Chúng tăng tập trung bên ngoài chính điện của chùa Tây Minh, bị hơn mười người Đột Quyết kề dao vào cổ, tất cả đều run lẩy bẩy. Lúc này trong lòng mọi người sợ hãi, không còn dáng vẻ bình tĩnh tự tin, có lẽ còn chửi thầm, bây giờ tụng kinh thì có ích gì!
Kẻ cầm đầu tự xưng là A Sử Na Đa Lộc, là một con sói cao quý trên thảo nguyên, hắn chắp tay trước ngược thi lễ không mấy trôi chảy với Thành Trí. Bởi vì ở Đột Quyết xảy ra nội loạn và phân tranh không ngừng nên nhánh tộc của hắn cũng chỉ còn lại chừng này người. Không biết bọn họ nghe được ở đâu, đêm hôm lẻn vào Trường An, “thành tâm” đến cầu Mật Pháp vô thượng vượt qua sinh tử trong truyền thuyết để giải trừ đau khổ.
Sắc mặt Thành Trí xanh trắng đan xen, ông đứng ở ngoài cửa điện, chắp tay trước ngực, không hé răng nói một lời. Người Đột Quyết cao to khỏe mạnh hơn người Trung Nguyên rất nhiều, cũng thô lỗ hơn. Bọn chúng đạp đổ ngọn đèn trước lư hương to lớn, đốt lửa hun khói. Trúc Hàn và một số đệ tử thân truyền của Thành Trí đều mặc tăng phục màu đen, đứng im không nhúc nhích, biểu cảm gương mặt không chút thay đổi. Có nhóm tiểu tăng mặc trang phục màu vàng nghe tiếng chạy đến, gương mặt non nớt tràn ngập sợ hãi, không dám đến gần.
Giọng của A Sử Na Đa Lộc khàn khàn, hắn nói tiếng Hán không quá trôi chảy, “Cao tăng, Đa Lộc bị bệnh tật quấn thân đã lâu, hơn nữa bây giờ trong gia tộc đang có loạn, mong ngài nói cho ta biết Mật Pháp vô thượng.”
Hắn bị bệnh tật quấn thân nhiều năm lại sợ bị giết trong chiến loạn, hoặc có lẽ là do làm quá nhiều việc ác nên sợ thiên thần Đằng Cách Lý không che chở cho mình nên gửi gắm hi vọng mong được Phật pháp bảo vệ.
Đúng là buồn cười.
Thành Trí gật đầu rồi vuốt cằm, cuối cùng cũng mở miệng, giọng nói không vui, “A Di Đà Phật, thí chủ. Mật pháp không thể trị khỏi bệnh nặng càng không phải là thuốc bất tử. Hết thảy vô thường, cũng chỉ là…”
Người Đột Quyết không có kiên nhẫn nghe ông giảng những lời thiền, thấy ông không nói liền tiến vào chính điện. Trong chính điện bày bàn rộng, trên đó đều là những đoạn kinh văn ngắn đã được dịch và chế tác, ở giữa là bản sao chép cuối cùng do Thành Trí dùng mực vàng tự tay chép lại, trông đã khá dày.
Lúc này, những trang giấy, cán bút hoặc là sổ sách đều bị ném hết ra ngoài. A Sử Na Đa Lộc nhặt đại một quyển lên lật xem lung tung, thấy đều là chữ viết của Đại Đường thì mày nhíu sâu hơn, không kìm chế được tiếng ho khan.
“Hòa thượng già kia, ta kính trọng ông nên gọi ông một tiếng cao tăng, ông đừng không biết điều!”
Tiếng nói vừa dứt, mấy quyển sổ chú thích bị ném vào lò lửa cháy rực, giống như một miếng thịt tươi bị ném vào miệng hổ khổng lồ, chỉ trong chớp mắt đã cháy rụi không còn một mảnh. Trúc Hàn siết tay, thu tất cả hình ảnh vào đáy mắt, tim chàng đập mạnh, nhưng không phải vì sợ A Sử Na và người Đột Quyết.
Mãi đến khi A Sử Na Đa Lộc cầm một quyển kinh đã phủ bụi lên, đó là bản chế tác cuối cùng tinh xảo nhất, bên trên còn có chữ viết của Thành Trí giống như khắc dấu trên bia đá cáo phó, khiến chàng càng căng thẳng hơn.
Lúc ấy Trúc Hàn nghĩ gì? Sao chàng lại xông lên? Rõ ràng ngày thường chàng hay khuyên A Âm không nên làm việc lỗ mãng, nhưng lần này chàng lại không nhịn được làm bừa. Tất cả bởi vì nhớ đến lời Thành Thiện dặn dò trước lúc lâm chung – chuyện này đã từng khiến A Âm và chàng có một đoạn thời gian chẳng mấy vui vẻ mà đến chết chàng cũng không thể nói rõ với A Âm.
Trước khi Thành Thiện tọa hóa đã cố chấp cầm tay chàng, nhẹ nhàng nói ông và chàng đã từng hợp ý thế nào, lại đối xử với chàng như con cháu ra sao. Trúc Hàn biết, người sắp chết thì dường như trong khoảnh khắc ấy nhìn thấu rất nhiều điều, thản nhiên đến cực điểm.
Ông chỉ có một mong muốn đó là căn dặn Trúc Hàn nhất định phải thành tâm dịch kinh, đây là chuyện lớn. Nếu dịch xong mà tâm vẫn hướng về hồng trần như cũ thì sư phụ ở dưới suối vàng cũng có thể yên lòng đón nhận…
Lúc chàng bước lên, Đa Lộc cũng không ngờ trong viện toàn là tăng nhân nhát gan lại có người dám can đảm ra mặt, chỉ trong chớp mắt thất thần, kinh thư đã bị kẻ đó cướp mất.
Trúc Hàn ôm kinh thư trước ngực, đối mặt với gương mặt phẫn nộ của Đa Lộc. Quả thật lúc cầm dao găm đối mặt với những sinh vật nhỏ chàng thấy sợ hãi nhưng bây giờ thì không. Có lẽ chàng đã bị A Âm đồng hóa, chấp niệm quá sâu hoặc có lẽ là vì yêu nên không còn sợ hãi, trở nên to gan.
Còn đám người ở sau lưng vì lời đồn đại trong thành hoặc bởi vì âm thầm ghen ghét mà “cô lập” Trúc Hàn, lúc này lại chẳng có một ai dám tiến lên. Kinh Kim Cương Đỉnh quan trọng với Mật tông, trở thành pháp điển cơ sở thì thế nào? Nói là nhìn thấu sinh tử nhưng liên quan đến mạng sống của bản thân thì sao có thể nhìn thấu? Đệ tử nhà Phật cũng không ngoại lệ.
Bọn người Đa Lộc lập tức cho rằng điều huyền bí được cất giấu trong kinh thư chưa dịch xong này, càng thêm phấn chấn. Lúc này bên ngoài cổng chùa, Kim Ngô Vệ có xu hướng tràn vào, trước đại điện trở nên lộn xộn. Đó là một đêm cực kỳ hỗn loạn, tiếng kêu thảm thiết của tăng nhân vang lên đứt quãng, lư hương cháy lộp độp, đám người Đột Quyết rơi vào đường cùng thét lên giận dữ.
Trúc Hàn ôm kinh thư trong ngực, chuẩn bị chạy nạn giống như những tăng nhân còn lại, nhưng chàng vừa quay đầu lại đã mềm lòng, gương mặt già nua của Thành Trí, mu bàn tay lấm tấm đồi mồi, bước đi chậm chạp. Vào khoảnh khắc sống còn ông bị một đám đệ tử bỏ rơi, trở thành một người đáng thương.
Trúc Hàn xúc động, quay lại không chút do dự, chàng đỡ cánh tay của Thành Trí, dùng nửa người bảo vệ ông đi về phía hậu viện.
Chàng là tăng nhân trẻ tuổi nhất trong đám người, lại mặc tăng phục khác màu, dĩ nhiên bất phàm. A Sử Na Đa Lộc được thủ hạ che chở nhìn chàng quát to, “Đưa kinh thư cho ta!”
Trúc Hàn không quay đầu lại, cúi đầu bước theo nhịp chân của Thành Trí, A Sử Na Đa Lộc và thủ hạ rơi vào đường cùng đều dồn sự chú ý vào Trúc Hàn, sau đó hắn cầm đao đâm nhát đầu tiên từ sau lưng chàng…
Đao thứ hai, đao thứ ba… rồi rút ra.
Chàng chỉ cảm thấy đau quá. Lưỡi đao xuyên qua ngực, dòng máu đỏ tươi không ngừng chảy ra, thấm ướt kinh thư phía trước, may mà kinh thư được viết bằng mực vàng, chỉ cần hong khô là có thể nhìn rõ chữ. Tay Thành Trí run run, trơ mắt nhàn Trúc Hàn ngã xuống, sau đó người của Kim Ngô Vệ kéo đến vây quanh, người Đột Quyết bị bắt.
Sau một ngày mệt nhọc, người dân trong thành Trường An đều vội vàng quay về nhà, chẳng có ai ngẩng đầu nhìn về phía chùa Tây Minh, gió thổi qua khiến thế lửa càng lớn hơn.
A Âm nhận bánh đậu ngọt được bọc trong lá cây, dịu dàng cám ơn bà lão dắt đứa trẻ. Đôi bạn tốt Quỷ Sứ và Chướng Nguyệt ở trong rừng, chén chú chén anh dưới ánh trăng, ríu rít đàm luận chuyện của quỷ.
Vào thời khắc cuối cùng ấy, Trúc Hàn dùng hết sức lực toàn thân giữ chặt kinh thư trong tay, chàng chỉ nghĩ đơn giản là Kinh Kim Cương Đỉnh đã dịch được phân nửa, A Âm chờ lâu như vậy, không thể bắt đầu lại từ đầu. May mắn, may mắn chàng đã che lại, chỉ cần chép lại một phần thôi.
Thành Trí run rẩy quỳ bên cạnh chàng, nhìn Trúc Hàn há miệng thở dốc, hơi thở dần mong manh, câu cuối cùng chàng nói là “A Âm”, chàng còn đưa kinh thư dính đầy máu qua… Lời chưa dứt, có giọt nước mắt lăn qua đôi mắt không khép lại được, dù không muốn thì cũng đứt đoạn hơi tàn.
Chàng rất hối hận, xét kỹ ra thì cuối cùng trong đoạn tình này chàng vẫn phụ A Âm.
Vào một đêm lập xuân, chùa Tây Minh cổ kính trăm năm ở thành Trường An gặp họa sát thân. Tăng nhân trong chùa bị thương vô số, nhưng chỉ có một người bỏ mạng. A Âm đứng trên xà nhà, bánh đậu ngọt trong tay rơi xuống đất. Gió đêm lạnh lẽo nhưng nàng còn cảm thấy mặt mình lạnh hơn, giơ tay lau thì nhận ra đầu ngón tay ướt đẫm.
Ngày hôm sau, triều đình ra ra quyết sách, chôn vùn chuyện vốn không mấy vẻ vang này. Trúc Hàn sư phụ được hỏa táng trong âm thầm đồng thời phái học sĩ viết chữ đẹp nhất trong cung đến sao chép lại Kinh Kim Cương Đỉnh gấp, tất cả vết máu ở chùa Tây Minh được gột rửa sạch sẽ, vạn vật quay lại vị trí cũ, quan chép sử cũng không ghi nhớ.
Từ xưa đến nay có một đạo lý không bao giờ thay đổi, đó là người sống luôn cố gắng duy trì vẻ bình yên mong manh ở bên ngoài, nhà nhà đều giống nhau, dù bên trong tàn tạ bên ngoài vẫn phải giả vờ ngay ngắn.
A Âm đứng trên xà nhà cả ngày, nhìn những gương mặt đến đi vội vã. Mãi đến khi mặt trời lặn về Tây, thời khắc âm u đen tối nhất trong ngày đến, hạc xám bay lên.
Màn đêm buông xuống, ma quỷ giết người trong thành Trường An, người chết thảm vô số.
A Sử Na Đa Lộc cầm đầu đám người Đột Quyết chết rất thê thảm, mạch máu lòi ra ngoài, hốc mắt nứt toác. Những phạm nhân còn lại thì trở nên điên điên khùng khùng, không nói rõ được là xảy ra chuyện gì, chỉ nói là chưa bao giờ nhìn thấy con hạc nào hung ác đáng sợ đến vậy.
Lại có quan chép sử mất mạng trong nhà, sau đó là học sĩ hàn lâm đang chép kinh Phật cũng bị hỏa táng bí mật, liên tục có người chết. Chúng tăng trong chùa Tây Minh bàng hoàng, đồn rằng nhìn thấy hạc kêu thảm thiết dưới ánh trăng.
Ở một góc phố không người trong thành Trường An, Tạ Tất An và Phạm Vô Cứu truy đuổi không dừng.
A Âm tốt bụng khuyên nhủ, “Không nên ép ta ra tay.”
Nhưng Diêm Vương đã truyền lệnh đồng thời phái ngục tốt cùng tham gia vây bắt, hai người họ chỉ có thể cứng rắn ngăn cản. Lúc này toàn thân nàng tràn ngập sát khí, nếu còn giết tiếp chỉ sợ thần trí sẽ bị chệch hướng, hoàn toàn hóa thành lệ quỷ.
Cuối cùng Chung Quỳ tự mình đến, vung xích sắt trong chùy truy hồn ra trói nàng lại, kéo về Địa Phủ. Lần này Diêm Vương rất tức giận, chiếu theo luật ở Âm phủ, tay nàng nhiễm máu nhiều người như vậy sẽ bị đày xuống Địa Ngục, chịu cực hình khắc nghiệt cả ngày lẫn đêm, bị giam giữ đến khi chết.
Quỷ Sứ vội vàng chạy đến Âm Ti, quỳ xuống cầu xin Diêm Vương một cơ hội đàm phán bí mật.
A Âm đã đi một vòng qua mười tám tầng Địa Ngục, chịu đủ loại tra tấn, không có gì ngoài đao kiếm đâm mình, lửa lớn đốt người, rét buốt đông lạnh, hố to hang lớn… Cho dù nàng đã từng chịu cảnh cô đơn giày vò hơn năm trăm năm để tích cóp âm thọ thì xong trận này cũng chỉ nhặt về được cái mạng, còn chút hơi tàn.
Theo bản án thì nàng còn phải chịu giam cầm vĩnh viễn, may mà có Quỷ Sứ cầu xin và Chướng Nguyệt đứng ra hòa giải, ký kết khế ước làm Quỷ sai với Diêm Vương nên nàng mới ra khỏi Âm Ti được.
Trong chùa Tây Minh, không hiểu sao di vật của Trúc Hàn biến mất, trụ trì Thành Trí sinh bệnh vẫn gắng gượng giám sát việc dịch kinh.
Sau khi A Âm tỉnh lại, toàn thân đau đớn, thế mà vẫn ráng xuống giường, nàng vẫn chưa giết hết bọn họ. Kim Ngô Vệ cứu viện chậm chạp, lính canh thành bỏ bê nhiệm vụ cũng đáng chết, tất cả bọn họ đều phải chết không yên thân.
Quỷ Sứ nghe tiếng bước đến, “Người còn muốn làm gì?”
Giọng nói nàng đã khàn đến mức không ra giọng, hơn nữa đã lâu chưa mở miệng nói chuyện nên khó nghe vô cùng, “Vẫn chưa giết đủ.”
“Ngươi có thể tỉnh táo lại không? Vì bảo vệ cái mạng quỷ của ngươi mà ta đã quỳ ở điện Diêm Vương cả đêm, Chướng Nguyệt cũng phải ra mặt, ăn nói khép nép cầu xin. Vì một hòa thượng tuổi thọ đã tận, ngươi lại điên đến mức này?”
“Im miệng!” A Âm gào thét, chỉ một tiếng này đã không còn sức lực, khàn giọng nói, “Ta xin ngươi đừng nói nữa…”
“Ta đã nhắc nhở ngươi bao nhiêu lần, trong mắt người đời những chuyện ngươi làm là thất đức, chắc chắn hắn sẽ chết không được yên lành…”
Nàng cầm chén trà đặt trên cái bàn thấp cạnh giường ném thẳng về phía Quỷ Sứ, “Ta bảo ngươi câm miệng! Cút ra ngoài!”
Hắn lấy một cái hộp gỗ đàn hương đặt trong hộc tủ cạnh cửa ra, đặt mạnh xuống giường rồi tức giận xoay người rời đi.
Dường như A Âm nhận ra điều gì đó, tay run run mở nắp hộp, bên trong có mùi đàn hương quen thuộc, hai bộ tăng phục màu đen và xanh lam đều là thứ mà A Âm yêu thích, một trăm linh tám hạt gỗ tử đàn được xuyên thành tràng hạt, đã từng đứt đoạn vào ngày nàng quay về tìm chàng mười năm sau đó. Còn có mấy trang giấy đã viết chữ, bên trên là dòng chữ “Hết thảy hữu vi pháp” mở đầu kinh văn, dần dần cả tờ giấy biến thành “A Âm”, không biết chàng đã viết chúng khi nào. Ở dưới cùng là một cái chén không thể quen thuộc hơn, hoa văn quỷ dị trên cái chén vẫn sinh động như cũ, nàng chưa từng nghĩ Trúc Hàn lại cất giữ cẩn thận như vậy.
Nghĩ đến đây, lòng nàng đau đớn vô cùng, chàng đi lại trên thế gian này hai mươi năm, những những gì chàng sở hữu cũng chỉ có vẻn vẹn vài thứ này.
Lúc Chướng Nguyệt cầm một cái chén đựng mắt thú bước vào cửa, A Âm đang ôm tăng phục khóc không thành tiếng, nước mắt mờ mịt thấm ướt một mảng áo lớn. Chiếc áo đen được hỏa táng theo Trúc Hàn cũng đã nhiễm máu nhìn không ra hình dáng. Bây giờ nàng chỉ cảm thấy mình và thân thể này hòa vào nhau càng thêm hoàn mỹ, trái tim như bị móng tay sắc bén của bà La Sát cắm vào, hô hấp khó khăn vô cùng.
“A Âm, ăn đi.”
Nàng nghe tiếng ngẩng đầu, mái tóc rối bời lòa xòa trước trán, mặt mày trắng bệch, hai mắt đỏ ngầu.
Thấy nàng không trả lời cũng không có ý định ăn, Chướng Nguyệt đặt khay xuống rồi rút một sợi dây thừng đen từ trong cái túi ở tay áo ra. Hắn giang hai tay, sợi dây thừng làm từ sợi bông bay bay, ôm trọn cái cổ của A Âm, từ từ siết chặt lại. A Âm buông quần áo trong tay xuống, hai tay nắm yết hầu như sắp không thở nổi. Tiếng hít thở trở nên nặng nề, chậm chạp, đau đớn chồng đau đớn.
Cơn đau kéo dài một khắc đồng hồ, nàng không thốt nên lời, ngã xuống giường, nước mắt chảy không ngừng. Chướng Nguyệt nhìn thấy vậy thì đau lòng, vươn tay xoa vầng trán đẫm mồ hôi lạnh của nàng.
“Đây là dây quỷ trói buộc ngươi.”
Tất nhiên A Âm biết dây quỷ, đây không giống như Quỷ sai được Âm Ti thu nhận, có thù lao và được bảo vệ, đây là đơn phương ký kết hiệp nghị với Diêm Vương, ngày nào cũng phải bắt quỷ, giống như nô lệ bị người khác ép buộc.
“Bao nhiêu… năm…?”
Gương mặt Chướng Nguyệt tràn ngập vẻ nghiêm túc, “Một ngàn năm.”
A Âm cười thê lương, “Các ngươi… sao không để ta… chết đi?”
“Khó vượt qua cái chết của hắn đến vậy?”
“Ngươi thì hiểu cái gì?” Nước mắt nàng tuôn trào như suối, chảy mãi không ngừng.
Chướng Nguyệt ngồi gần nàng hơn chút, tay giữ vai đỡ nàng dậy, định giảng cho nàng hiểu ý nghĩa trong đó.
“A Âm, ngươi như thế này, ta và Quỷ Sứ nhìn thấy đều rất đau lòng. Ngươi đã vượt qua được cực hình ở Địa Ngục, điều đó chứng minh mạng quỷ của ngươi chưa tận. Chỉ cần còn sống thì lo gì không tìm được hòa thượng? Cho dù ngươi muốn chờ hắn thì cũng không thể dùng tính mạng chờ đợi chứ? Người phàm có thể chuyển thế đầu thai…”
Đôi mắt vô thần của A Âm chớp chớp, nàng bỗng nghĩ ra gì đó, lau nước mắt ngẩng đầu nhìn hắn, “Ngươi nói đúng, khi còn sống chàng hay làm việc thiện, sau khi mất ắt sẽ được đầu thai vào chỗ tốt. Ta phải đi tìm Thôi Giác hỏi.”
“Ngươi nghĩ Thôi Giác sẽ nói cho ngươi biết sao? Những gì viết trên Sổ Sinh Tử đâu nói cho ngươi biết được, lần trước ngươi gây sự làm ông ta tức giận, bớt mơ mộng hão huyền đi.”
…
Những năm tháng sau đó nàng sống trong gian nan ngột ngạt, hoặc là nói từ sau khi Trúc Hàn qua đời, nàng chưa từng cảm thấy mình còn sống.
Không đến nửa tháng A Âm đã gần như khỏi hẳn, việc đầu tiên nàng làm là quỳ gối bên ngoài cửa điện của Thôi Giác gần hai ngày hai đêm, ngón tay đập đánh cửa bắt đầu rỉ máu, khóc lóc thê thảm cầu xin ông ta nói cho nàng biết nơi Trúc Hàn chuyển thế nhưng phán quan mặt sắt đóng cửa không ra ngoài, cũng không làm việc phải làm, nhất quyết không cho A Âm bất kỳ câu trả lời nào.
Sau đó mọi người đều biết quỷ Âm Ma La, A Âm cô nương trở thành Quỷ sai có khế ước duy nhất trong những năm gần đây, đồn rằng nếu nhìn thấy một cô gái xinh đẹp quyến rũ có ngấn đen trên cổ nhất định phải tránh xa.
Nghe đâu lúc trước nàng ấm đầu, giết rất nhiều người phàm, bây giờ bắt quỷ cũng liều mạng phá tường hủy đá, nên tránh gây chuyện với nàng là tốt nhất.
Vào một đêm hè nóng nực nhất, Chướng Nguyệt lạnh lùng bắt một tên hòa thượng đến quán rượu, quẳng vào phòng của A Âm.
A Âm vừa áp tải ác quỷ cuối cùng của ngày hôm nay xuống Âm Ti, người toàn mùi hôi thối lại mệt mỏi rã rời, uống vài chén với Quỷ Sứ ở dưới lầu rồi lên lầu.
Thấy gương mặt của tiểu hòa thượng đang run lẩy bẩy kia có bảy phần giống Trúc Hàn nhưng dáng vẻ trốn tránh ấy không phải người thương của nàng.
Đôi mắt của người ấy dù nhìn bất kể thứ gì cũng rất chăm chú, cho dù là thứ mình không thích thì vẻ mặt chàng vẫn luôn chân thành, không ai có thể sánh được.
Nàng quá tỉnh táo, đối mặt với một người giống chàng đến vậy, thế mà không rơi một giọt nước mắt, thậm chí mở miệng lạnh tanh.
“Pháp hiệu của ngươi là gì?”
“Tiểu tăng… Trinh Vĩnh.”
Nhìn xem, ngay cả tên cũng không giống.
A Âm im lặng hồi lâu, cuối cùng nhìn thoáng qua bóng dáng ấy, thở dài nói, “Ngươi đi đi.”
Nàng bắt đầu cởi bở quần áo khó ngửi trên người, hòa thượng kia vội vã mở cửa chạy trốn, trên đường va phải người làm đang bưng khay, tạo thành tiếng động ầm ĩ.
Đợi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ xong, A Âm bước đến cầu thang, nhìn Chướng Nguyệt mặc đồ trắng ở dưới hét to, “Bớt làm mấy chuyện đê tiện đó đi!” rồi bỏ lại hai kẻ mặc đồ trắng xấu hổ nhìn nhau, không dám nhiều lời.
Ngày hôm sau, trong chùa Tây Minh ở Trường An có tăng nhân phá giới, lén lút yêu đương với phụ nữ bị bắt. Sau khi tra khảo mới biết không ngờ đã được nửa năm, mà bản chú giải Kinh Kim Cương Đỉnh cuối cùng cũng xong, Thành Trí cũng qua đời ngay sau đó, chuyện vui bỗng hóa đau buồn.
Ban ngày A Âm rảnh rỗi, nghe thấy những lời đàm tiếu này ở quán rượu thì cười nhạt. Nàng bỗng nhớ đến dạo trước lúc nàng định giết Thành Trí, hòa thượng già đã quỳ xuống đất khóc nức nở, thê thảm lặp đi lặp lại một câu, “Hổ thẹn với sư đệ, hổ thẹn với Quan Trừng”. Nàng đồng ý để ông ta tiếp tục dịch kinh, quay người rời đi, bây giờ chỉ cảm thán Thành Trí là người giữ lời, tuyệt không sống thêm ngày nào.
Lại một cái Tết Trung Nguyên nữa trôi qua, Quỷ giới đều vui mừng, chỉ riêng A Âm không được thảnh thơi, nàng cũng không có lòng hưởng thụ. Trên đường tìm kiếm một tiểu quỷ bỏ trốn, nàng gặp Trần Hoài Bồ đã lâu không gặp.
Hai người sóng vai bước đi, than thở thời gian trôi qua nhanh quá, đúng là khiến người ta phải bóp cổ tay. Hắn là người biết nhìn mặt nói chuyện, lần này gặp A Âm chỉ cảm thấy vẻ quyến rũ trên gương mặt nàng giảm bớt rất nhiều, thay vào đó là sầu bi mênh mang.
Tết Trung Nguyên không nhộn nhịp như Tết Thượng Nguyên nhưng hơn ở thời tiết ấm áp, người bán hàng rong trên đường hô hào mời khách nhưng tất cả đều không lọt vào tai A Âm, trái tim nàng đã đóng kín cửa.
Trần Hoài Bồ bỗng mở miệng, dặn nàng đứng im tại chỗ còn mình thì chen vào đám đông không biết là muốn mua gì. A Âm nhìn bóng lưng mặc áo cổ tròn, chỉ cảm thấy mình vừa trải qua cảnh này vào dịp Nguyên Tiêu, nhưng nay người đã khác, cõi lòng cũng hoàn toàn khác biệt.
Có lẽ là gió thổi qua khiến mắt hơi cay, đôi mắt nàng lóng lánh hơi nước. Nàng thầm nghĩ nhất định là do gió, đã lâu rồi nàng không khóc mà khóc cũng chẳng có gì hay.
Trần Hoài Bồ chen qua đám người, cầm một ống giấy dầu giơ đến trước mặt nàng, nhưng đó không phải đậu nành rang Trúc Hàn từng mua.
A Âm cầm một hạt bỏ vào miệng, nàng không cảm nhận được bất cứ hương vị gì, chết lặng nuốt thẳng xuống. Trần Hoài Bồ nhìn vẻ mặt dại ra của nàng, hắn muốn mở miệng lại không biết phải nói gì.
A Âm cảm thấy cổ họng khó chịu, dằn dòng cảm xúc dâng trào xuống, hỏi, “Xin Trần thống lĩnh cho hay, vì sao lại mua đậu nành này cho ta?”
Nàng thực sự rất tò mò, xưa giờ nàng đều nghĩ là Trúc Hàn thích ăn nhưng bây giờ hiển nhiên không phải.
Trần Hoài Bồ hơi hốt hoảng, chậm rãi mở miệng, “Trước đó ở trong phủ đều nấu cơm chay, không ngờ A Âm cô nương lại rất thích ăn đậu nành. Đương nhiên chuyện này không phải do ta phát hiện, là Trúc Hàn sư phụ tỉ mỉ, nói với ta cô nương đã gắp món này nhiều lần, chắc hẳn là rất thích… Ta…”
Hình như nhận ra mình vừa nhắc tên Trúc Hàn, hắn hơi hối hận, định giải thích thì thấy A Âm dứt khoát xoay người, hắn không giữ lại được.
Quan Trừng ngốc, chàng là người ngốc nhất trên đời, không có ai ngốc hơn nàng. Nàng bị bà La Sát lấy mất ngọn lửa màu lam, vị giác bị ảnh hưởng đến nay chưa khỏi, làm sao nếm được đồ ăn ngon thế nào?
Lòng nàng trống trải, cố kìm chế không khóc, nàng còn có việc phải làm. Nàng đi dạo như cô hồn dã quỷ, cảm thấy mình không còn tỉnh táo nữa, chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi đường lớn ồn ào náo nhiệt khiến ngươi ta hít thở khó khăn này.
Trường An được tám con sông vây quanh, nàng đi qua một cây cầu, bên cầu có rất nhiều người đang thả đèn, có người còn lớn giọng cầu nguyện.
Sau lưng có vị nương tử dịu dàng lẩm bẩm nói với sông đèn, “Cầu xin Hà Thần phù hộ cho chuyến đi này của Tề lang thuận lợi, nhanh chóng đón cả nhà đến Lạc Châu.”
Nghe những lời này nàng cười thầm trong bụng, rất nhiều người muốn chen chân vào Trường An phồn hoa, nàng này lại không hề lưu luyến. Suy nghĩ một lúc nàng bỗng thất thần, nàng cười người khác nhưng với nàng, Trường An có gì để lưu luyến?
Nàng hoảng hốt đi về phía trước, có một người nhẹ nhàng đuổi theo nàng, miệng gọi, “Tỷ tỷ… tỷ tỷ áo xám…”
A Âm quay đầu, thấy trước mặt là một thiếu nữ chải hai búi tóc đậu khấu, mặc trang phục màu vàng, trông rất lanh lợi.
Thiếu nữ thở phì phò, hai tay cầm quyển sách quỷ bị rơi đến trước mặt nàng. Bởi vì nhặt vội mà quyển sổ mở bung ra, trông hơi lộn xộn. Nàng cúi đầu nhìn xem, trông thấy tờ giấy trước mặt thì ngây ngốc, nước mắt thoáng chốc đã tuôn rơi.
“Tỷ tỷ, cổ tỷ có sợi dây màu đen…” Thấy A Âm khóc thút thít, thiếu nữ hơi bối rối, “Sao tỷ lại khóc? Đêm Trung Nguyên là ngày tốt để tưởng nhớ cố nhân…”
Cách đó không xa, nương tử vừa cầu nguyện lo lắng gọi, “A Mộng! Trời đã tối rồi, nên về thôi!”
Thiếu nữ áo vàng bối rối, nhưng không chịu nổi tiếng thúc giục phía sau chỉ đành bỏ lại câu “Tỷ tỷ giữ gìn sức khỏe” rồi chạy đi mất tích.
A Âm ngã xuống đất, sự ẩn nhẫn kìm chế mấy tháng qua tuyên bố sụp đổ, nước mắt thấm ướt vạt áo.
Người lo lắng sầu khổ, sợ nhất là ngày này hàng năm. Cảm xúc của những lữ khách qua đường bình thường cũng sẽ bị sụp đổ vào những lúc như thế này.
Cảnh tượng hai người vui vẻ hạnh phúc hãy còn rõ mồn một trước mắt, ai có thể kìm chế được nỗi đau như xé ruột.
Đã lâu rồi nàng chưa xem sách quỷ, trong đó có một trang giấy trắng, trên đó là hai chữ “Quan Trừng” nàng đã viết từ rất lâu, bởi vì nét chữ quá nhiều mà chữ viết rất xấu. Ở phía dưới, không biết chàng đã thêm vào ba chữ từ bao giờ, những nét chữ như rồng bay phượng múa, chứa đựng khí thế tựa sóng trào.
Cũng có tình ý sâu đậm.
Chăm chỉ tập viết
Đừng quên ăn cơm.
Quan Trừng.