Lưu Hoằng tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài.
Ánh sáng buổi trưa gay gắt xuyên qua tấm giấy mỏng trên cửa sổ, chiếu rọi cả căn phòng nhỏ, hắt lên thành giường trơn mịn, rồi lại phản chiếu xuống khuôn mặt góc cạnh của hắn. Có vài hạt nắng nhỏ, dường như xuyên qua tán lá mà vào trong, lay động nhảy nhót.
Đang có gió sao?
Hắn vẫn duy trì trạng thái chưa tỉnh ngủ, hơi kéo cái gối, kê lên thành giường rồi chậm rãi ngồi lên.
Hắn vươn tay che miệng, ngáp một cái, tay kia xoa xoa một bên mắt, xóa đi nước mắt đọng lại trông hết sức ngu ngốc trên mi.
Hôm nay ngủ quá nhiều rồi!
Thực ra lúc sư phụ phẩy tay áo tiễn biệt, Lưu Hoằng đã thực sự tỉnh rồi, nhưng nghĩ đến đống rùm beng sắp phải đối mặt, hắn bèn ngao ngán nhắm mắt, nằm im như cá chết suy nghĩ các cách giải quyết. Sau cùng, hắn cảm thấy rối não, bèn tiếp tục im lặng, chọn cách nhanh nhất mà cũng đơn giản nhất: ngủ tiếp.
Hắn kéo sợi dây buộc màn bênh cạnh, tấm vải mỏng màu xanh lam lập tức buông xuống.
Lưu Hoằng trầm mặc thật lâu. Hắn nghĩ mình rõ ràng nên ở cung của Vương Lý, hoặc tệ hại hơn là được đặt tới nơi nào đó gần với Ngô Nhiễm, thế nhưng hắn lại thực sự đã bay về tẩm cung của bản thân.
Thế còn đệ đệ hắn? Vụ việc hôm trước? Còn tính toán của Ngô Nhiễm, lế tế Đế An, đối mặt với sứ thần Đế Hỏa, lại còn sư phụ nữa. Bao nhiêu việc!
Thực nhức đầu!
- Chủ tử. - Anh Như cất giọng oanh oanh yến yến không biết từ đâu vén tấm màn, ý đồ muốn sáp hẳn vào hắn.
- Ra đi! Bạc đã phân phó xuống rồi.
- Thực ghét quá mà. - Nàng phất lên cái khăn tay hồng hồng thoảng mùi hoa cỏ đặc trung của thảo nguyên. Đôi mắt thoáng ửng đỏ - Người ta vì người mà cố gắng như thế, đến cả tam tòng tứ đức cũng không cần, trinh tiết cũng suýt nữa bị hủy... Thế mà người... người....
- Ngươi diễn vai đó không hợp đâu, chỉ có tên thái giám liệt dương kia mới thích thôi. Xuống đi! Thêm hai lượng bạc nữa, xuống chỗ A Hòa mà lấy. Chút nữa đưa giấy bút ta viết một phong thư, rồi tìm cách đưa cho Thập đệ, sau đó phân phó người làm rõ sự việc hôm qua.
Ở Cổ Hi này, người của hắn không nhiều, nhưng chí ít, cũng làm thành được mạng lưới tin tức nho nhỏ đủ dùng.
- Rõ thưa chủ tử. - Anh Như đáp xong, nhét khăn hồng phấn vào ống tay chờ cơ hội dùng tiếp, sau đó một mực đi không quay đầu.
- Tốn tiền... - Người nào đó vừa nhìn bóng ai khuất dần vừa lẩm bẩm.
Rõ ràng thấy nàng vừa khuất bóng, câu lẩm bẩm của Lưu Hoằng mới tuôn ra, vậy mà không hiểu sao hắn nói hết câu, nàng đã vô thanh vô thức xuất hiện lại trước mặt. Lưu Hoằng không để ý xung quanh, lúc này mới giật mình nhảy dựng lên. Sau khi bình tĩnh tiêu hóa thông tin còn cường điệu hóa mà ôm tim thở thở.
- Ngô Nhiễm đã tung tin. Lưu Quân thân thể kém, đi đêm nhiễm lạnh, cần tĩnh dưỡng, văn võ bá quan không nên làm phiền.
- Ngươi nói với ta làm gì? Bình thường có ai làm phiền ta sao?
- Ta chỉ nhắc nhở thế thôi, nhiệm vụ của ta mà.
- Lui đi!
- Còn nữa... Ngô Nhiễm nói, hai mươi ngày sau, người Thanh Vân giáo sẽ đến núi Côn Lĩnh, nói ngài đến đó, sẽ gặp được sư tôn.
- Ngươi... Quan trọng như thế. Sao ngươi không... Thôi! Lui đi!
- Rõ thưa chủ tử!
Hắn nhìn nàng đi khuất bóng, rồi đợi gần nửa khắc, chắc chắn nàng không quay lại mới cởi hài, nằm vật lên giường, mệt mỏi suy nghĩ.
Hắn đối đãi với nàng vô cùng tốt, ngoài mặt là quan hệ chủ tử, nhưng thực chất, hắn, nàn cũng ca ca nàng coi nhau như bằng hữu thân thiết.
Anh Như chính là tâm phúc khó khăn mới hắn mới có được. Nàng vốn là người của Cái Bang, sau vì bị chèn ép bạc đãi mà cùng ca ca giúp bọn hắn ra ngoài.
Cái mạng này, cũng một phần là do nàng cứu sống.
Anh Như cũng có thể coi là cột mốc quan trọng đoạn kí ức ngập tràn những sóng gió của hắn. Kể ra thì đoạn kí ức đó cũng chẳng mấy tốt đẹp gì. Kế hậu vì muốn hạn chế quyền lực của hắn, không những tính kế truất ngôi thái tử của hắn mà còn trực tiếp tác động đến số phận sau này của hắn, một hai câu nói đã tiễn hắn ra khỏi hoàng cung, sống vất vưởng với thôn ấp lẻ tẻ vài ba mẫu ruộng khô cằn ăn mày chẳng thèm đào trộm làm thái ấp tạm thời, mà trong ngoài thôn xóm lại nhan nhản tâm phúc của nàng ta.
Đến năm Thái An thứ hai (tức năm ), khi các thế lực bắt đầu bùng lên mạnh mẽ, xâu xé cái ghế hoàng đế, thì hắn lại được long trọng triệu về cung, rất rất trùng hợp trở thành miếng mồi thu hút sự chú ý, cũng là tiện làm tấm bình phong, để người xâu xé. Chỉ trong hai năm ngắn ngủi đó, hắn đã hai lần suýt mất mạng, một lần là độc hạ trong thức ăn mẫu phi hắn tự tay lắm, lần còn lại là do tên bắn trong cuộc đi săn cùng với phụ hoàng.
Đoạn kí ức đen tối và ngán ngẩm!
Đến khi triều đình thực sự lục đục, rồi sau đó lung lay đến tận gốc do nội chiến, thì tình thế đã chẳng còn gì để vãn hồi, kẻ thức thời thoáng qua đều có thể nhìn ra thời cuộc. Chỉ trong năm tiếp đó mà hai vị công thần bị bãi chức, bị tru di tam tộc. Tam hoàng tử - nhi tử của Cố hậu, người được Phụ hoàng hết sức sủng ái cũng chết vì độc dược trên tay sườn phi mới sắc phong của hắn ta. Rồi đến Ngũ hoàng tử Nguyễn Khiêm lên nắm ngôi thái tử, biên cương nổi lên loạn lạc. Rồi Trác Ngoãn a dua nịnh hót, hiến kế tăng thuế xây điện, thu thêm mĩ nhân. Liền sau đó là hoàng đế băng hà.
Tất cả đều dẫn đến cùng một đại họa: Bắc Phong quốc diệt vong.
Cuối năm Nghiêm Chính thứ nhất, Bắc Phong chính thức bị đô hộ. Hoàng thành bị quân địch tiến công, hoàng thất đều bị giết, số còn lại là truy sát đến tận cùng. Sau ngày mẫu phi từ trần, Lưu Hoằng đã lấy cớ ra ngoài thành để thanh thản tâm trí, thuận tiện về quê mẫu phi thăm thú một phen, nhờ đó mà thoát được một mạng.
Trên đường bỏ trốn khỏi kinh thành, hắn sơ sẩy lộ thân phận. May mắn dân thành đều hết sức vì hắn, từ việc cải trang cho đến đóng giả làm thê tử, phụ mẫu hắn, giúp được gì, họ đều nhiệt tình giúp. Đi đến sông Hoàng Giang, Lưu Hoằng gặp được mẫu tử Lưu Kha. Nghiên Cơ (mẫu thân Lưu Kha) ngỏ ý muốn đi cùng Lưu Hoằng. Hắn ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng chấp thuận, tiễn biệt thôn dân mà đi cùng với ám vệ của nàng, an toàn hơn, nhưng cũng nguy hiểm hơn. Thiếu niên năm đó, lần đầu tiên chơi trò cá cược. Mà cá cược lần này, là đặt cọc tính mạng bản thân lên chiếu bạc của cuộc đời.
Kết quả??? Hắn thắng! Thế nhưng cái giá hắn phải trả để giữ lại mạng mình trên bàn cược là không nhỏ...
Cỗ xe thuận lợi thoát khỏi thành thị sầm uất, tiến thẳng tới nơi hoang vu hơn. Cỗ xe đi qua đường mòn của núi, âm thầm theo một lộ trình cố định, ý đồ đi đến Cái Bang. Lộ trình dài hơn, khó đi hơn, nhưng an toàn hơn.
Mẫu thân Nghiên Cơ tốt xấu gì cũng là con gái cựu trưởng lão, kể ra thì cũng có chút giao tình với trưởng lão Cái Bang hiện tại. Lưu Hoằng biết, nàng thật hi vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ phía Cái Bang mà vượt qua sóng gió lần này. Ai ngờ... nơi muốn đến chưa thể đến, trắc trở đã hiện ra chắn ngay trước mắt.
Toán xe gặp phải ám thủ giữa đường.
Đêm đó rất tối, rừng núi rậm rạp ẩn chứa nguy hiểm, chỉ có ánh sáng từ ngọn lửa nhỏ bé đốt lên từ củi khô phát ra. Một mảng im lặng, và gió, và lá cây xào xạc, ớn lạnh, rét buốt, đâu đây còn ngửi thấy mùi tanh của thú hoang, thế nhưng chẳng hiểu sao vẫn thấy an toàn. Thế rồi, vút lên trong gió. Những tiếng động bất ngờ. Tiếng dao sắc bén xé tan cơn gió. Tiếng đâm chém. Tiếng rên rỉ. Tiếng máu chảy. Độ ấm của máu tươi rõ ràng trên da thịt. Vết thương chí mạng của Nghiên Cơ. Ánh mắt trân trối của nàng. Rồi tiếng thét gào, tiếng thở gấp gáp.
Cả đời này Lưu Hoằng có lẽ không bao giờ có thể quên đi được đêm kinh hoàng đó.
Nhất là cảnh tượng hãi hùng đó, một ấn tượng duy nhất, cũng là khó phai nhất của hắn về Nghiên Cơ. Nàng không nói gì cả, nằm trong một vũng máu. Đằng sau, ám vệ vẫn đang kìm chân sát thủ, thế nhưng hắn lại chẳng thể chạy, huống gì Lưu Kha đang nước mắt lưng tròng ở bên, không dám gào rống. Chân Lưu Hoằng như cứng lại, vì hắn gặp ánh mắt của nàng. Như băng tuyết, nhọn thật nhọn, xoáy sâu vào tâm khảm hắn, lại như lửa cháy cuốn lấy hắn, tình cảm phức tạp... tình cảm của một người mẹ sắp vĩnh viễn đi xa mà còn chưa cam lòng, vẫn lo lắng cho đứa con thơ dại.
Trước khi nàng nhắm mắt, hắn đã hứa với nàng, dù có chết, cũng phải bảo vệ Lưu Kha, cũng phải mang lại cho Lưu Kha một cuộc sống tốt đẹp, vì thế nên bây giờ, bọn hắn phải đi, đi mà không có nàng. Không biết nàng có nghe hiểu lời hứa không, không bao giờ biết được. Lưu Hoằng chỉ thấy nàng cười, rồi đôi bàn tay đẫm máu đưa ra phong thư cho hắn, liếc mắt ra hiệu hắn dắt Lưu Kha đi. Nước mắt lưng tròng, Lưu Kha khi đó mới hơn mười tuổi nhưng không dám thét gào, chỉ nằm im trên trên cánh tay tanh đầy mùi máu của hắn.
Hai người được một ám vệ khác cứu giúp mà nhanh chóng thoát ra khỏi rừng. Tưởng được an toàn rồi, thế mà vừa đến bìa rừng, một toán sát thủ đã xông ra. Ám vệ kia liều chết xông lên, đến khi diệt mạng cuối cùng thì hắn cũng hi sinh.
Lưu Hoằng không thể quên quang cảnh nhập nhoạng của buổi bình minh đó, buổi bình minh rút hết sinh lực của hắn. Hắn gục ngã ngay cạnh bìa rừng, trước khi nhắm mắt, hắn còn kịp thấy Lưu Kha an ổn ngủ trong lồng ngực, phía trước là thi thể của hắc y nhân với biểu tượng xanh lam trên vai áo trên vai áo. Ký hiệu ấy, cả đời này mãi ám ảnh tâm trí hắn.
Vài ngày sau, hắn tỉnh dậy trong căn phòng thô sơ nhỏ bé. Người ta nói đây là của Cái Bang.
Cái Bang nuôi dưỡng bọn họ hai tháng đã tính kế bán bọn họ cho Đế Hỏa. Lúc này, ca ca Anh Như - anh của người con gái đã chăm sóc bọn họ cùng nàng biết được, báo cho huynh đệ Lưu Hoằng, sau đó vạch ra kế hoạch chạy trốn.
Đào tẩu rất thuận lợi!
Thế nhưng Cái Bang lại rất nhanh đã biết được tin tức bọn họ, ngay lập tức liền cho người đuổi theo, nhưng đuổi vài ba ngày, vô thanh vô thức dừng lại. Anh Như nói bọn họ không muốn dây dưa nhiều, cũng là e ngại hoàng đế Đế Hỏa. Nếu bắt được thì không sao, nhưng nếu kinh động đến ông ta rằng bọn hắn giữ người hai tháng mà không chịu giao nộp, chắc chắn Cái Bang sẽ mất đi uy tín trong vùng Đế Hỏa, thậm chí là cả khu vực Bắc Phong giờ đang bị đô hộ.
Bốn người họ dẫn nhau đi đến biên cương Cổ Hi, ngay trong tuần đầu tiên của lễ tế Đế An. Họ băng rừng vượt núi, trót lọt qua biên cương, đến vùng rừng rú rập rạp. Một bộ lạc bắt được họ, nhưng không hiểu vì sao lại không giết họ. Bộ lạc đó chỉ giam họ lại, và sau đó đưa tin lên quốc vương, trong sự ngạc nhiên của cả Anh Như và ca ca nàng. Một tuần sau, kết thúc, bốn người bị giải đến kinh đô Cổ Hi theo lệnh hoàng đế. Hoàng đế Cổ Hi chẳng phải tay vừa, lập tức lập ý định trừ bỏ hậu họa, bèn lấy cớ hỏi ý Đế An mà mang bốn người đến đền thờ.
Lấy tiếng là hỏi ý, thực chất chính là tế lễ, mà đồ tế không ai khác là huynh đệ bọn họ. Điều này Lưu Hoằng xác định rất rõ, nên hắn cũng chuẩn bị tâm lí chờ chết, mà Ngô Nhiễm cũng chuẩn bị tâm lí giết chết. Ai mà ngờ...
Đại đồ đệ của Thanh Vân giáo, Lưu chân nhân mai danh ẩn tích hai năm trời đột nhiên xuất hiện. Trong lễ tế Đế An tướng quân, dưới danh nghĩa tam đồ đệ đời thứ hai lăm, phụng thừa Đế An tướng quân, đại diện cho Thanh Vân giáo chính thức thu nhận hắn làm đệ tử. Lại dùng điều kiện ra trao đổi lấy mạng sống của hắn cùng em trai.
Ngô Nhiễm đành phải miễn cưỡng thu nhận huynh đệ Lưu Hoằng, lại phong danh phát đất, đưa huynh đệ hắn vào tẩm cung. Ngược lại, hắn được sự đảm bảo của Thanh Vân giáo, được Thanh Vân dâng lên pháp bảo, trấn giữ bốn giáo phái khác đang hoành hành chống lại triều đình, lại cũng được nhận được thư đảm bảo từ phía một tướng đã lưu lạc tại Bắc Phong. Ông ta chiêu binh mã, chờ đến ngày khởi nghĩa dấy nghiệp, đón vị hoàng tử trở về, nhất định không quên ơn của Cổ Hi.
Ngô Nhiễm một mặt bên ngoài đồng ý, nhưng bên trong đã tính toán ngầm. Sự trợ giúp của Thanh Vân giáo hay của Bắc Phong đều là trân quý, thế nhưng vì thế mà quay lưng, đối đầu Đế Hỏa. Tình hình Cổ Hi Quốc gần đây không tốt, giáo phái tranh giành nhau làm ảnh hưởng triều đình sắp sửa vô dụng. Thế nên bây giờ, tận dụng Thanh Vân giáo, ổn định tình hình, Đế Hỏa năm tới tạm thời chưa ngó đến Cổ Hi.
Hai huynh đệ Lưu Hoằng được nhận về. Phiền một chỗ là hai người ít được gặp nhau, còn lại thì đãi ngộ vô cung tốt, không giống như tù nhân lưu lạc. Ngô Nhiễm cũng đồng ý để Lưu Hoằng bái sư, nhưng với điều kiện, rằng hắn chỉ được nhận sự chỉ dạy trong vòng ba năm, sau đó, Lưu chân nhân phải quay về Thanh Vân, làm tròn lời hứa giữa hai người. Còn việc sư phụ đã hứa gì với Ngô Nhiễm, Lưu Hoằng đến giờ cũng chưa rõ.
Bái sư xong, Lưu Hoằng chính thức trở thành đại đồ đệ của Lưu chân nhân.
Vũ khí sắc bén.
Quyền pháp.
Binh thư.
Tất cả đều được truyền đạt một cách chóng vánh, Lưu Hoằng phải cật lực mới ghi nhớ từng chi tiết. Ba năm để truyền dạy hết kho tri thức của sư phụ là điều không thể, nên hắn cố gắng thu nhận nhiều nhất có thể. Khi không có sư phụ, hắn theo bộ quyền pháp mà tu luyện, theo binh thư mà học tập, chẳng mấy chốc đã trưởng thành rõ rệt. Ba năm khi hắn thành thục, hắn lại phải xa người thầy truyền dạy cho hắn. Một vị nam tử dáng người thon dài, một thân lam y nho nhã với đôi tay phe phẩy thiết chiết phiến mãi đánh sâu vào tâm trí hắn. Người đó khảo nghiệm kết quả luyện tập của hắn, rồi lại đưa một tập sách mới. Những ngày tháng cuối cùng đó quả thực mệt mỏi trăm lần so với mấy bộ quyền pháp kia, nhưng hắn vẫn không kêu ca.
Lức mới bái sự, hắn quỳ xuống, vái ba vái, gọi một tiếng sư phụ, người đó lạnh mặt quay đi. Hai năm sau, đến khi hắn thành công qua một nửa chặng đường, cũng đã thuận miệng mà gọi người đó là sư phụ, người đó vẫn còn giận dỗi mỗi khi nghe hai tiếng đó.
Hai tiếng sư phụ người đó luôn tỏ thực chán ghét, nhưng Lưu Hoằng lại thực thích. Bởi vì nó chứng tỏ cho sự gắn kết của hai người, không phải hai người bình thường xa lạ, mà là sư đồ, là vì dưỡng mà yêu.
Người đó thực giỏi võ, cũng rất uyên thâm binh pháp. Có lần, hắn tò mò hỏi người đó rằng, lời đồn về binh pháp của Đế An và tứ đại thần khí, cái nào quan trọng hơn. Hắn bèn cười cười, giải thích rõ ràng hai bên, rồi cuối cùng kết luận: ta mới là quan trọng nhất. Lưu Hoằng lúc đó rất hoang mang, tưởng người kia đùa mình, nhưng sau ngẫm kĩ, rồi lại rồi để ý mới nhận ra: đôi mắt người này thật giống đôi mắt vị tướng quân kia. Tuy tượng tạc vô hồn, nhưng đường nét vẫn sống động. Thêm nữa, hắn có thể từ bức tranh cổ trong thư phòng hoàng đế mà khẳng định, hai đôi mắt đó vốn là một. Mạnh dạ suy đoán là thế, nhưng hắn cũng chỉ dám ẩn suy nghĩ trong lòng chứ chưa bao giờ nói hẳn ra ngoài, đừng nói tới việc hỏi trực tiếp người kia.
Ba năm đều đặn gặp người nọ, đến một buổi, thay vì dẫn đến phòng tập, người đó dẫn hắn ra khỏi thành, đến một nơi thực hữu tình. Trước là thác núi, sau là rừng mai, người đó bày bánh hoa quế cùng hồng trà lên bàn, gọi hắn đến thưởng thức. Cảnh tượng đó, là cảnh tượng thứ hai mà Lưu Hoằng mãi không thể quên. Hắn nhìn người đó cười thật tươi, nhìn đến phát ngốc, đến khi người đó gọi vài lần, hắn mới sực tỉnh mà đi đến, cùng thưởng trà ngắm hoa. Người đó nói sẽ không gặp hắn trong thời gian khá lâu, nếu thực sự có biến, người đó mới xuất hiện. Vốn chỉ tưởng là câu nói đùa, ai ngờ, khi trở về, người đó cười thật tươi mà lưu lại cho hắn một câu:
- Ta tên là Khang Dực.
Người đó từ đó hoàn toàn biến mất, dù cho Lưu Hoằng có cố cũng thể gặp.
Hắn chỉ gặp lại người đó hai lần duy nhất. Trong giấc mơ. Hai cảnh tượng luôn luôn ám ảnh hắn. Một là bộ dáng lần đầu gặp người đó trong bộ lam y, phe phẩy thiết chiết phiến, và lần cuối cùng khi y ngồi trong non nước hữu tình, cười thật sâu mà nhìn hắn. Lưu Hoằng cũng biết, là tự hắn sinh tình.
Hắn lẩm bẩm tên người đó trong mơ, nhớ người đó gần như phát điên phát cuồng.
Hắn chờ, chờ người đó xuất hiện trong mơ, không giấc mơ nào là không mong nhớ.
Cái người hắn gọi sư phụ này, cũng thật tàn nhẫn, làm hắn mệt mỏi nửa năm ròng, ủ dột và lo lắng không giấc mơ nào yên ổn, nay lại đùng đùng mà xuất hiện, làm hắn thật bất ngờ, vui như muốn trực tiếp đóng cọc ở cúi Côn Lĩnh, bay vù đến hai mươi ngày sau. Nhớ đến đây, hắn lại muốn mỉm cười, sắp được gặp sư phụ bằng xương bằng thịt, thật muốn mở miệng ngọt ngào một tiếng sư phụ làm người kia dù có tỏ ra khó chịu đến chết vẫn ẩn ẩn ý cười đáy mắt.
- Sư phụ! Đồ nhi ngoan của người tới rồi đây!