Người ta nói đêm Trắc phúc tấn Niên Thị vào phủ Ung Vương, trong thư phòng của Ung thân vương bỗng xảy ra một trận hỏa hoạn lớn.
Ngọn lửa rừng rực cháy cao chót vót bừng bừng khắp nơi, giống như câu thần chú cổ xưa ám chỉ vận mệnh của tân nương này.
Có người nói, chỉ là do người hầu không cẩn thận làm rơi giá cắm nến, mà hạ nhân đó cũng đã chết trong trận hỏa hoạn rồi.
Sau này, có một khoảng thời gian không nhìn thấy Ung thân vương, có người nói chàng đã bị thương trong trận đại hỏa, cũng có người nói chàng xin Khang Hi cho nghỉ ngơi đến chùa trai giới.
Không một ai biết nguyên nhân vì sao lại xảy ra trận hỏa hoạn ấy, ngay cả người thân cận nhất của Ung Thân vương là Tô công công cũng không biết rõ. Có lẽ đúng là có người làm rơi giá cắm nến, mà người làm rơi ấy chính là chủ nhân của căn phòng đó.
Cũng không một ai biết, chỉ vì một cái hộp nhỏ bằng sừng tê giác mà chàng đã xông vào trong ngọn lửa lớn tìm kiếm rất lâu, gần như lao vào biển lửa.
Chẳng còn lại gì cả, không một bóng người trong phòng, chỉ còn lại đoạn dây ngọc bội chữ Chân bị đứt nằm lẻ loi trên giường lớn.
Trong cái rương nhỏ của nàng, tất cả đều là đồng tiền nàng tích cóp được trong bao năm qua, từng tờ từng tờ ngân phiếu được xếp thẳng thớm. Còn có một lư hương nhỏ giá rẻ đơn giản, được dùng trong những năm đầu, được lau chùi rất sáng bóng. Những quyển thơ chàng viết được đóng rất cẩn thận, chăm chút. Tất cả tiền mấy năm đầu chàng đưa cho nàng đều cho vào tủ khóa lại, từng cái từng cái đều được đánh dấu. Bên trong cái hộp nhỏ bằng sừng tê giác đặt ở trong góc kia có trâm cài, nhẫn mắt phượng hồng bảo, sợi dây đỏ, quẻ Nguyệt lão, hôn thư, răng nanh màu men… Nàng không hề mang đi cái gì.
Dù toàn bộ ám vệ Niêm Can của phủ Ung Vương tìm kiếm xung quanh, thậm chí lật tung cả kinh thành, ngày cả phủ Bát gia cũng không bỏ sót, cũng không thấy sự tồn tại của nàng.
Nàng, biến mất rồi.
Nàng tựa như không khí, chưa từng tồn tại ở thế gian này, không để lại lời nào, giống như mây khói, cứ như vậy mà yên lặng bốc hơi.
Mùa đông năm Khang Hi thứ năm mươi xảy ra rất nhiều chuyện, phủ Ung Thân vương và phủ Bát gia gần sát nhau như hai đầu lửa và băng
Ngày hai mươi tháng mười một, Lương phi – mẫu phi của Bát gia Dận Tự qua đời, linh cữu đặt tại Đông Trang. Khi Lương phi hấp hối, Dận Tự đau đớn nhìn mẹ hắn rời bỏ thế gian. Lòng hiếu thảo của hắn đối với mẹ mình trời xanh cũng thấu, nghi thức truy điệu, hỏa táng tế vật được thực hiện chu đáo, hắn thức trắng đêm túc trực bên linh cữu. Nghe đồn đến tận nửa năm sau vẫn cần người dìu mới đi vững, thậm chí mấy năm sau đó vẫn đắm chìm trong đau xót, cả Bát phủ đều tràn ngập trong tang thương.
Khoảng chừng bảy ngày sau khi Lương phi qua đời, tại phủ Ung thân vương, một bé trai đã cất tiếng khóc chào đời. Vì Lương Phi mới qua đời không lâu, trong phủ lại vừa trải qua hỏa hoạn cho nên dù là tắm ba ngày hay là đầy tháng đều được làm đơn giản. Vận khí cũng không thể so sánh với tiểu tứ a ca Nguyên Thọ sinh thiếu tháng. Do vẫn chưa đặt tên nên chỉ gọi bé là Ngũ a ca, mãi cho đến tận đêm giao thừa, Ung thân vương mới hồi phủ ban cho bé tên mụ là Thiên Thân.
Gia quyến trong phủ được Na Lạp thị dẫn đầu, Trắc phúc tấn Niên thị vừa mới vào phủ có khuôn mặt xinh đẹp, cúi đầu ngồi bên cạnh Ung thân vương, khiến ai cũng phải thương yêu, bất luận là gia thế, địa vị hay vẻ đẹp tuổi trẻ đều không có người phụ nữ nào trong phủ sánh bằng. Rõ ràng đến Trắc phúc tấn Lý thị cũng chỉ có thể ngồi bên dưới Niên thị, ngồi bên cạnh Na Lạp thị, ăn mặc trang phục cầu kì cũng không giấu được dấu vết của năm tháng, khiến người ta thổn thức. Những người còn lại, chỉ có hai vị có phúc là Nữu thị và Cảnh thị đều nói rất ít, đến thở mạnh cũng không dám thở.
Ung thân vương Dận Chân tham gia gia yến năm mới trong phủ, sau khi đón giao thừa ở chính phòng, cũng không đi về thư phòng Tứ Nghi đường đã bị thiêu hủy mà rời khỏi Vương phủ.
Năm tháng trôi qua thật nhanh, Niêm Can Xử càng ngày càng phát triển, mỗi ám vệ trong Niêm Can Xử đều mang theo người bức vẽ một cô gái, cô gái này dung mạo bình thường, mặt mày thanh tú, nhưng nổi bật trên trang giấy hơn cả chính là khí chất thản nhiên mà thân thiết. Nhưng không thể không nói, muốn tìm một cô gái không có gì đặc biệt như vậy trên đất nước Đại Thanh bao la thực sự là như mò kim đáy biển.
Ngày qua ngày, không một ngày nào bọn họ ngừng nhiệm vụ này, cho dù là ở kinh thành hay ở nơi nào đó thì sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Đáng tiếc thiên hạ to lớn, hình bóng người lại xa ngút ngàn dặm. Bọn họ đều không biết người trong bức tranh cũng như không biết xuất thân của nàng, mà dung mạo của cô gái kia cũng đã dần bị người trong Vương phủ lãng quên.
Tứ Nghi đường đã bắt đầu trùng tu, vẫn được thiết kế y như cũ, giống như trước đây chưa từng xảy ra trận hỏa hoạn nào. Thái giám ở bên cạnh Ung thân vương vẫn là Tô công công và Trương công công, nhưng không có hạ nhân nào gọi họ bằng tên Tiểu Thuận Tử và Tiểu Ngụy Tử như trước đây. Nha hoàn trong thư phòng nghe nói vẫn chỉ có một người, họ Vân. Sau trận đại hỏa đó nàng đã ở trong phòng tạp dịch đợi ròng rã một năm trời mới trở lại làm người hầu trong Tứ Nghi Đường, người trong phủ gọi nàng là Vân Huệ cô nương.
Tháng ba năm Khang Hi năm mươi mốt, con gái đầu của Ung Thân vương được phong Đa La cách cách, tháng bảy được tấn phong Hòa Thạc cách cách, đầu tháng chín gả đến Na La thị Tinh Đức. Ngày ấy Ung Vương phủ lâu rồi mới vui vẻ như vậy, Ung Vương gả con gái, của hồi môn trải dài mười dặm.
Thế cục triều đình lúc này đang ở thế giương cung bạt kiếm. Ngày ba mươi tháng chín, thánh thượng viết thánh dụ: “Từ khi Hoàng thái tử Dận Nhưng được lập cho tới nay, chưa hết ngông cuồng, làm mất lòng người, đại nghiệp của tổ tông tuyệt đối không thể giao phó cho người này.”
Hoàng thái tử Dận Nhưng sau vài năm được phục vị Thái tử lại bị phế lần nữa, trở thành thái tử đầu tiên trong lịch sử hai lần được lập hai lần bị phế, từ đó giam mình trong Hàm An cung, sống an yên đến cuối đời.
Ngòi nổ của chuyện này bắt nguồn từ vụ án yến tiệc Thác Hợp Tề, án này kéo dài đến mấy năm, liên lụy rất nhiều quan viên. Mà sau khi chuyện này xảy ra, thái tử Dận nhưng càng căng thẳng hơn, những chuyện âm thầm lung lạc lòng người, kết bè kéo phái càng thêm lộ liễu. Tình tiết vụ án rõ ràng, Khang Hi trao quyền đưa Thác Hợp Tề vào ngục, lệnh cho Thành thân vương Dận Chỉ, Ung thân vương Dận Chân cùng hình bộ tiến hành thẩm tra xử lý nghiêm ngặt, vụ án yến tiệc cuối cùng cũng sáng tỏ khiến Khang Hi giận đến mức không kiềm chế nổi. Người thuộc đảng Thái tử Tề Thế Vũ dâng cho Thái tử Dận Nhưng kế sách lên ngôi, khi Khang Hi phế ngôi Thái tử, đồng thời hạ lệnh dùng hình đóng đinh Tề Thế Vũ lên tường, ông ta gào khóc mà chết, khiến mọi người vô cùng sợ hãi. Sau khi chết trong ngục, Khang Hi hạ lệnh hỏa táng ông ta, không cho phép mai táng. Lại hạ lệnh cách chức toàn bộ quan viên bát kỳ liên quan đến vụ án. Đây là vụ án lớn ít đổ máu nhất trong cuộc đời Khang Hi, đủ thấy tình tiết nghiêm trọng, khiến quần thần phẫn nộ.
Hiện tại ngôi vị Đông cung vẫn còn bỏ trống, triều thần cho rằng cứ như thế thì không ổn, nhiều lần can gián Khang Hi sớm lập Thái tử, trong đó Bát gia Dận Tự và Thành Thân vương Dận Chỉ được đề cử nhiều nhất, cũng có người tiến cử Ung thân vương Dận Chân, nhưng Khang Hi đều không tỏ rõ ý kiến.
Thời gian Ung thân vương ở Vương phủ không nhiều, chàng rất ít khi lui về Tứ Nghi Đường, có người nói phần lớn chàng thích ở Viên Minh Viên hoặc ở trong Sư Tử Viên.
Trong đám trẻ con, theo đám hạ nhân thấy hình như Vương gia thích Tứ A Ca Nguyên Thọ nhất, điều này cũng khiến Nữu cô Lộc thị có địa vị hơn. Bởi vì thỉnh thoảng khi chàng về phủ, sẽ bảo nha hoàn Vân Huệ kêu bà mụ bế Nguyên Thọ đến Tứ Nghi Đường, sau đó đưa trở về.
Lúc Trắc phúc tấn Niên thị vào phủ vô cùng long trọng, thế nhưng trận đại hỏa bất ngờ đêm đó giống như báo trước dấu hiệu không tốt. Vào phủ hai năm nhưng nàng vẫn chưa biết cảm giác được sủng ái là thế nào. Cho đến cuối tháng mười năm năm mươi hai, vào lúc sinh nhật ba mươi sáu tuổi của Vương gia, chàng uống không ít, ngồi bên cạnh chàng nàng mới dám lặng lẽ ngắm nhìn chàng.
Nhưng phụ nữ trong phủ đông như thế, chưa bao giờ nàng dám nhìn thẳng chàng, hàng mi chàng khi say rượu bất chợt lóe lên... Không biết là gì.
Là mơ màng? Hay là đau đớn?
Sức quyến rũ trí mạng ấy như độc dược khiến phụ nữ đắm chìm.
Chàng lớn hơn nàng hai mươi mốt tuổi, con gái mới gả của chàng còn lớn hơn nàng ba tuổi.
Chàng vừa lạnh lùng vừa nghiêm nghị, khiến người khác khó đến gần, càng sợ càng yêu, càng yêu lại càng sợ. Đúng vậy, chàng là một người đàn ông anh tuấn, rất quyến rũ, từng động tác giơ tay nhấc chân đều toát ra vẻ đàn ông trưởng thành, thâm trầm.
Khi chàng bỗng híp đôi mắt đen thâm thúy nhìn về phía nàng, trái tim của nàng đập nhanh kịch liệt, hai gò má đỏ lên, khuôn mặt càng toát ra vẻ kiều diễm, chỉ có thể lắp ba lắp bắp nói:
- Gia…
Nàng không ngờ, hạnh phúc nàng chờ trong hai năm lại nhanh chóng đến trong đêm nay như vậy. Đêm nay, tất cả nữ quyến trong phủ đều nhìn nàng bằng ánh mắt đố kị hâm mộ, sau bữa tiệc Vương gia đưa Tô công công đến viện của nàng.
Chàng hiển nhiên đã có chút men say, toàn thân bao phủ bởi một khí chất khiến người ta nhìn không thấu, chỉ ngồi trên ghế không nói lời nào, làm mọi người vừa sợ sệt vừa khát khao. Nàng biết rõ mình không thể bỏ qua cơ hội này, bèn lấy hết dũng khí đưa tay muốn thay y phục cho chàng, nhưng lại bị chàng gạt ra, nàng hoảng sợ không biết nên làm thế nào, nhưng rất nhanh sau đó, chàng thổi tắt nến, xung quanh toàn một màu đen kịt.
Toàn bộ quá trình đều không nhìn thấy vẻ mặt của chàng, nàng cũng hiểu được người đàn ông này trời sinh là để phụ nữ cam tâm tình nguyện bị thần phục, không chỉ có thân phận của chàng.
Khi chàng đứng dậy, cảm giác say đã tiêu tan hết, chàng thuần thục mặc áo ngoài vào người rồi cúi đầu vuốt vuốt cổ tay áo hình móng ngựa, dưới ánh trăng hình rồng vàng trên áo bào trông dữ tợn mà cao quý giống như vật tổ, chàng không nói lời nào liền rời đi.
Tô công công đứng đợi sẵn ở cửa liền phủ thêm áo choàng cho chàng, ánh mắt của chàng dừng trên cổ áo choàng vài giây, lòng bàn tay cẩn thận tỉ mỉ vuốt ve chòm lông cáo màu đen, cổ tay áo lộ ra một vết thương đã mờ, nét mặt ảm đạm mà không ai hay.
Khi chàng đi lên cây cầu cong, sải bước vào sân Tứ Nghi Đường, không nhìn thấy ngọn đèn vàng yếu ớt ấy, cũng không còn ai đó đợi chàng trở về. Tuy nơi này đã được xây dựng lại giống y như đúc trước đây nhưng chàng vẫn cảm thấy xa lạ. Vậy nên, chàng rất ít khi trở về.
Vân Huệ bế con chó nhỏ từ phòng bên cạnh đi ra, nhìn Vương gia trở về, hơi căng thẳng hành lễ thỉnh an. Thì ra Vân Huệ này chính là Tiểu Huệ lúc trước, Chuyện năm ấy, hành động đáng sợ của chàng trong đêm đó cũng giống như kí ức bị khóa dưới đáy hòm bị bụi phủ, không ai dám đào lên.
Dận Chân nói “đứng lên đi”, ánh mắt dừng lại trên con chó nhỏ, rồi đi vào phòng.
Chàng quỳ trên đệm cói ở Phật thất, trên tay cầm chuỗi hạt niệm kinh mãi đến tận bình minh, ánh nến không tắt. Từ sau khi không có nàng ở bên, chàng rất khó đi vào giấc ngủ.
Nàng mất, chàng cũng sẩy tay thiêu mất Tứ Nghi Đường.
Nơi nào cũng thế, đều không phải là nhà.
Hơn hai năm qua, cả ngày lẫn đêm, chàng luôn muốn sớm tìm được nàng. Muốn ôm chặt nàng vào lòng, vĩnh viễn không rời xa nhau.
Chiếc giường to như vậy nhưng bên gối lại trống trải. Mỗi khi đến nửa đêm, chàng thường hoảng sợ giống như xương máu và trái tim đầy rận bò lên, đau đớn như bị khoét tim móc phổi. Chàng rất sợ, sợ nàng đã biến mất thật sự, sợ phải gặp thân thể lạnh lẽo của nàng.
Thật sự không có đáp án, rốt cuộc nàng đã tiêu tan như mây khói hay vẫn đang ở nơi nào đó trên đất nước to lớn này. Như thế, dù cho phải lật tung cả đất nước này lên chàng cũng không sợ.
Chỉ cần chàng còn sống, chỉ cần nàng vẫn tồn tại, ít nhất vẫn còn có hy vọng.
Cả đời chàng chưa bao giờ phụ người, chỉ hận nhất bị người phụ.
Chàng hoài nghi sao?
Không, chàng tuyệt đối không tin là nàng bỏ chàng.
Chàng biết, cho dù chàng thật sự không chăm sóc tốt cho nàng, nàng cũng sẽ không oán giận chàng, sẽ không phụ chàng.
Dù cho tất cả người trong thiên hạ đều phụ chàng, nàng cũng sẽ không phụ chàng.