NGÀY THỨ HAI MƯƠI TÁM
Lần thứ hai tôi bước lên chặng đường tiến về Hoang thôn.
Sáng sớm, tôi mang một chiếc va li đựng những đồ quan trọng bước lên chuyến xe khách đường dài hướng về thành phố K. Nhìn những thửa ruộng Giang Nam ngày hạ ngoài cửa sổ ô tô, hình như mọi thứ lại trở về điểm xuất phát ban đầu, chỉ là đổi sang mùa khác mà thôi. Nhớ lần đầu tiên tới Hoang thôn, trong lòng thấp thỏm bất an, sự hưng phấn và hiếu kì chiếm phần lớn. Nhưng lúc này, sau khi đã trải qua bao nhiêu việc, tâm trạng của tôi cũng trở nên trấn tĩnh dị thường, bởi vì chuyến đi lần này là để làm cái việc mà tôi bắt buộc phải làm.
Sau vài tiếng đồng hồ phóng như bay, buổi chiều tôi tới bến xe khách thành phố K. Sau đó, tôi không nghỉ chân mà ngồi ngay lên chiếc xe buýt nhỏ tới thị trấn Tây Lãnh, hai tiếng sau thì tới nơi. Đã hoàng hôn rồi, tôi ăn qua quýt bữa tối tại thị trấn Tây Lãnh, sau đó đi bộ ngay trong đêm để tới thị trấn Hoang thôn.
Đường lần trước đi vẫn nhớ rất rõ, hơn nữa tôi cũng đã xác định sẵn tư tưởng, bởi vậy khi đi cũng không quá mệt mỏi. Trên những dãy núi hoang vắng trong đêm mùa hạ này, bốn bề đều lộng gió biển mặn chát. Tôi đi liên tục mấy tiếng đồng hồ, rốt cuộc cũng vượt qua ngọn núi cuối cùng. Vùng biển đen trong đêm tối hiện ra trước mắt tôi, dưới dốc núi tọa lạc một ngôi làng tăm tối, tấm bia tiết hạnh trước cổng thôn vẫn nổi bật dưới ánh trăng như thuở nào.
Hoang thôn, tôi lại đến đây.
Bỗng nhớ lại hơn hai mươi ngày trước, khi bốn sinh viên tới đây, tâm trạng của họ thế nào? Ít nhất cũng không thể ngờ tới vận hạn đen đủi đang đợi họ.
Để lòng mình bình tĩnh lại cái đã, sau đó tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc, thì thầm: “Mày về nhà rồi.”
Đi qua chiếc bia tiết hạnh, tôi dò dẫm trong bóng tối tiến vào Hoang thôn.
Tuy đã là mùa hạ, nhưng không khí trong những con đường nhỏ ở Hoang thôn vẫn sát khí nhường vậy, xung quanh không có lấy một hơi người, tôi dựa theo trí nhớ để mò tới trước cổng Tiến Sĩ Đệ. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, ngôi nhà từng oai nghiêm một thời đang lặng lẽ đứng sừng sững, toát ra hơi thở như sắp chết tới nơi. Đúng vậy, từ nay trở về sau, ngôi nhà cổ này sẽ chẳng bao giờ có người sống nào ở đây nữa, nó sẽ trở thành một ngôi nhà chết.
Nín thở, tôi nhẹ nhàng đẩy cổng, quả nhiên chỉ là đóng lấy lệ, chắc là bình thường các thôn dân cũng không dám vào đây. Tôi lập cà lập cập bước vào sân đầu tiên trong Tiến Sĩ Đệ, sau đó bật đèn pin.
Ánh sáng đèn pin đưa tôi tiến vào phòng khách, soi sáng ba chữ “Nhân Ái Đường” trước tấm biển, bên dưới vẫn là bức chân dung cổ nhân bằng giấy ống quyển. Ở đây vẫn giống như lần trước tôi nhìn thấy, cảm giác khiến người ta nghẹt thở.
Tôi tiến vào sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ, ánh trăng vương vãi trên mảnh sân nhỏ cô đơn, giống như đang trở về một niên đại nào đó. Tôi nhẹ nhàng bước lên ngôi nhà gỗ cạnh đó, mở cửa một căn phòng. Chụm ánh đèn quét qua quét lại giữa những lớp bụi dày đặc, bỗng nhiên quét thấy một chiếc máy vi tính, bên cạnh còn có một chiếc ti vi, nhưng chúng đều tích đầy bụi, xem ra lâu lắm rồi không dùng đến. Cách bài trí của căn phòng này gần giống như ở thành phố, xem ra hình như là quế phòng mà Tiểu Chi từng ở.
Tim tôi bỗng nhiên trào dâng một cảm giác đau buồn man mác, tôi khẽ gọi hai tiếng: “Tiểu Chi.”
Lặng lẽ đợi vài phút, xung quanh vẫn chẳng có động tĩnh gì, dù biết rằng làm thế chỉ tổ uổng công nhưng trong lòng tôi vẫn hi vọng kì tích sẽ xuất hiện.
Không, kì tích không thể có được nữa.
Tôi lặng lẽ đi xuống căn gác nhỏ, rồi tới ngôi nhà phía sau đó. Mùa đông mấy tháng trước, tôi đã từng ở trong căn phòng trên ngôi nhà này. Đẩy tấm cửa quen thuộc ra, bên trong thấy rõ có chút xáo trộn, tôi biết bốn sinh viên đó cũng đã từng ở đây. Dưới ánh đèn pin mù mờ, bốn tấm bình phong sơn mài hiện rõ mồn một, nhìn những bức tranh sống động như thật này, tôi không tránh được tiếng thở dài.
Rời khỏi dãy nhà này, tôi lại tới sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ. Trong vườn hoa cổ hoang dại này, cây hoa mai nổi bật nhất dưới ánh trăng, những nhành cây vươn ra trong đêm tối. Tôi chầm chậm tiến lại miệng giếng, nhìn một lần xuống giếng nhưng chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối, chỉ cảm giác một luồng khí lạnh toát đang xộc lên mặt… dưới đáy chính là nơi chôn thân của “vợ thế.”
Cô lẽ, đây là một ngôi nhà tội ác.
Trở lại sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ, tôi giơ cao tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc phát ra ánh sáng kì dị dưới ánh trăng, tôi nghĩ đã đến lúc rồi.
Tôi chỉnh đốn một chút túi hành lí, lấy từ trong đó ra một số công cụ cần thiết, ngoài ra còn có chiếc va li kia. Sau đó, tôi mang tất cả những thứ này, mở cửa căn phòng dưới tầng trệt, ánh đèn pin soi sáng một chiếc giường to, đây chắc là phòng của Âu Dương tiên sinh rồi. Tôi vòng tới cuối căn phòng, quả nhiên phát hiện trên tường có một chiếc cửa bí ẩn, xem ra hội Hoắc Cường khi bỏ đi đã chưa kịp lấy gạch bịt lại.
Tôi cẩn thận rón rén bước vào mật thất, rồi lại lấy đèn pin soi xuống phía dưới, những bậc cầu thang lập tức hiện ra. Chính là đây rồi, tôi hít một hơi thật sâu, từng bước từng bước đi xuống địa đạo.
Có lẽ, do chiếc cửa bí ẩn đã từng được mở ra, đường đi dưới lòng đất cũng ẩm ướt thấy rõ, từ góc độ bảo tồn văn vật cho thấy, đây vốn không phải là một việc tốt. Đi xuống khoảng chục mét, quả nhiên xuất hiện một chiếc cổng đá lớn, nhưng khóa cửa đã bị kẹp đứt rồi. Tôi tìm thấy chiếc khóa trên mặt đất, đó là loại khóa mà tôi thường thấy khi còn nhỏ, tôi nghĩ Âu Dương tiên sinh đã từng ra vào chiếc cổng này, vì thế mới sử dụng chiếc khóa này.
Bước vào cánh cổng đá, bên trong là một địa đạo dài, do đã chuẩn bị sẵn tâm lí nên tôi đi rất nhanh, mấy phút sau đã tới phòng khách dưới lòng đất – địa cung Hoang thôn thần bí.
Đột nhiên, tôi cảm thấy tay trái của mình nóng rực lên, chắc đó là tác dụng của chiếc nhẫn ngọc. Nhưng tôi gồng sức chịu đựng, dùng đèn pin soi một vòng quanh địa cung trước đã, hình như nhìn một lần cũng không thể thấy tận đáy.
Trên mặt đất phía sát tường, tôi phát hiện mười mấy vật bằng ngọc. Đúng, chắc chúng đều là đồ ngọc thời Lương Chử, tôi lập tức mở chiếc va li ra, cẩn thận lấy từ trong đó ra năm vật bằng ngọc.
Lúc này, những thứ ngọc hổ phách, ngọc bích và búa ngọc cuối cùng đã cùng nhau đoàn viên, giống như đã trở về cổ quốc Lương Chử năm nghìn năm trước. Chúng có lẽ sẽ vĩnh viễn ở lại trong đất.
Ánh sáng đèn pin lại rọi lên chiếc cửa nhỏ trên tường, đây chắc là cửa của mật thất địa cung? Tôi sờ tay lên đó, quả nhiên là được làm bằng chất liệu ngọc. Tôi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa ngọc, khom lưng tiến vào gian mật thất này.
Mật thất rộng khoảng mười mét vuông, độ cao khiến tôi chỉ có thể cúi đầu, tôi dùng đèn pin quét một vòng, phát hiện trên mặt đất có một chiếc hộp. Tôi lập tức ngồi xổm xuống, dùng đèn pin soi cẩn thận, chiếc hộp này cũng được tạc bằng ngọc, chắc đây chính là chiếc rương ngọc.
Trên nắp rương ngọc vốn dĩ có miếng đất niêm phong, nhưng đáng tiếc là đã bị Hoắc Cường đập vỡ. Tôi nghĩ mỗi khi gia tộc Âu Dương mở chiếc rương ngọc này ra, rồi để đồ vào trong đó chắc đều sẽ lưu lại miếng đất niêm phong mới, đánh dấu do người nào đó niêm phong trong tháng trong năm nào đó.
Và chiếc nhẫn ngọc trên tay tôi, vốn dĩ phải cất giữ trong chiếc rương ngọc này.
Trầm ngâm hồi lâu, tôi cẩn thận tỉ mỉ mở chiếc rương ngọc ra, bên trong nghiễm nhiên là trống huơ trống hoắc.
Đối diện với chiếc rương trống trơn, tôi cảm thấy có chút hoảng sợ, đầu óc trống rỗng, không biết bản thân mình còn có thể làm được gì hay là thừa nhận thực tế không thể làm được gì?
Đột nhiên, tôi cảm thấy ngón tay trỏ của mình càng lúc càng nóng rẫy, dưới ánh sáng đèn pin soi rọi, chiếc nhẫn ngọc hơi có chút biến đổi, vệt đỏ đun rực rỡ hẳn lên, đây chính là máu của người con gái khát vọng tình yêu hơn bốn nghìn năm trước.
Tôi dường như không kiểm soát được mình nữa, bàn tay trái vô thức thò vào trong chiếc rương ngọc. Sau mấy giây, tôi kinh ngạc phát hiện chiếc nhẫn ngọc bắt đầu tuột ra.
Trời ơi, nó có thể cử động rồi.
Chỉ trong chớp mắt, chiếc nhẫn ngọc tuột khỏi ngón tay tôi, nhẹ nhàng rơi vào trong rương ngọc.
Tay phải của tôi vẫn nắm lấy đèn pin, sững sờ chứng kiến cảnh tượng này. Chiếc nhẫn ngọc hơn bốn nghìn năm tuổi này đã đeo trên ngón tay tôi mười ngày hôm nay, tôi đã từng tìm đủ mọi cách để tháo nó ra, lúc này thì lại có thể tháo ra nhẹ nhàng đến vậy. Còn tên ngón trỏ tay trái tôi, mọi cảm giác kì lạ đều tiêu tan rồi, ngón tay trơn tru lại trở về trạng thái ban đầu.
Nhìn chiếc nhẫn ngọc nằm im trong rương, dưới ánh sáng mờ ảo soi rọi của đèn pin trên tay, tôi bỗng nhiên hiểu ra rồi… đây chính là nhà của nhẫn ngọc. Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc đã từng khiến tôi nảy sinh ảo giác, đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng tất cả những gì nó làm trên người tôi, đều chỉ vì giây phút trở về này.
Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc về nhà rồi.
Tôi bỗng thấy lòng mình nhẹ nhõm, dường như tất cả những khủng hoảng của mười ngày qua đều tiêu tan theo sự trôi tuột của chiếc nhẫn ngọc. Sau đó, tôi cẩn thận đóng nắp rương ngọc, đặt nó trở lại vào trong góc mật thất.
Tạm biệt nhé, nhẫn ngọc.
Tôi cúi đầu lùi khỏi gian mật thất, đóng chiếc cổng ngọc lại. Rốt cuộc, tôi thở một hơi dài, tôi biết rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh, tất cả những thứ bị lấy đi giờ đây đều đã quay về với nguyên chủ, trở lại mái nhà xưa.
Hãy coi như mọi thứ đều chưa từng xảy ra.
Trước khi ra khỏi địa cung, tôi lại lấy đèn pin soi rọi, chỉ còn một đám khói đen âm u lạnh lẽo hay lơ lửng. Tôi thử bước vài bước về phía thâm cung, phát hiện không gian dưới lòng đất này thực sự rất rộng, giống như một khu khai thác đá dưới lòng đất vậy.
Bỗng nhiên, ánh đèn pin trên tay hiện lên một vùng ánh sáng lạnh lẽo màu xanh, tôi vội vàng bước lên phía trước vài bước. Đó là một khối ngọc thạch khổng lồ, bề mặt lồi lõm mấp mô, có rất nhiều vết tích khai thác của những người thợ, ánh sáng xanh kì dị đó được phản xạ từ đây.
Tôi cẩn thận giơ đèn pin, nhằm chuẩn vào mảng màu xanh trên ngọc thạch, rồi lại lấy tay tỉ mẩn sờ lên đó, một cảm giác lạnh toát thẩm thấu vào cơ thể. Phút chốc, tôi kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời, tôi đã phát hiện ra thứ gì?
Ngọc.
Đúng vậy, tôi đã phát hiện ra mỏ ngọc dưới lòng đất, khối thạch bích khổng lồ chính là khoáng thể ngọc thạch, tôi tính toán sơ qua một chút, ít nhất cũng phải dài tới hơn năm mươi mét, trên khoáng thể vẫn còn lại rất nhiều những vết tích bị khai thác. Có lẽ cả cái địa cung rộng lớn này đều đã từng là một phần của mỏ ngọc, do sau bao năm tháng khai thác tích lũy lại mới hình thành nên không gian rộng lớn này.
Tuyệt đối không thể nhìn lầm được, bao ngày nay tôi sống ngày sống đêm cùng đồ ngọc nên đã trở thành bán chuyên gia ngọc thạch rồi, mỏ ngọc dưới lòng đất này thật sự khiến người ta trầm trồ kinh ngạc.
Bỗng nhiên, tôi nhớ tới vấn đề Tôn Tử Sở nói, cũng chính là những chất liệu bằng ngọc mà văn minh Lương Chử năm nghìn năm trước sử dụng rốt cuộc từ đâu tới? Đây chính là vấn đề làm đau đầu giới sử học một thời gian dài. Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm thấy đáp án rồi, chính là trước mắt tôi.
Ngay lập tức tôi đã hiểu ra. Vào năm nghìn năm trước, những nhà sáng lập ra cổ quốc Lương Chử đã đổ bộ lên Hoang thôn ngày nay định cư. Không lâu sau, họ đã phát hiện ra khoáng thể ngọc thạch khổng lồ ngay nơi dưới chân mình. Vậy là, họ đã khai thác một lượng ngọc thạch ở đây, sau đó lợi dụng sức mạnh thần bí của đồ ngọc, tiến vào lưu vực Thái hồ xây dựng nên Cổ Ngọc Quốc, cũng chính là văn minh Lương Chử mà ngày nay thường nhắc tới. Hôm nay, tất cả những đồ ngọc Lương Chử thần bí mà tôi nhìn thấy, vật liệu của chúng đều từ đây khai thác mà ra, tổ tiên của nhà Âu Dương đã lợi dụng nguồn tài nguyên ngọc thạch quý báu này sáng tạo ra thời đại văn minh đồ ngọc phát triển cao độ.
Bốn nghìn năm trước, văn minh Lương Chử do nhiều nguyên nhân mà bị hủy diệt, may mà Cổ Ngọc Quốc của họ vẫn sinh tồn, bởi vậy mới tháo chạy tới vùng đất Hoang thôn này vì là do ở đây có chôn giấu kho báu quan trọng nhất của họ - mỏ ngọc.
Đúng, đây cũng là nguyên nhân mà gia tộc Âu Dương định cư mãi ở Hoang thôn hàng ngàn năm này, bí mật mà họ muốn cất giữ trên thực tế chính là mỏ ngọc dưới lòng đất này. Chúng được coi là kho báu giàu có mà gia tộc để lại, là vùng đất thánh mà bất cứ ai cũng không được xâm phạm.
Đây chính là bí mật cuối cùng của Hoang thôn.
Thực sự không thể ngờ tới tôi đã dùng cách đặc biệt này để hóa giải một bí ẩn lịch sử trọng đại. Đã từng có không biết bao nhà sử học, nghiên cứu cả đời đều không thể làm sáng tỏ vấn đề này, hóa ra lại được tôi phát hiện ra. Nhưng sự trả giá cho điều bí mật này cũng quá lớn.
Đối diện với kho báu mỏ ngọc của cổ nhân đã khai thác năm nghìn năm trước, tôi thành tâm khom mình bày tỏ lòng thành kính, bởi vì mỏ ngọc cổ xưa này chính là bước đầu tiên mà nhân loại chinh phục tự nhiên bước vào nền văn minh.
Tôi lại nhớ tới những truyền thuyết của văn minh Lương Chử, và cả lai lịch thần bí của tổ tiên gia tộc Âu Dương, biết đâu họ thực sự không phải là loài người? Biết đâu tất cả những điều này đều liên quan tới ngọc thạch dưới lòng đất? Cũng giống như chiếc nhẫn ngọc có thể giúp tôi nhìn thấy quá khứ.
Lẽ nào mỏ ngọc ở đây có chôn giấu nguyên tố tự nhiên thần bí nào đó?
Nghĩ tới đây, tôi liền nhặt ngay vài mảnh ngọc thạch vụn trên đất, có thể đem chúng về Thượng Hải làm xét nghiệm khoa học, biết đâu lại là phát hiện trọng đại làm chấn động thế giới?
Nhưng sau vài chục giây do dự, tôi lại để những mảnh ngọc vỡ trở về chỗ cũ. Không, tôi không có quyền gì đem chúng đi, hãy để chúng được bí mật chôn vùi dưới lòng đất, vĩnh viễn không được quấy nhiễu chúng.
Tôi không cầm đi bất cứ thứ gì và vội vã rời khỏi nơi đây. Theo ánh đèn pin dẫn đường, tôi bước ra khỏi địa cung to lớn, trở lại đường đi dưới lòng đất. Khi đi qua cánh cổng đá, tôi đã đóng cửa lại, cố gắng hết sức không để không khí lọt vào bên trong.
Bước lên những bậc cầu thang đá dựng đứng, tôi rốt cuộc đã trở lại mặt đất. Sau khi bước ra khỏi mật thất trong phòng, tôi nhặt những viên gạch dưới đất lên, bít lại cửa mật thất. Sau đó, tôi kê lại chiếc giường vào trước cánh cửa bí mật, hoàn toàn che nó lại, và mong rằng sẽ không còn ai phát hiện ra sự tồn tại của nó nữa.
Trở lại sân, tôi hít lấy hít để không khí bên ngoài, ánh trăng vương vãi trên người tôi, hãy để ngôi mộ này vĩnh viễn đóng lại nhé.
Lúc này đã là mười hai giờ đêm, xem ra tối nay không về được nữa. Tôi đi tới căn gác nhỏ phía sau, trở lại căn phòng trước đây mình đã từng ở. Đêm cuối cùng ở trong Hoang thôn, tôi đã vội vàng lau chiếc giường gỗ rồi trải chiếc thảm lên trên. Trong căn phòng tối tăm cổ kính này, mãi mà tôi vẫn chưa ngủ được, hi vọng rằng lúc nào đó trong đêm, Tiểu Chi sẽ xuất hiện trước mắt tôi.
Tiểu Chi, em có đến không?
NGÀY THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Tiểu Chi đã không xuất hiện.
Tôi thức trắng cả đêm, lặng lẽ chờ đợi kì tích xuất hiện. Tôi đã từng sợ hãi ảo ảnh và ác mộng nhường vậy, nhưng thời khắc này sao lại khát vọng chúng đến nhường vậy, chỉ để gặp được Tiểu Chi một lần. Vậy mà, cả Tiến Sĩ Đệ chết lặng giống như ngôi mộ, khi bên ngoài văng vẳng tiếng gà gáy, tôi hiểu rằng cô ấy sẽ không tới nữa rồi.
Sớm tinh mơ, tôi sắp xếp lại hành lí, quyết tâm không lấy đi bất cứ thứ gì ở đây. Sau đó, tôi lặng lẽ từ biệt Tiến Sĩ Đệ, khi tôi bước ra khỏi ngôi nhà cổ, trong lòng âm thầm thốt lên hai tiếng tạm biệt.
Gia tộc lâu đời kéo dài mấy nghìn năm này tới đây đã triệt để đoạn tuyệt rồi, mọi yêu, hận và tội ác đều đã khép lại trong ngôi nhà cổ này, không còn xâm nhập vào cuộc sống của người khác nữa.
Tôi khoác hành lí rời khỏi Hoang thôn, hình như không có ai phát hiện ra tôi, khi đi qua tấm bia tiết hạnh, những cơn sóng hung tợn phía xa xô bờ, lòng bỗng nảy sinh cảm giác kì lạ.
Bờ biển sớm tinh mơ mịt mờ sương khói, giống như khói mây đang lan tỏa trong những bức tranh Trung Quốc, mùa đông đến nơi đây, thật chưa từng thấy qua cảnh sắc này. Vậy là, tôi vô thức tiến tới bờ biển, leo lên những phiến đá lởm chởm, phát hiện dưới gốc núi là những ngôi mộ la liệt. Vô số những ngôi mộ dựng đứng dưới chân tôi, lặng lẽ nghe tiếng sóng biển.
Khi tôi ngước nhìn xung quanh, bỗng nhiên phát hiện trên vách núi cách đó vài trăm mét, hình như có bóng dáng một cô gái áo trắng. Dưới vách núi cheo leo là biển lớn, cô ấy đứng một mình cô độc hướng về phía biển, gió biển thổi tung sắc váy trắng cùng mái tóc dài đen tuyền của cô ấy, trông thật giống một bức tranh thủy mặc. Tuy khoảng cách khá xa, qua làn sương khói bên bờ biển chỉ có thể nhìn thấy chiếc bóng mờ ảo nhưng thân hình mảnh dẻ và mái tóc đen xõa ra đó lập tức khiến tôi nghĩ tới một người.
“Tiểu Chi?”
Giống như đang lê bước trên sa mạc xa xăm, đột nhiên phát hiện thấy một giếng nước ngọt, tôi không thể kìm nén được sự kích động, lập tức lao chạy về phía vách núi. Nhưng vách núi do thực sự quá cao, cả đường đi khúc khuỷu dựng đứng, tôi đành phải dùng cả tay để leo lên đó.
Mấy phút sau, tôi rốt cuộc cũng đã bò lên được vách núi một cách khó khăn, nhưng lại chẳng thấy gì trước mắt. Tôi lo lắng nhìn một vòng xung quanh, trên vách núi to nhường vậy, ngoài tôi ra chẳng có lấy một bóng dáng ai khác.
Tôi tuyệt vọng xông lên đỉnh dốc núi, tiến thêm một bước nữa đã là vực thẳm rồi. Độ cao từ vách núi tới mặt biển ít nhất cũng phải năm mươi mét, chỉ nhìn thấy bọt tung lên trời trắng xóa dưới chân phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Một vùng khói ẩm ướt bao trùm lấy tôi, giống như bước ra từ trong mây.
“Tiểu Chi…”
Tôi hướng về phía mặt biển gọi to, tôi biết cô ấy có thể nghe thấy tiếng gọi của mình, tôi biết cô ấy luôn ở bên cạnh tôi.
Tiểu Chi đã từng nói với tôi một câu, đến tận bây giờ tôi vẫn khắc sâu trong lòng…
“Chỉ cần lòng anh nhớ em, anh sẽ nhìn thấy em.”
Tôi tin câu nói này là thật. Lúc này lòng anh nhớ đến em, nhưng tại sao anh không nhìn thấy em chứ?
Có lẽ, chắc là do em không nhẫn tâm để anh nhìn thấy em phải không?
Trên vách núi cheo leo dựng đứng này, tôi chờ đợi rất lâu, mãi cho tới tận khi ánh nắng đuổi sương khói đi, mặt trời chói chang trên mặt tôi. Nhưng kì lạ ở chỗ, gió trên mặt biển cũng dần lặng lại, đại dương vốn đang cuộn trào giây phút này đây lại giống như một mặt gương tĩnh lặng. Nhiệt độ cũng bắt đầu nóng lên dưới mặt trời chói chang, tôi cảm thấy toàn thân mình đổ mồ hôi, giống như đang từ bờ biển chuyển tới sa mạc vậy.
Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy phía chân trời giao thoa với biển, dần dần hiện lên một khuôn mặt phụ nữ, giống như đang xem phim ngoài trời vậy, tôi lập tức nín thở, đó chắc chắn không phải là do ảo giác của tôi, đại dương dường như cong thành một màn hình, mặt trời biến thành máy chiếu phim, ánh nắng chiếu lên màn hình khổng lồ này khiến tôi từ từ nhìn rõ khuôn mặt đó – Tiểu Chi.
Đúng vậy, ở phía chân trời cô ấy đang mỉm cười, khuôn mặt bao trùm trong ánh sáng lung linh, giống như hình bóng Nhiếp Tiểu Sảnh dưới ánh nến. Mắt của cô ấy, lông mày và chiếc mũi đều dường như đang trùm lên một lớp voan mỏng, lại giống như bóng dáng được in lên mặt nước xanh biếc.
Tiểu Chi đang xa tận chân trời nhưng lại gần ngay trước mắt, dường như tôi giơ tay ra là có thể chạm vào cô ấy. Đột nhiên, khuôn mặt Tiểu Chi bỗng từ từ nhạt nhòa dần, tan biến trên không trung giống như nước chảy.
Tôi dụi dụi lại mắt, nhưng nhìn thấy biển trời đã trở lại như trước, vẫn là bầu trời xanh đó, biển đen đó, chỉ còn đường giao thoa giữa biển nơi cuối tầm mắt.
Mãi tới giờ phút này tôi mới hiểu ra, cảnh tượng kì dị vừa nhìn thấy ban nãy chẳng qua là “sự khúc xạ ánh sáng.”
“Khúc xạ ánh sáng” là một hiện tượng quang học, có thể truyền những cảnh tượng không cùng một thời điểm tới mắt người, thường xảy ra trên sa mạc hoặc trên biển.
Nhưng tại sao Tiểu Chi lại có thể xuất hiện trong “khúc xạ ánh sáng” chứ? Tôi không thể giải thích nổi hiện tượng này, có lẽ đây chỉ là sự thương cảm của ông trời dành cho tôi chăng.
Tôi nhớ mình đã từng xem qua một bộ phim, nam diễn viên chính đi qua sa mạc nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của một cô gái hiện lên trong “khúc xạ ánh sáng” và đã yêu cô gái chưa từng gặp mặt ấy.
Nhưng tôi và Tiểu Chi hoàn toàn trái ngược.
Vậy là, tôi hít thật sâu không khí trên vách núi, rời khỏi nơi kì lạ này.
Đường xuống núi vẫn khó khăn nhường vậy, vất vả lắm mới tìm thấy đường tới Hoang thôn. Sau đó, tôi đi nhanh về phía thị trấn Tây Lãnh, trong lòng lại lẩm bẩm: “Vĩnh biệt nhé, Hoang thôn.”
Buổi trưa, tôi mệt mỏi rã rời về tới thị trấn Tây Lãnh, vội vàng ăn bữa trưa, sau đó ngồi xe buýt để kịp tới bên xa khách đường trường hướng về phía thành phố K, rốt cuộc cũng kịp chuyến xe cuối cùng trở về Thượng Hải.
Khi xe khách về tới Thượng Hải, bầu trời đã đầy sao. Tôi đeo hành lí bước ra khỏi bến xe, nhớ lại ngày đầu tiên của câu chuyện này lúc bốn sinh viên tìm đến nhà tôi hỏi thăm, trong lòng bỗng trào lên cảm giác buồn bã vô cùng.
Vậy là, tôi ngửa đầu nhìn lên bầu trời đầy sao bí ẩn, nhẹ nhàng thở dài: “Để mọi việc kết thúc đi nhé.”