáp, Gia Cát Thủ thì trái lại, vừa nghe phân bón quả thật dùng tới mấy thứ đồ bẩn này thì khó tránh khỏi buồn nôn: “Nói vậy thì, không phải là ăn… ăn…”
Hắn không nói được, thầm nghĩ từ dưới ra rồi lại từ trên vào, lòng vòng qua lại như vậy suy cho cùng là một loại vạn vật luân hồi, nhưng nghe kiểu nào cũng thấy khó chịu.
Kinh Niên nhìn cái mặt bi thảm là đoán ra ngay hắn đang nghĩ gì, cười khúc khích nói: “Trước khi ăn đương nhiên phải nhặt rửa sạch sẽ, không thì ngài tưởng là gì? Ném cả đất với phân vào trong nồi à? Ta thấy ngài đấy, lúc tu đạo gia pháp thì bổ sung thêm thường thức đi, thật là mạng hoàng tôn phú quý!”
Nói xong mới sực nhận ra câu xỏ này dính luôn cả Điên Hạ, cô đang muốn giải vây thì lại bị một trận ồn ào thu hút sự chú ý.
Đằng trước cách đó không xa, một toán thị vệ mặc quan phục xô xô đẩy đẩy đi ra từ kẽ hở phiến đá, chắn ngang mộc trượng cầm giữ hai người. Tầm mắt bị biển người đông nghịt chắn mất nên không thấy rõ lắm, chỉ nghe một người trong đó gân cổ hét lên: “Muốn đi vào coi thử một cái không được sao? Một lát là đủ rồi!”
Tiếng nói như chuông lớn, mười phần trung khí, nghe được làm mắt Kinh Niên sáng bừng lên, hớn hở reo to: “Giọng này quen, là Lô đại ca!”
Cô giục mọi người bước nhanh lên, chen lại gần nhìn thử, quả nhiên là Lô Hoài Nhâm, bên cạnh hắn là người mặc áo vải nâu đất, mặt dán phù chú, không phải Trần Mộc thì là ai!
Điện Hạ thấy hắn và bọn thị vệ cãi nhau chí chóe, chẳng biết tại sao lại xảy ra xung đột, bèn bước vội lên chen vào giữa hai người thị vệ hô: “Lô huynh, huynh đang làm gì ở đây?”
Lô Hoài Nhâm đang cãi nhau hăng máu, nghe thấy tiếng kêu thì quay vụt đầu qua, thấy là người quen, cái mặt hầm hầm lập tức đổi thành cười tươi rói: “A ha! Huynh đệ, lại gặp mặt rồi!”
Trông thấy mấy người đằng sau thì càng cười tới nở hoa, giơ một tay lên vẫy mạnh: “Tiểu muội, tiểu đạo sĩ, lồng che mặt, các người cũng khỏe hả?”
Gia Cát Thủ không hợp bát tự với hắn, bình thường không thiếu gì người gọi trêu là “Tiểu đạo” đủ thứ loại, nghe xong cũng chẳng nghĩ gì, nhưng tiếng “Tiểu đạo sĩ” cứ tuồn ra từ miệng Lô Hoài Nhâm là nghe kiểu nào cũng thấy chói tai. Gia Cát Thủ không quen thói ngoài cười nhưng trong không cười, lòng thấy sao thì mặt hiện vậy, thế là hắn hất mặt đi, ngoảnh mặt làm ngơ với màn chào hỏi của Lô Hoài Nhâm, còn Huyền Ảnh xưa nay là đầu gỗ một cây, thành ra chỉ có mỗi Kinh Niên cười toe toét một mình, lôi dây cương ngoặt ngoặt rẽ rẽ vòng ra đằng trước, phủi phủi y phục hí hửng nói: “Khỏe, ai cũng khỏe! Lô đại ca, huynh sao rồi?”
Lô Hoài Nhâm ôm lấy cổ Trần Mộc, cười tới khoái chí: “Tìm được huynh đệ này về rồi, đương nhiên khỏe miễn bàn!”
Điện Hạ thấy hắn ăn mặc đẹp đẽ mới mẻ, mặt mày hồng hào, ngay cả Trần Mộc cũng được xử lý sạch sẽ, quay lại với dáng vẻ nhã nhặn trước khi phát cuồng, có thể thấy sau ngày ra khỏi cốc cũng không tệ lắm, vậy mà chạy kiểu nào lại tới chỗ này cãi nhau với người của quan phủ? Nghĩ rồi y ôn tồn nói với thị vệ bên cạnh: “Quan gia, người này là bằng hữu của ta, có chỗ nào xúc phạm xin hãy thông cảm.”
Thị vệ hai bên thấy tướng mạo Điện Hạ bất phàm, ăn vận đẹp đẽ quý phái, dự là công tử của danh gia vọng tộc, nên cả hai đều thu trượng dựng thẳng bên người, một người lên tiếng nói: “Nếu là bằng hữu thì khuyên hắn chút đi, ở đây bận rộn lật trời, đừng tới gây rối thêm!”
Lô Hoài Nhâm trợn trắng mắt: “Cái gì gây rối thêm, ta cùng lắm chỉ muốn vào trong coi thử, coi một chút mà muốn mạng người sao hả?!”
Thị vệ thấy hắn còn chưa biết điều, quay mặt qua toan bước lên dạy dỗ, Điện Hạ thấy vậy thì nhanh chóng đứng ra hòa giải, luôn miệng nhận lỗi, rồi lách người chen vào đám đông đang vây quanh, kéo cánh tay Lô Hoài Nhâm thấp giọng hỏi: “Lô huynh, nơi này là đất ngự dựng miếu quan, ngoại trừ đốc đầu và nhân công ra người bình thường không cho vào.”
Lúc nói vẫn liếc liếc Trần Mộc, bày sẵn tư thế chân trước chân sau, cứ như vào chỗ chuẩn bị chạy bất cứ lúc nào. Bởi ở Phong Hoa cốc hành đầu này nói nổi điên là nổi điên, vẻ điên loạn hung dữ làm người ta nhìn thấy một lần là khó quên, dù cho bây giờ nó hiền lành, nhưng ai dám chắc một khắc sau không nhào lên cắn người chứ? Cho nên đề phòng chút cũng không thừa.
Lô Hoài Nhâm nhìn ra y đang sợ gì, cũng rất hiểu loại tâm trạng này, bèn sải một bước dài chắn trước Trần Mộc, lấy tay che miệng ghé vào tay y nói thầm: “Huynh đệ, ngươi vẫn chưa quên kinh nghiệm đêm đó chứ? Chỗ này cũng là âm huyệt, biết đâu cũng có mấy thứ đó… thì sao?” Nói rồi hắn so so trên cổ, hỏi tiếp: “Ngươi không muốn đi thăm dò tới cùng à?”
Sắc mặt Điện Hạ trắng bệch ra, mấy đêm nay ngủ không ngon giấc cũng vì vừa nhắm mắt là có vạn cái đầu trồi lên từ bóng tối, bên này nhe răng cười bên kia đảo quanh y, cố ý ngủ đêm ở nhà dân cũng do không muốn dây vào chuyện tương tự, gan đâu mà dám thăm dò tới cùng gì nữa chứ? Thế là y hoảng sợ đáp: “Lô huynh, chúng ta đừng sinh sự nữa thì hơn, có mạng trốn chứ không có mạng đền đâu!”
Lô Hoài Nhâm chỉ “Hầy” một tiếng, còn chưa kịp nói gì thì đã bị Kinh Niên lôi theo con ngựa chui vào giành nói trước: “Điện Hạ, mới nói ngài có khí phách, đừng làm cho Kinh Niên tự vả miệng mình chứ!”
Mặt Điện hạ đỏ ửng lên, không muốn mất khí phách nam tử ở trước mặt cô, nhưng không thốt nổi lời hào hùng gì đó, hai tay chắp sau lưng, ngập ngừng đáp: “Khí phách hay không khí phách gì chứ, Huyền Ảnh bảo vệ rất chặt, ta đây chẳng làm gì, còn nói khí phách gì nữa! Cái mạng này cũng là do mọi người nhặt về, sợ thì sợ, nhưng nếu thật sự phải lên núi đao xuống chảo dầu, thì không thể thiếu ta!”
Lô Hoài Nhâm vỗ một phát lên lưng y, giơ ngón cái lên khen: “Hay! Huynh đệ nói câu này rất đẳng cấp!”
Kinh Niên cười khen: “Điện Hạ, ai muốn ngài lên núi đao xuống chảo dầu? Y như tiểu đạo gia, nói câu nào cũng tích cực!”
Giọng điệu của cô trước sau vẫn bất kính như vậy, nghe nhiều rồi sẽ thành quen. Ngay cả Gia Cát Thủ cũng tự động chia lời cô thành mấy phần, ba phần đầu là tiếng người, lâu lâu mới nói, nghe xong bảo đảm thu được khá nhiều lợi. Ba phần là nói bậy, chuyện phiếm bá láp, không nghe cũng được. Ba phần là chuyện cười, có thể nghe giải sầu chút đỉnh, thư giãn bầu không khí. Còn một phần cuối cùng là mấy câu người ngoài nghe không hiểu, nói chung là, đừng tưởng thật hết là được.
Nhưng Điện Hạ đối với ai cũng có thể cười một tiếng rồi thôi, chỉ riêng Kinh Niên là không được, cả trái tim đều giao hết cho người ta, bảo thần hồn điên đảo là quá mức, bảo rất có thiện cảm là chưa đủ, mà là không thể không quan tâm, không thể không bị hấp dẫn. Chỉ thấy y nhìn Kinh Niên, nghiêm mặt nói: “Ta không tích cực với người ngoài, chỉ tích cực với mình muội, chỉ cần là lời muội nói, mỗi câu ta đều lắng nghe chăm chú, nhớ kỹ từng lời từng chữ.”