Lúc ngày mới chiếu rọi bãi cỏ xanh, Trúc Hàn vẫn ở đại điện. Mãi đến khi tiểu tăng trực phiên buổi sáng sớm gõ tiếng chuông đầu tiên của ngày, bên ngoài chính điện lục tục vang lên những tiếng động nhỏ bé, đấy là khoảng thời gian ồn ào không thể tránh khỏi lúc sáng sớm. Mãi đến khi trụ trì tiến vào điện, định thắp nén hương đầu tiên của ngày hôm nay, nhìn thấy Trúc Hàn ngồi im lìm trong góc, ông hơi ngạc nhiên, “Con thức trắng đêm ở đây?”
Người chàng cứng ngắc, khó khăn đứng dậy, xương cốt phát ra âm thanh kẽo kẹt như cành khô bị giẫm lên.
“Vâng, sư phụ.”
Giọng nói của pháp sư Thành Thiện trầm vang, ông nghiêm túc chất vấn, “Vì sao?”
Sự trầm mặc vô biên tràn ngập đại điện, dường như chàng đang nghĩ biện pháp trốn tránh lại như đang suy nghĩ đáp án, chỉ có bóng lưng đơn bạc quật cường ưỡn thẳng, khiến người ta có suy đoán chủ nhân của bóng lưng này cũng bướng bỉnh giống vậy, nhưng chẳng qua trong lòng chàng có nút thắt mà thôi. Thành Thiện không thúc giục, lặng lẽ chờ đợi Trúc Hàn mở miệng, chờ một câu trả lời trong dự đoán hoặc ngoài dự đoán.
Không biết qua bao lâu, khi hai bên đều sắp mất kiên nhẫn, chàng mới chậm rãi đứng dậy, vuốt nếp nhăn ở đầu gối, chỉ tiếc nếp gấp ấy đã hằn sâu, làm sao mà vuốt phẳng được.
Trúc Hàn vỗ tay, gật đầu với pháp sư Thành Thiện: “Trong lòng Quan Trừng có nghi vấn không giải được, mong sư phụ thư thả cho đồ đệ chút thời gian, đồ đệ cố gắng hết sức tìm ra lời giải. Nhưng nếu cuối cùng vẫn không giải được như cũ…”
“Thế nào?”
Chàng thở dài, “Con muốn nói với sư phụ, bất kỳ quả đắng nào Quan Trừng cũng gánh.”
Thành Thiện hơi nhíu mày, phất tay bảo chàng lui ra, còn mình bước đến trước bồ đoàn dâng hương.
Hôm nay nắng rực, khắp nơi trong chùa đều có tiểu sa di quét tuyết. Lúc A Âm che ô bước vào cửa chùa, Trúc Hàn đứng ở hành lang, nơi mà nàng lôi kéo chàng vào đêm Trung Nguyên. Nhìn thấy bóng dáng màu xanh lam bước vào, chàng bỗng nhiên nở nụ cười.
A Âm đứng ở đối diện dõi mắt nhìn quanh tìm kiếm ánh mắt chàng, bốn mắt nhìn nhau, gợn tình nảy nở. Nàng không để ý đến nụ cười chợt tắt của tiểu hòa thượng, khẽ mỉm cười tiến vào chính điện, nói với pháp sư Thành Thiện hôm nay đến để nghe tiểu sư phụ Trúc Hàn giảng kinh như thường lệ. Thành Thiện vẫn ôn hòa như cũ nhưng trong lòng đã có tính toán, ông chỉ nói, “Hôm nay trong người nó khó chịu, để Trúc Hoằng giảng kinh cho A Âm thí chủ.”
Tất cả suy nghĩ trong đầu nàng đều dừng lại ở câu nói đầu tiên, chỉ cảm thấy trong khoảnh khắc liếc mắt vội vàng khi nãy, hình như cánh môi chàng hơi trắng, sắc mặt có phần mệt mỏi. Mới suy nghĩ một chút mà đã tưởng tượng ra đủ loại bệnh tình nguy kịch, nàng đáp lời trụ trì qua loa, hồn như ở trên mây bước vào phòng thiền cùng Trúc Hoằng.
Không lâu sau, nàng tìm cớ đi ra ngoài, hóa thành làn khói tìm kiếm khắp nơi.
Không ngờ chàng vẫn đứng ở hành lang, say sưa nhìn ngắm phía xa, mà phía xa chỉ có tiểu sa di đang quét tuyết, nhân lúc không có ai trông coi lén chơi chọi cầu tuyết.
A Âm không biến thành hình người, đứng cạnh chân chàng. Bởi vì không đoán được tâm trạng của chàng lúc này nên không dám tùy tiện kề sát người chàng, nàng lo lắng nói: “Người chàng không khỏe thì đừng đứng đây hóng gió, trời đông giá rét, khó tránh khỏi bệnh càng thêm lâu.”
Tiểu hòa thượng không nhúc nhích, A Âm không hề biết, đôi mắt chàng hơi lấp lánh, cúi đầu nhìn xuống dưới.
Thấy chàng không để ý đến mình, nàng nói tiếp, “Lúc ở phủ họ Trần ta hao tổn quá nhiều linh lực, chỉ có thể nhân lúc ban đêm rời đi trước, không nói với chàng là lỗi của ta. Ban đỏ trên người ta mãi không hết nên phải đến La Sát xa xôi xin chữa trị, chàng cũng không thích ta xấu xí như vậy, đúng không?”
Chàng bỗng nhớ đến gì đó, quay người nhưng không nhìn nàng mà đi thẳng đến phòng nghỉ ở hậu viên. A Âm ung dung theo sát, cùng chàng đi vào trong.
“Ta biết trong lòng chàng đang nghĩ gì, quả thật chàng không phải người chỉ nhìn dung mạo, nhưng bản thân ta không cho phép mình như vậy. Hơn nữa lâu như vậy, ngày nào ta cũng nhớ đến chàng…”
“Biến lại đi.” Chàng nhìn nàng trong hình dáng làn khói chằm chằm, trầm giọng mở miệng.
“Hử?” A Âm sững sờ.
“Ta bảo nàng biến lại thành người đi.”
Mặc dù trong lòng có nghi ngờ nàng vẫn nghe lời chàng biến lại thành người, ngồi ở bên giường. Hôm nay nàng mặc trang phục màu xám tro, bên ngoài khoác áo choàng màu xanh lam, dưới lớp áo choàng còn ôm một cái lò sưởi tay lịch sự tao nhã.
Không ngờ lần này nàng đã biết lạnh.
Trúc Hàn hỏi, “Có mặc quần trong chứ?”
A Âm sững sờ gật đầu, đứng dậy bước lên đặt lò sưởi ấm vào bàn tay cầm tràng hạt của chàng, sợ chàng không cầm được, nàng dùng bàn tay ấm nóng của mình đỡ lấy. Vốn tưởng rằng tiểu hòa thượng sẽ từ chối, trốn tránh và phản kháng nhưng không ngờ chàng không làm gì cả, chỉ bình tĩnh nhìn nàng, cảm thụ cảm giác mu bàn tay dán vào lòng bàn tay của nàng. A Âm đối mặt với chàng, lại nở nụ cười trêu chọc lòng người.
Chỉ thấy tiểu hòa thượng trước mặt chậm rãi nhắm mắt lại, thở dài rồi lại mở mắt ra.
Tiếp tục là sự im lặng kéo dài vô biên. Chàng thích trầm mặc, vậy nên khi trò chuyện với chàng nhất định phải chịu được điều này, có đôi khi một câu chàng cũng chẳng nói.
Chàng mở miệng, hỏi với vẻ nặng nề, “Ngày mai nàng có đến nữa không?”
Hôm nay ta sẽ đưa ra một quyết định khiến người khác giật mình, có lẽ sẽ khiến tháp cổ chấn động và có lẽ sẽ nhận được sự chỉ trích của rất nhiều người nhưng ta không suy nghĩ và do dự nữa. Thứ ta cầu mong có lẽ là một giải pháp vẹn cả đôi đường, nhưng phá giới chính là phá giới. Không phải Phật Tổ vứt bỏ ta, ta mới cần A Âm mà là ta cảm động trước tấm lòng trước sau như một của A Âm… ta cũng nhớ A Âm.
Ngày mai nàng đến, ta sẽ đi với nàng.
“Tất nhiên sẽ đến. Chàng ở đây, ta sẽ ngày ngày đến gặp chàng.”
“Được rồi, nàng đi đi.”
Đôi tay được sưởi ấm của chàng thiếu niên lặng lẽ rút ra, lòng bàn tay đặt lên mu bàn tay nàng, ra hiệu nàng giữ lấy rồi từ từ rút đi. Chàng quay người, rất kiên quyết. A Âm không hiểu, chỉ thấy hôm nay chàng rất kỳ lạ, không chống đối những cái vuốt ve của nàng, còn bảo nàng đi.
Nàng thử thăm dò, vươn tay xoa đầu vai chàng, nhẹ nhàng dựa vào, “Ta không ép chàng, chỉ lặng lẽ đợi chàng. Chàng đừng gấp gáp cũng đừng nóng giận, phải yêu quý thân thể mình. Nếu có một ngày chàng phiền lòng, buồn bực về ta thì không cần chàng nhiều lới, ta sẽ tự rời đi.”
Nhìn quỷ Âm Ma La này mà xem, đúng là xấu xa gian xảo. Nàng trêu chọc tiểu hòa thượng ngây thơ tốt bụng, khiến người ta rung động lại vứt bỏ không quan tâm đến nữa, làm người ta nhớ nhung. Quay về biết rõ người ta có tình, lại bảo “tự ta sẽ rời đi”, lời nói vô tình khiến người ta tức chết.
Nàng phất tay, chậm rãi ra khỏi phòng, cuốn theo một cơn gió lạnh khiến người ta tỉnh táo đôi chút. Nhưng Trúc Hàn không cần, chàng vốn tỉnh táo đến cực điểm.
Đáng tiếc A Âm không nhìn vào mắt tiểu hòa thượng, cũng chưa từng để ý đến những vật dụng bày biện trên kệ. Nàng không hề biết, cái chén với những hoa văn quỷ quái đêm Trung Nguyên đã được chàng xếp gọn vào một chỗ, ngày ngày lau chùi, chưa từng để nó dính một hạt bụi. Mà khi nãy, lúc chàng nhìn về phía cái chén, mắt chàng sáng như đuốc, bên trong ánh mắt đong đầy cảm xúc mãnh liệt phức tạp.
A Âm thí chủ rời khỏi chùa Bàn Nhược xuống núi, Thành Thiện đứng ở cửa chính điện trống rỗng nhìn lên trời cao, chỉ cảm thấy trời vừa quang lại chuẩn bị kéo mây đen.
Lúc mặt trời lặn, ánh chiều tà hắt xuống bãi đất trống trước cửa điện và lư hương ở trên, nhưng bên trong không có lấy một tia nắng, bầu không khí âm u lạnh lẽo. Tiểu sa di thắp nến xong thì lần lượt lui ra ngoài.
Trụ trì ở đây, vẫn luôn ở đây, chờ đồ đệ cưng động lòng phàm của mình đến đây nói ra một nghi vấn trong lòng mà ông không muốn nghe. Có lẽ nó đã hiểu rõ và đưa ra quyết định, hoặc có lẽ nó không nghĩ ra nhưng không thể tháo gỡ, tất cả đều không phải đáp án mà Thành Thiện muốn nghe.
Trong nháy mắt mặt trời dần tan biến phía cuối chân trời, mắt người không lưu giữ được vòng tròn màu vàng kim nữa, lão tăng mặt mũi nhăn nheo hơi còng lưng càng lộ ra vẻ già yếu. Thiền trượng trong tay không chỉ là thiền trượng mà còn giống như một cây gậy chống. Ông không còn là Trụ trì chùa Bàn Nhược, mà chỉ là một ông lão bình thường.
Ông đang chờ người kế thừa mà ông khâm định đến nói lời tạm biệt, quyết định rời chùa bỏ Phật sau lưng. Cái gì ông cũng biết, chỉ không nói toạc ra mà thôi, ông là tấm gương điển hình của một tăng nhân khắc khổ tu hành hơn nửa cuộc đời.
Lại một tiếng chuông nữa vang lên, bước chân vững vàng dần đến gần, Trúc Hàn đến.
“Sư phụ.”
Thành Thiện đưa cho chàng nén hương đã châm sẵn, “Dâng hương cho Phật Tổ.”
“Vâng, sư phụ.” Chàng nhận lấy, thành kính lễ bái rồi cắm hương vào chính giữa bát hương.
Sư đồ hai người cùng nhìn về hướng Phật Tổ, pháp sư Thành Thiện mở miệng hỏi, “Điều con thắc mắc đã tháo gỡ được chưa? Mặc dù con đến tìm ta nhưng ta thấy giống như hiểu mà không phải hiểu, chính bản thân con cũng không biết.”
Trúc Hàn nói, “Sự phụ hiểu con, quả thực là giống như hiểu mà không phải hiểu.”
“Hiểu như thế nào? Con nói ta nghe xem.”
Quả thật là trong lòng chàng đã có quyết định nhưng để nói ra miệng vẫn cần dũng khí rất lớn. Chàng quay người, quỳ xuống, lần này chàng bái không phải là Phật mà là trụ trì, là người thầy nuôi nấng dạy dỗ chàng.
Mặt đất rất lạnh, lại khiến chàng càng thêm tỉnh táo, chàng biết những gì mình sắp nói là nói bậy, cũng hiểu rõ hậu quả mình sẽ nhận lấy khi nói bậy.
Chàng nói, “Quan Trừng quyết định… về tục.”
Gió nổi lên cuốn theo đống tuyết vừa quét bên cạnh, cũng mang theo hơi lạnh quét sạch đại điện. Đã đến nước này, một khi rời khỏi sơn môn thì muôn đời không thể quay về. Chàng xuống núi ba lần, nhiều lần có liên quan đến A Âm, dường như chạy không thoát khỏi cái bẫy đã thu lưới.
Lòng Trúc Hàn đã bị nàng kéo vào hồng trần cuồn cuộn, người đầy tục khí, động lòng, cuối cùng đưa ra quyết định sau một đêm thức trắng: từ bỏ rối rắm và chống cự, bình yên làm một người thường.
“Quan Trừng, tuổi con còn nhỏ, cho nên không hiểu được đấy chỉ là một đoạn tình duyên oan trái. Bể khổ vô biên, đã là duyên oan trái thì không dễ cắt đứt, trải qua mấy lần con sẽ biết sâu cạn bên trong. Tu tập Phật pháp, thành người đại trí tuệ mới là công quả của tạo hóa. Ta đối xử với con giống như một người thầy và một người cha, sao con nỡ nhẫn tâm làm ta đau lòng?”
Giọng nói của chàng có phần rầu rĩ lại mang theo chút nghẹn ngào, “Sư phụ, đồ nhi nghiệp chướng nặng nề, không có cách nào trừ tận gốc. Con đã phạm vào đố kị, tham tình, đáng bị đầy vào Súc Sinh Đạo, không còn mặt mũi tiếp tục tu hành. Phật Tổ đã vứt bỏ con, ngài không hề tha thứ, trách móc con nặng nề. Con tự biết con không độ được chúng sinh, càng không đảm đương được trọng trách truyền thừa Mật tông của chùa Bàn Nhược…”
Gương mặt Thành Thiện tỏ rõ vẻ nghiêm túc, ông lạnh lùng đáp, “Phật Đà niết bàn thường có mây, Phật pháp cuối cùng cũng sẽ được chấn hưng. Con có duyên với Phật, có tuệ căn, lúc ta nhặt được con, bên tã lót đặt một gốc sen ngàn cánh. Sư phụ không đành lòng nhìn con sa đọa như thế, hôm nay canh giờ đã muộn, con quay về nghỉ ngơi và suy nghĩ lại đi.”
Mắt thấy ông cầm trượng định đi, Trúc Hàn quỳ lết về trước mấy bước, nắm vạt áo của Thành Thiện. Thành Thiện quay đầu, nhìn thấy mắt đồ đệ nhỏ mà ông ký thác rất nhiều kỳ vọng đỏ ửng, trông cực kỳ giống thỏ rừng.
Chàng khẩn cần: “Sư phụ, người từng nói, tu Phật cần phải trải qua ba giai đoạn. Ở giai đoạn đầu tiên, thấy núi là núi, thấy nước là nước. Con vẫn luôn dốc lòng nghiên cứu đến khi thành công, đáng tiếc bây giờ con không qua được giai đoạn thứ hai. Bởi vì con chỉ cảm thấy, bất kể là mở mắt hay nhắm mắt, thấy núi là nàng, thấy nước cũng là nàng… Sư phụ, người chỉ cho con biết, con nên tu tiếp thế nào? Không phải Phật không quan tâm con mà là con bỏ Phật ra sau, lòng dạ con đã bị tình yêu nhỏ bé chiếm cứ, con muốn sa vào hồng trần, chịu khổ chịu nạn.”
“Con không sợ vì nàng mà ném bỏ hết thảy, có lẽ nhiều năm sau con giác ngộ nơi thế tục, lại muốn thụ giới xuất gia, tu lại từ đầu…Nhưng con không oán, không hối…”
Thành Thiện khó thở, mở miệng cắt ngang, “Nghiệt đồ! Nghiệt đồ!”
Chàng không muốn làm đệ tử cuối cùng của pháp sư Thành Thiện chùa Bàn Nhược, không muốn làm người truyền thừa và chấn hưng Phật pháp Mật Tông, lại khăng khăng làm người bình thường hơn cả những người bình thường trong thế tục mênh mông, ai nghe thấy mà không tức giận?
Chàng bị nhốt lại.
Dường như Thành Thiện muốn cứu rỗi đệ tử lạc đường, muốn nhốt chàng trong chùa không cho ra ngoài, tốt nhất là chàng có thể sám hối giác ngộ, kịp thời biết quay đầu.
Cửa phòng bị khóa lại, có sư huynh trông coi, cũng có người đứng ngoài cửa sổ khuyên nhủ nhưng Trúc Hàn không để ý đến. Dường như tất cả mọi người đều cho rằng đây là tâm tính của thiếu niên, vì tình yêu bình thường mà phá giới, một lòng muốn hoàn tục để hưởng thú vui của nhân gian.
Không ai biết được chàng đã quỳ trước Phật bao lâu, bao nhiêu đêm không thể say giấc mới đưa ra quyết định này. Lại càng không có ai biết, người chàng yêu không phải người phàm, chàng bị Phật Tổ quở trách, đất trời xua đuổi, bị Địa Ngục trừng phạt đáng sợ.
Trong đầu chàng tràn ngập suy nghĩ: chết không được tử tế.