Kể từ khi giết gia đình ba người và đốt nhà, lưng tôi đau khủng khiếp. Tôi bị đau dữ dội sâu ở lưng dưới. Có lúc tôi thấy đau nhói, cảm giác như có một dòng điện chạy qua người vậy. Đau lưng giống như số phận của những người tập thể hình, tôi đã từng phải chịu đựng nó vài lần, nhưng lần này thì hơi khác một chút. Cơn đau bây giờ khó chịu hơn nhiều. Ngoài ra, trước đây nếu tôi để yên thì nó sẽ lành trong vài ngày, nhưng giờ nó không hề thuyên giảm.
Tôi chịu đựng cơn đau và tỏ ra bình tĩnh trước mặt Kumaru. Vì đó là lời hứa của tôi với Kumaru. Mặc dù gọi là lời hứa nhưng đó không phải là lời hứa giữa hai người, đó là quyết định của chính tôi.
Dù vậy thì tôi vẫn giữ lời hứa của mình. Tôi phải mãi mãi là một người bất tử. Tôi phải có một cơ thể như ngôi đền và luôn trẻ trung. Không nên chịu thua chỉ vì bị đau lưng.
Tôi trở về cuộc sống của mình như thường lệ. Tuy nhiên, việc ngồi khoanh chân trước bàn bếp thật khó để ăn. Tôi ngồi xuống chậm nhất có thể, giữ lưng thẳng và giơ đũa ra mà không khom lưng. Tôi cẩn thận với mọi cử động để tránh gây căng thẳng cho lưng dưới.
Ngay cả khi thay đổi tư thế từng chút một và ngồi vào bồn cầu, tôi cũng không thể rặn. Khi hóp bụng vào, có cảm giác như bị dao đâm xuyên qua nên tôi đợi phân rơi ra ngoài một cách tự nhiên.
Chỉ những lúc như thế này Kumaru mới đối xử rất tử tế với tôi. Nó xảy ra vừa đúng kỳ kinh nguyệt của nàng.
Vào ban đêm khi đến chuyện chăn gối, tôi đã cố che giấu bằng cách để Kumaru lên trên, nhưng tôi không thể lên đỉnh nổi. Kumaru đòi lần thứ hai. Hết lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Tất nhiên là tôi đã đồng ý. Vì đó là lời hứa với Kumaru mà.
Việc không thể đến phòng tập còn tồi tệ hơn là phải chịu đựng cơn đau. Cảm giác như cơ bắp ngày một yếu đi vậy. Tôi đã cố gắng duy trì cơ bắp bằng cách hấp thụ nhiều protein hơn bình thường nhưng vẫn không thể rũ bỏ được nỗi lo lắng. Cơ thể của tôi là tác phẩm duy nhất của tôi. Tôi chưa bao giờ tạo nên thứ gì khác kể từ khi còn là đứa con nít. Thậm chí tôi chưa bao giờ hát một bài hát nào. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn thấy chính mình, tác phẩm duy nhất mà tôi đã dày công trau chuốt, trở nên xấu đi.
Chính sức mạnh của mặt trăng đã cứu tôi. Từ ngày cảm thấy lưng dưới không ổn, tôi tiếp tục chữa trị lén lút mà không cho Kumaru biết. Tôi đặt viên đá mặt trăng trong tủ âm tường lên hông và thiền trong khi nằm xuống, tôi tưởng tượng ánh trăng tràn ngập cơ thể mình. Ban đầu chẳng có tác dụng gì nhưng khi tôi kiên trì thì cơn đau cũng dần giảm bớt.
Trong vòng mười ngày, tôi hồi phục đến mức không cần phải gồng mình chịu đau nữa, mặc dù bệnh vẫn chưa khỏi hẳn. Có hai việc mà tôi phải làm. Đó là “yêu” Kumaru mãnh liệt hơn bình thường để bù đắp cho mười ngày quan hệ tình dục thụ động, và đến phòng gym. Tôi đã khiến Kumaru xuất tinh năm, sáu hay bảy lần gì đó, rồi dành nửa ngày ở phòng gym để rèn luyện toàn bộ cơ thể. Sau khi tập luyện, tôi nhét chuối và protein mang theo vào dạ dày, không quên tiêm một mũi steroid vào mông.
Tôi ghé qua bệnh viện trên đường từ phòng gym về nhà.
Không phải để điều trị lưng dưới đâu nhé. Tôi thường xuyên đến bệnh viện nhưng mục đích chính là để tiêm hormone tăng trưởng. Tôi cũng nhận steroid và insulin để điều trị bệnh tiểu đường tại cùng một bệnh viện đó.
Bệnh viện nằm trong khu dân cư cách phòng tập không xa nên chẳng phải lo lắng gì. Đã mười, mười lăm, hai mươi năm kể từ khi tôi bắt đầu đến bệnh viện đó. Trong thời gian ấy, tôi liên tục dùng steroid và hormone tăng trưởng. Giống như steroid, hormone tăng trưởng cũng rất cần thiết cho việc duy trì và phát triển cơ bắp, đặc biệt là với một người cao tuổi như tôi.
Bằng cách bổ sung các hormone bị mất theo tuổi tác, ta có thể hy vọng cải thiện không chỉ sự phát triển cơ bắp mà còn cả khả năng miễn dịch, khả năng tình dục, chức năng tim phổi,...
Tôi dừng lại trước cửa bệnh viện. Dòng chữ “Phòng Khám Matsumura”
đang bắt đầu phai mờ đi trong bảng tên khảm nằm trên bức tường đá hoa cương. Trong vườn cỏ mọc um tùm có một cái cây trông như loài cây cọ mà tôi không biết tên, lá rụng bao năm chất đầy thành đống như mái tranh trên nóc ngôi nhà một tầng.
Bệnh viện này tối tăm như vậy là do nó đã ngừng khám chữa bệnh từ nhiều năm trước, và cũng vì tôi biết quá khứ của Matsumura nữa. Matsumura đóng cửa bệnh viện ngay sau khi mất vợ. Bây giờ ông ta chỉ mở bệnh viện dành cho tôi mà thôi.
Khi tôi bấm chuông, Matsumura mở ổ khóa vít và lén nhìn ra ngoài từ phía sau cánh cửa trượt bằng kính mờ.
Xin mời sensei, ông ta chào đón tôi.
Matsumura gọi tôi là sensei. Sau khi tôi giết vợ của Matsumura, ông ta gọi tôi là sensei.
Matsumura lớn tuổi hơn tôi. Lần đầu tiên tôi gặp ông ta là khi đi cùng vợ mình, khi ấy ông vẫn còn chút tàn dư của tuổi trẻ, nhưng bây giờ đã là một ông già đẹp mã. Có nhiều kiểu người già, nhưng trong trường hợp của Matsumura, vẻ ngoài của ông ta rất lịch lãm. Shinohara cũng vậy. Người đại diện của tôi - Shinohara và bác sĩ riêng của tôi - Matsumura, đều là những người rất thanh lịch. Về khoản đó thì họ vượt xa tôi.
Sensei cảm thấy thế nào? Tình trạng cơ thể sao rồi ạ?
Matsumura hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế tròn trong phòng khám.
À, không vấn đề gì. Tôi không đề cập đến việc đau lưng, rồi im lặng.
Ngài không quên tiêm insulin đấy chứ?
Khi được hỏi vậy, tôi đã nói dối: tất nhiên là không rồi. Tôi thường quên mất mũi tiêm đó. Ngay cả khi không nhớ mình đã tiêm hay chưa thì tôi cũng không dám tiêm. Nếu là steroid thì không cần biết là liều tiêm kép hay không. Tôi sẽ tiêm lần nữa.
Nói chung là tôi không coi mình là người mắc bệnh tiểu đường. Chẳng có triệu chứng nào đáng chú ý cả. Người ta nói nước tiểu của bệnh nhân tiểu đường có mùi ngọt nhưng nước tiểu của tôi lại khá bình thường. Nó không ngọt chút nào.
Tôi tin tưởng Matsumura như một con người, nhưng chẳng rõ tay nghề bác sĩ của ông ta như thế nào nữa. Kể từ khi Matsumura trở thành bác sĩ của tôi thì ngoài việc tiêm steroid và hormone tăng trưởng, lần duy nhất ông ta chăm sóc tôi là khi tôi đánh nhau hoặc bị thương do phản kháng của một khách hàng muốn tự tử. Tôi chưa bao giờ bị bệnh. Theo yêu cầu của Matsumura, tôi đã được xét nghiệm máu và nước tiểu thường xuyên nhưng tôi luôn có sức khỏe tốt. Khoảng một năm trước, tôi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường. Nhất định đó là một chẩn đoán sai rồi. Không thể nào tôi lại bị bệnh được.
Chắc hẳn Matsumura cũng biết điều đó. Tôi không phải là người bình thường.
Tôi giữ im lặng về cơn đau lưng vì có lí do. Trước mặt Matsumura, tôi muốn là một siêu nhân. Tôi muốn là một người đàn ông bất tử, không dính líu gì đến đau lưng hay tiểu đường. Không, thực sự tôi phải là một siêu nhân bất tử. Đó là lý do tại sao lúc đó vợ của Matsumura lại tôn thờ tôi.
Mười, mười lăm hay hai mươi năm trước, tôi đã đến thăm bệnh viện này sau khi nhận được cuộc gọi từ Shinohara.
Bệnh viện Matsumura trước đây đã luôn được dọn dẹp kỹ lưỡng cho đến bây giờ. Mặc dù hiện tại đã bị dỡ bỏ, nhưng những bức ảnh phong cảnh mà Matsumura chụp như một sở thích vẫn được trưng bày đây đó ở hành lang. Tôi nhớ đến mùi thơm ngọt ngào của tinh dầu thay vì mùi đặc trưng của bệnh viện.
Matsumura dẫn tôi vào phòng riêng và giới thiệu tôi với vợ mình, người đang ngồi thẳng trên giường.
Bà vợ được quấn đầy băng. Phần da trần lộ ra từ dưới bộ trang phục là mặt, tay và chân, tất cả đều đã được băng bó. Đó là vết bỏng ạ, Matsumura giải thích.
Người muốn chết là vợ ông. Tuy nhiên, cô ta không thể giãi bày về cuộc sống của mình. Đó là vì chứng mất trí nhớ. Theo Matsumura, vợ ông chỉ có thể nhớ lại nếu bị bỏng. Cô ta khó khăn lắm mới duy trì nổi bằng việc đổ nước sôi lên người và đốt mình bằng gas. Nhưng đã đến giới hạn rồi. Người vợ sợ đánh mất chính mình hoàn toàn. Cô ta muốn chết trước khi điều đó xảy ra.
Xin nhờ cả vào ngài ạ. Người vợ thì thầm một cách khó khăn khi cúi đầu chào tôi.
Xin ngài hãy chấm dứt nỗi đau đớn ấy. Matsumura nói.
Tôi đến gần giường và bế lấy cơ thể mảnh mai quấn đầy băng của người phụ nữ lên.
Trong vòng tay tôi, người vợ chắp tay vái lạy tôi. Đôi mắt dưới lớp băng đang rưng rưng và mỉm cười. Tuy nhiên, ánh sáng ấy nhanh chóng mờ đi. Mây mờ che phủ ánh sáng tỉnh táo của cô.
Tôi hít một hơi thật sâu và tập trung chú ý vào bụng dưới của mình. Cơ thể tôi tràn ngập ánh trăng. Tôi hướng ý thức đến vật thể giống như quả cầu nằm sâu trong bụng dưới của tôi và ánh sáng phát ra. Chẳng bao lâu sau, tôi đổ mồ hôi và lông tơ khắp người tôi dựng đứng. Ánh trăng tích điện được truyền đến bề mặt cơ thể, và người vợ lấy lại ý thức lần nữa.
Cô ta đưa tay về phía Matsumura và thì thầm: Mình ơi.
Đáp lại, Matsumura đã gọi vợ. Hai lần liên tục ông gọi tên người phụ nữ đó. Tôi đã vặn chết người vợ.
Kể từ đó, Matsumura trở thành bác sĩ của tôi, gọi tôi là sensei.
Sensei à, steroid đang bị tiêu hao quá nhanh. Matsumura nói sau cuộc chẩn đoán.
Chúng ta cần thực hiện một chu kì thích hợp hơn.
“Đừng lo. Tôi hiểu rõ cơ thể mình nhất mà.”
Đây là một cuộc trao đổi thường xuyên.
Matsumura chú ý đến cơ thể của tôi. Ông lo lắng việc lạm dụng steroid sẽ gây ra nhiều tác dụng phụ khác nhau.
Lúc đầu, tôi làm theo hướng dẫn của Matsumura và thiết lập một chu kì. Không có gì khó khăn cả. Nếu sử dụng steroid trong một tháng thì hãy nghỉ một tháng. Tất cả chỉ có vậy. Tuy nhiên, cho dù tôi có chú ý đến chế độ ăn uống đến mức nào và tăng cường tập luyện trong thời gian ngừng dùng thuốc, thì cuối cùng cơ bắp của tôi vẫn bị mất đi. Vì thế tôi đã dừng nghỉ ngơi từ nhiều năm trước và tiếp tục tiêm steroid.
Sensei, đó là... nhỉ? Matsumura nói, im lặng một cách bất thường.
Tôi vừa có kết quả xét nghiệm máu và nước tiểu lần trước, nhưng có một điều tôi hơi lo ngại.
Matsumura đang nhìn chằm chằm vào dữ liệu trên máy tính. Tôi không biết những con số đó có ý nghĩa gì.
“Cái gì vậy? Nói rõ ra xem nào.” Tôi đứng dậy khỏi ghế và nhìn xuống Matsumura. Tôi không có ý đe dọa ông ta, mà phần lưng dưới của tôi bị đau. “Ý ông là bệnh tiểu đường của tôi xấu hơn rồi à?”
Không ạ, bệnh tiểu đường đã ổn định.
“Vậy là chuyện gì? Nói tôi xem nào.”
Tôi chưa thể nói được gì ở giai đoạn này cả.
Không hề có sự sợ hãi trong mắt Matsumura khi ông ta ngước lên nhìn tôi. Chỉ có lòng kính trọng và sự quan tâm.
Tôi sẽ viết thư giới thiệu cho ngài nên là hãy kiểm tra kỹ lưỡng tại bệnh viện lớn hơn.
“Làm những gì ông thường làm đi,” tôi ra lệnh cho Matsumura. “Steroid và hormone tăng trưởng.”
Cuối cùng, tôi đã có thứ mình muốn và rời khỏi bệnh viện. Matsumura tiêm hormone tăng trưởng vào bên hông tôi, cho tôi dùng steroid và một ít insulin trong một tháng. Đổi lại, tôi hứa nhất định sẽ sớm đến bệnh viện mà Matsumura giới thiệu. Đó là điều kiện của Matsumura.
Trên đường về nhà, tôi vẫn nghi ngờ tay nghề bác sĩ của Matsumura. Chẳng phải đó là bằng chứng cho thấy bệnh tiểu đường đang được chữa khỏi rồi sao? Mà kệ, ông ta đã nói là ổn định rồi, chắc chắn là đang thực sự hồi phục. Không, không có cách nào khỏi được mặc dù tôi hiếm khi tiêm insulin. Nói cách khác, đó là một chẩn đoán sai. Như vậy, việc hiện tại có gì đó bất thường được phát hiện trong người tôi lần này là không đáng tin cậy.
Matsumura chết tiệt, lão ta chẳng làm gì được cả.
Khi tôi vừa đi vừa suy nghĩ như vậy, tôi thấy Kumaru đang đợi trước nhà. Kumaru nhìn thấy tôi và vẫy bằng cả hai tay, mỉm cười rạng rỡ. Thật lạ kì khi Kumaru thường đang nấu ăn vào giờ này, lại đợi tôi ở bên ngoài.
Tôi hỏi có chuyện gì thì Kumaru kéo tay áo bảo tôi nhanh chóng vào cửa hàng.
Anh không nhận ra điều gì à?
Nàng nói vậy nên tôi nhìn quanh cửa hàng. Tôi nhận ra ngay lập tức.
Hóa thạch khủng long đã biến mất. Bộ hóa thạch nhấp nhô như cơn lốc nhỏ ở góc cửa hàng đã không còn thấy nữa.
Em bán nó rồi, Kumaru giải thích. Đó là lý do tại sao Kumaru rất phấn khích. Kumaru là một người không hiểu ngôn ngữ, nay đã đến cửa hàng khi tôi đi vắng và rất vui sướng vì lần đầu tiên thấy mình có ích.
Anh làm sao thế?
Khi tôi vẫn im lặng, Kumaru nhìn vào mặt tôi với vẻ lo lắng. Em đã làm gì sai sao?
Không phải vậy đâu, em làm tốt lắm. Tôi vỗ nhẹ vào đầu Kumaru. Nhưng từ giờ trở đi thì nhớ hỏi anh trước. Đừng bán hàng tùy tiện như thế.
Ừm, em hiểu rồi. Kumaru gật đầu, tôi liền hỏi nàng đã bán hóa thạch cho ai và khi nào.
Em bán cho hai người đàn ông đi cùng nhau. Vừa mới xong thôi.
Nghe lời Kumaru, tôi chạy ra khỏi cửa hàng.
Tôi đã biết chút ít về họ rồi.
Cách đây không lâu, có một người đàn ông mắt kém, đi xăng đan bước vào cửa hàng và tỏ ra thích thú với bộ hóa thạch khủng long.
Tôi hiểu ra ngay lập tức. Tên này dự định mua hóa thạch rồi bán lại. Đó chính là công việc của hắn. Tôi tiễn hắn ra khỏi cửa hàng mà không nói một lời khi hắn hỏi giá. Nhưng vài ngày sau, hắn và đồng bọn đến đây bằng xe tải, tên đó đập vào một phong bì màu nâu đựng đầy tờ 10.000 yên trước mặt tôi.
Bán cho tôi cái này đi. Hắn nói có một nửa ý hăm dọa.
Tôi ngồi vắt chéo chân trên chiếc ghế mây, không hé răng câu nào. Khi tôi đứng dậy, đầu tôi chạm đến dưới hộp sọ của con khủng long. Một loạt khúc xương khổng lồ trải ra phía sau tôi, và đúng như Shinohara nói, chúng giống như một vầng hào quang vậy, tôi và con khủng long đã hòa làm một.
“Thứ này không phải để bán. Về đi.”
Tôi thật ngây thơ. Lúc đó tôi nghĩ bọn chúng đã bị thuyết phục. Chỉ cần tôi còn ở trong cửa hàng thì con khủng long và tôi vẫn là một, tôi tưởng chúng đã hiểu rằng dù có bỏ bao nhiêu tiền thì cũng vô nghĩa. Nhưng tôi đã quá ngây thơ. Chúng là những kẻ hèn nhát đã lợi dụng lúc tôi vắng mặt để lừa Kumaru.
Tôi lao ra khỏi cửa hàng mà không biết phải tìm chúng ở đâu. Tôi bối rối một lúc và trông cậy vào vầng trăng. Trăng lưỡi liềm vào buổi trưa đã cho tôi biết. Cây cung trăng lưỡi liềm chắc chắn nhắm đang vào thủ phạm.
Sau khi chạy khoảng mười phút, tôi đã đến được đường lớn. Trong khi chuông báo động của thanh chắn tàu đang reo, tôi phát hiện ra một chiếc xe tải nhỏ trông quen thuộc đang đứng giữa lúc tắc đường. Tôi tăng tốc hơn nữa, chạy hết tốc lực.
Thùng xe tải được phủ một tấm bạt màu xanh lam, nhưng có thể nhìn thấy một hộp sọ khủng long đang lấp ló qua khe hở. Thanh chắn tàu nâng lên và ô tô bắt đầu lưu thông. Chiếc xe tải vượt qua đường sắt và thanh chắn lại hạ xuống trước mặt tôi. Tôi chỉ cần nhảy qua thanh và tiếp tục chạy. Chân tôi chợt vướng vào giữa đường ray. Tôi cảm thấy như mình sắp ngã. Khi lấy lại được thăng bằng, gió từ đoàn tàu chạy qua thổi vào lưng tôi.
Tôi đưa tay về phía thùng xe tải. Sau đó khoảng cách lại gia tăng một chút. Tôi nghĩ giá như ngón tay mình có thể chạm được vào nó. Chỉ cần đặt ngón tay lên nó, tôi sẽ dùng sức mạnh của mình để ngăn chặn nó. Nhưng chỉ đến vậy thôi. Dường như chiếc xe tải để ý thấy tôi và đột nhiên tăng tốc. Khuôn mặt của con khủng long lùi lại. Hốc mắt khủng long nhìn tôi qua khe hở tấm bạt và chào tôi. Nó gửi cho tôi lời chào tạm biệt. Tôi không còn nhìn thấy nó nữa.
Tôi sẽ tìm hiểu sau. Đối với tôi, việc chia tay con khủng long có ý nghĩa nhiều hơn là việc mất đi một con vật cưng yêu quý. Đó là điềm báo trước về sự xuất hiện của người đàn ông đó.
Khi trăng lưỡi liềm sắp trở thành trăng tròn, tôi nhận được cuộc gọi từ Shinohara. Gã nói: Có tin thiên thạch vừa rơi xuống nên ngài có muốn đi tìm không. Địa điểm là sa mạc Izu Oshima.
Ngày hôm sau, Shinohara đến đón tôi bằng ô tô. Khi đi tìm thiên thạch, tôi ngồi trên xe của Shinohara. Nơi đó quá xa để mà chạy bộ. Vì Shinohara sẽ lo liệu chuẩn bị nên sẽ phải rất lịch sự nếu đi cùng gã.
Tôi đã tìm kiếm thiên thạch nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi đến Izu Oshima. Phải mất hai tiếng đi phà cao tốc từ bến tàu Takeshiba. Thông thường, chúng tôi khám phá những địa điểm mà ai đó đã tìm thấy thiên thạch trong quá khứ. Có thể vẫn còn vài mảnh vụn bị rớt ra trong quá trình rơi xuống. Dường như có một số cách thức trao đổi thông tin như vậy giữa những người đam mê thiên thạch. Tuy nhiên, lần này là ngay sau khi thiên thạch rơi xuống, địa điểm lại nằm trong sa mạc nữa, rất lý tưởng cho việc săn lùng nên không thể hy vọng vào điều kiện tốt hơn được.
Tôi không nhớ mình bắt đầu tìm kiếm thiên thạch như thế nào, nhưng khi gặp Shinohara lần đầu, tôi đã tỏ ra hứng thú khác thường với thiên thạch của mặt trăng, nên có lẽ gã đã sắp xếp cho tôi. Shinohara cho biết gã bắt đầu thu thập thiên thạch từ khi còn là sinh viên.
Trong chuyến đi săn đầu tiên, tôi phát hiện ra một thiên thạch mặt trăng.
Tôi nhớ rằng Shinohara là người thường bình tĩnh, đã vô cùng phấn khích vào thời điểm đó.
Thật là một phép lạ! Gã hét to rồi nắm chặt lấy tay tôi.
Rốt cuộc thì ngài không hề bình thường chút nào, ngài đang có thứ gì đó.
Shinohara khen ngợi tôi khi tôi giơ viên đá mặt trăng về phía vầng trăng trên bầu trời. Theo Shinohara, đá mặt trăng cực kỳ có giá trị trong số các thiên thạch.
Chỉ có khoảng hơn chục mảnh được tìm thấy trên thế giới, đây có thể là lần đầu tiên nó được phát hiện ở Nhật Bản. Đá mặt trăng mà Shinohara tặng tôi khi chúng tôi gặp nhau lần đầu không phải là thứ gã tự tìm thấy, gã đã mua từ phiên đấu giá của một người bán không biết giá trị của nó.
Nếu bán đi ngài sẽ kiếm được bộn tiền đấy, Shinohara nói xong liền cúi đầu xin lỗi.
Cách tôi âu yếm vuốt ve viên đá mặt trăng một lần nữa nhắc nhở tôi về sự si mê của mình.
Nhưng đó là kiểu may mắn vốn có của một kẻ mới bắt đầu. Kể từ đó, chúng tôi đã ra ngoài tìm kiếm thiên thạch nhiều lần nhưng không tìm thấy thêm mảnh đá mặt trăng nào. Thay vào đó, tôi nhặt được khá nhiều thiên thạch từ các ngôi sao khác. Hầu hết chúng đều có màu đen, kết cấu thô và giống thiên thạch hơn là đá mặt trăng thông thường. Đúng là có vài loại thiên thạch hào nhoáng thu hút những kẻ nghiệp dư, chẳng hạn như những mảnh đá tỏa sáng lung linh màu xanh hay vàng kim, chúng là sản phẩm của cửa hàng tôi và thi thoảng được khách hàng tò mò mua. Nhưng làm sao lừa nổi đôi mắt của tôi chứ. Chỉ có đá mặt trăng mới nắm giữ sự thần bí chân thực.
Trên chuyến phà tới Izu Oshima, Shinohara đã chỉ tôi cách gọi tên thiên thạch. Những mảnh thiên thạch nổi tiếng đều có tên.
Theo Shinohara, tên các thiên thạch được đặt theo tên của bưu điện phụ trách việc thu gom và giao hàng tại địa điểm chúng rơi xuống. Ví dụ, một thiên thạch từng rơi xuống một ngôi nhà riêng ở tỉnh Shimane năm 1992 được gọi là thiên thạch Mihonoseki, vì nó nằm trong khu vực thu gom và giao hàng của bưu điện Mihonoseki.
Ngài có biết tại sao không?
Khi Shinohara hỏi vậy, tôi đã suy nghĩ một lúc nhưng rồi lắc đầu và nói rằng mình không biết.
Thông thường, cái tên sẽ được đặt theo tên người phát hiện ra nó, nhưng nếu vậy thì có thể sẽ xảy ra tranh chấp xem ai là người phát hiện trước. Hơn nữa, bất kể nơi nào trên thế giới cũng sẽ đều có một bưu điện phục vụ khu vực đó với tư cách là khu bưu chính. Kể cả ở giữa một sa mạc hoặc rừng rậm rộng lớn.
Thì ra là thế, thật là ấn tượng. Tôi rất ấn tượng với hiểu biết của Shinohara, và cả bưu điện nữa. Nếu có một khu bưu chính tồn tại thì dù ở trong rừng rậm hay Bắc Cực, thư sẽ luôn được chuyển đến. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó trước đây, nhưng bưu tá lẽ là một công việc khó khăn hơn tôi tưởng.
“Quả đúng là cậu.” Tôi nói với Shinohara. “Tôi vừa mới học thêm vài điều đấy.”
Tôi đã đề cập đến nó trước đây chưa nhỉ? Tôi rất mềm lòng đối với những người đã dạy tôi. Tôi nhìn Shinohara với sự khâm phục.
Khi đến Izu Oshima, chúng tôi thuê một chiếc ô tô và tiến vào sa mạc.
Đây là lần thứ hai tôi đến thăm sa mạc. Lần đầu tiên là ở đồi cát Tottori khi đi săn thiên thạch cùng Shinohara, nhưng nơi đó thật nhàm chán. Trước tiên là nó không đủ rộng rãi. Nó giống một bãi cát hơn là sa mạc. Có những con lạc đà được đặt quanh khu vực dành cho khách tham quan, còn có cả người làm thuê nhổ cỏ để ngăn cỏ mọc, điều này chỉ khiến tôi cảm thấy khó chịu hơn.
Để mà so sánh thì sa mạc Izu Oshima là có thật. Ngay khi bắt đầu đi bộ từ bãi đậu xe, đường nhựa đã trở thành một con đường gồ ghề, vùng đất hoang biến thành chốn sa mạc chẳng có nổi một cái cây.
Ở đó giống như là thế giới mặt trăng vậy.
Trong giây lát, tôi tự hỏi liệu mình đã chết chưa. Trước khi biết điều đó thì tôi đã mất mạng, linh hồn của tôi cuối cùng đã được đưa lên mặt trăng.
Khung cảnh trước mắt tôi thiếu đi cảm giác chân thực. Nhìn xa tầm mắt thì chỉ có bãi cát trải dài theo những gợn sóng nhẹ nhàng. Không gian rộng rãi mịn màng như một tấm thảm khổng lồ. Trăng lưỡi liềm với đa dạng kích cỡ dường như rơi xuống bề mặt là do phần tối của trăng lưỡi liềm tích tụ trong các vùng cát trũng. Màu bạc sáng rực rỡ. Trong ánh nắng mùa hè, sa mạc chuyển sang màu bạc, càng xa thì càng trở nên vàng kim hơn.
Núi Mihara đang nhìn xuống tôi và Shinohara.
Shinohara nói rằng ngọn núi đó đã tạo nên sa mạc. Núi Mihara trước đây đã phun trào nhiều lần, tro và đá tích tụ và biến thành sa mạc. Nhưng tôi không còn nghe nữa. Mấy câu đó thật phiền phức.
“Im đi.” Tôi ra lệnh.
Chúng tôi ngay lập tức bắt đầu tìm kiếm bằng máy dò kim loại mang theo. Những thiên thạch có chứa kim loại nên sẽ bị máy dò kim loại phát hiện. Một thiết bị dạng vòng được đặt trên mặt đất, khi âm thanh dò tìm phát ra, tôi sẽ dùng xẻng đào cát để tìm kiếm thiên thạch. Trình tự là như vậy.
Tôi đã tìm kiếm trong hai, ba tiếng nhưng chẳng có phản hồi nào. Đôi lúc thật sốc khi thấy những tảng đá màu đen bị chôn vùi một nửa trong cát, nhưng xem gần hơn thì nhận ra đó chỉ là dung nham. Đá mặt trăng và dung nham rất giống nhau.
Sa mạc nóng khủng khiếp, nó tập trung ánh sáng lại như một thấu kính lõm. Tôi thoa kem chống nắng biết bao lần và uống rất nhiều nước từ trong bình nước. Tôi đổ luôn lên đầu mình.
Shinohara đang cười toe toét vào bộ dạng của tôi. Rõ ràng thật nực cười khi tôi lại lo lắng về việc bị cháy nắng. Tôi cố kìm nén sự bất mãn và thoa kem lên mặt Shinohara.
Đúng là tên ngốc, muốn trở thành một lão già đầy vết nám sao? Tôi tự nhủ.
Cơn đói ập đến và chúng tôi ăn trưa rất muộn. Tôi ngồi đối diện với Shinohara và khoanh chân trên cát. Tôi lấy hộp cơm mà Kumaru đã làm từ trong ba lô ra. Nó bao gồm ba cục cơm nắm được bọc kín bằng rong biển, và đầy ắp gà rán.
Shinohara mang theo bánh sandwich. Nói mới nhớ, gã này đã lấy vợ chưa nhỉ? Tôi định hỏi nhưng lại thôi. Chuyện đó đâu có quan trọng.
Không có gì trong cơm nắm, nhưng không thành vấn đề. Chúng được nêm nếm vừa ăn.
Rong biển thì ngon tuyệt. Món gà rán hơi khô vì đã để lâu nhưng lại mang hương vị dân tộc mà Kumaru tâm đắc. Mùi cà ri xộc lên mũi rồi vào mắt tôi khi hòa quyện với cơm trong miệng. Rồi tôi uống trà xanh hojicha. Tôi thở một hơi dài.
Shinohara nhìn món gà rán với vẻ ghen tị nhưng tôi quyết định vờ như không biết. Tôi sẽ không đưa đồ ăn ngon cho người khác. Nó ngon là vì được ăn một mình.
Tôi sẽ không để lại một hạt cơm nào. Tôi liếm láp những hạt cơm dính trên tay, cẩn thận liếm ngón tay và lòng bàn tay của mình.
Tôi đang cực kì phấn chấn. Đồ ăn rất ngon, và khung cảnh giống như bề mặt của vầng trăng trải rộng trước mặt chúng tôi, với vầng trăng tròn giữa trưa lơ lửng trên bầu trời. Giờ thì tôi không còn bị đau lưng nữa.
Sau khi ăn xong và cảm thấy choáng váng một lúc, chúng tôi tiếp tục tìm kiếm thiên thạch. Máy dò kim loại đã phản ứng nên tôi dùng xẻng đào nhưng chẳng có gì cả. Sau đó thì có thêm một vài lần phản ứng nữa, nhưng khi đến gần “con mồi”, liên tục chỉ là những lon bia rỗng và bật lửa dùng một lần, tôi lại thất bại.
Shinohara cũng không biết chính xác vị trí va chạm của thiên thạch. Mọi thông tin đều cho thấy nó dường như đã rơi đâu đó trên sa mạc này hai ngày trước. Cần phải kiên nhẫn để tiếp tục tìm kiếm.
Dù vậy, thật kì lạ là không có ai khác ở đây ngoại trừ tôi và Shinohara. Nếu nhắc đến sa mạc Izu Oshima thì đây có lẽ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, và nếu có thiên thạch rơi xuống thì những kẻ tò mò và giới truyền thông sẽ đổ xô đến, nhưng chẳng có ma nào hết. Còn nếu nói rằng thật kỳ quặc khi đến sa mạc vào một ngày trong tuần vào giữa hè, thì cũng được thôi. Mà nếu có thiên thạch đi nữa, có lẽ nó cũng sẽ không gây chú ý trừ khi nó cực kì to lớn hoặc có thiệt hại nào đó xảy ra.
Sương mù xuất hiện vào buổi tối. Một dòng sương mù bao phủ sa mạc vàng kim. Nó gợn sóng và dần trở nên sẫm màu giống như vô số cơ thể phụ nữ đang nhảy múa.
Shinohara biến mất khỏi tầm mắt. Bàn tay đưa ra của tôi bị sương mù che khuất, không thấy rõ chút nào.
Tôi có thể nghe thấy tiếng phản ứng của máy dò, nhưng nó vang vọng trong sương mù nên khó mà đọc đúng phương hướng.
Ngoài ra, máy dò của Shinohara cũng kêu lên, tiếng nhỏ hơn lúc nãy. Shinohara dường như đang dần cách xa tôi.
Máy dò đã phản ứng nên tôi gạt đi làn sương và nhìn xuống đất, rồi lại nhìn thấy đống lon bia rỗng đã đào lên trước đó. Dường như tôi đã mất phương hướng.
“Shinohara!” Tôi hét lên nhưng không có phản hồi.
Tôi lại bắt đầu bước đi. Sương mù bay vào mắt khiến tôi thấy tê nhức.
Một lúc sau thì lại có tiếng xẻng đào cát.
“Ê, Shinohara.”
Tôi có gọi nữa thì cũng không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng cát khuấy đều đều tiếp tục vang lên.
Tôi dừng lại khi đến gần. Ngay cả khi căng cơ đùi lên thì lòng bàn chân tôi vẫn dính chặt vào mặt đất và không thể rời ra. Đôi chân tôi từ chối di chuyển, trái với ý muốn của tôi.
Đột nhiên, nhịp tim trở nên mạnh hơn. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. Đây là lần đầu tiên chuyện như thế này xảy ra. Chẳng biết chuyện gì đang xảy ra với mình nữa.
Tôi nhớ lại lời của Matsumura, và thoáng thấy khuôn mặt lo lắng của ông ta khi bảo tôi hãy kiểm tra kỹ lưỡng. Như Matsumura nói, tôi tự hỏi liệu cơ thể mình có vấn đề gì không.
Tuy nhiên, tôi sớm biết được nguyên nhân dẫn đến triệu chứng bất thường trong người. Cơ thể tôi sợ hãi theo bản năng vào thứ đang ẩn nấp sau làn sương.
Tôi dùng sức kéo toạc lòng bàn chân của mình khỏi mặt đất, lao về phía trước xuyên qua màn sương trắng đục. Tiếng đào cát ngày một gần hơn. Bước chân của tôi trở nên hấp tấp và mất thăng bằng. Tôi rẽ hai lần, rồi ba lần và trượt xuống dốc, rồi thấy mình đang ở dưới đáy một vùng trũng nơi sương mù mỏng.
Lúc đầu, người đàn ông đó trông giống như một tảng đá đen khổng lồ vậy. Hắn buông xẻng, cúi xuống nhặt mảnh thiên thạch vừa đào lên.
Khi hắn đứng dậy, sương mù xung quanh hoàn toàn biến mất, máy dò kim loại trên tay tôi bắt đầu kêu.
Choáng váng, tôi ngước lên nhìn người đàn ông đó. Đã bao giờ tôi phải ngước nhìn ai chưa? Sao mà nhớ được chứ.
Gã đàn ông cao hơn hai mét, cao hơn tôi khoảng một cái đầu. Hắn không chỉ cao lớn. Cơ thể của người đàn ông được bao phủ bởi các cơ bắp dày đặc, mỗi cơ bắp đều có những vết cắt rất đẹp trông giống như được chạm khắc bằng dao đục. Ngay cả khi gã mặc chiếc áo ba lỗ màu đen, vẫn có thể thấy rõ mạch máu và đường nét cơ bắp của gã.
Máy dò kim loại không ngừng kêu inh ỏi.
Gã đàn ông giống như một ngôi đền vậy. Thân hình lý tưởng của tôi đang ở ngay trước mặt tôi.
Trong tay hắn là một thiên thạch màu đen vừa được đào lên. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là đá mặt trăng. Nó rất giống với thứ tôi đã tìm thấy trước đây, nhưng lại lớn hơn của tôi rất nhiều. Đá của tôi có kích thước bằng nắm tay, nhưng của hắn thì to bằng đầu lâu.
Người đàn ông giơ một tay lên và nhẹ nhàng chào tôi. Tôi lẩm bẩm “Yo” chỉ bằng khẩu hình. Tôi không thể nhìn thấy biểu cảm của hắn vì cặp kính râm, nhưng khuôn mặt góc cạnh đó trông vẫn còn khá trẻ. Có lẽ đâu đó tầm ba mươi tuổi.
Khi người đàn ông quay lưng thì dòng sương mù trở lại. Gã biến mất sau màn sương mù.
Tôi đứng đó một lúc mà không thể cử động nổi. Những gì tôi vừa thấy có đúng là sự thật? Một giấc mơ hay ảo ảnh được tạo ra bởi sương mù?
Tôi nghe thấy giọng Shinohara đang gọi mình.
Chúng tôi gọi tên nhau và tìm kiếm người kia. Trong khi đó, sương mù dần dần tan đi.
Sương mù khủng khiếp thật. Lần đầu tiên tôi thấy vậy đó.
Shinohara vừa nói vừa chạy đến chỗ tôi.
“Cậu đã gặp ai đó chưa?” Tôi vác chiếc máy dò kim loại đã lặng thinh kể từ khi người đàn ông biến mất.
“Không. Có chuyện gì xảy ra ạ?”
“Không có gì đâu.”
Chúng tôi đang trên đường về nhà. Trên đường đi, chúng tôi ăn tối tại quán sushi ở Oshima. Tôi ăn không ngon miệng chút nào. Còn Shinohara thì đang thao thao bất tuyệt kiến thức của mình về lịch sử sushi. Tôi im lặng. Hắn ta có thân hình vượt trội hơn cả tôi, và tôi sẽ không nói gì về hắn.
Từng ngày một tôi luôn cố để quên đi kẻ đó. Tôi tự nhủ rằng một kẻ như thế không thể tồn tại trên thế giới này. Chẳng biết đó là giấc mơ hay ảo ảnh nữa, nhưng nhớ lại thứ không hề tồn tại cũng chẳng ích gì.
Có chuyện gì với anh vậy?
Kumaru hỏi tôi, vì tôi dường như không để tâm vào giờ ăn hay lúc đi ngủ.
Có lẽ chỉ là tưởng tượng thôi nhỉ. Ban đêm khi nhìn lên, vầng trăng ở xa hơn bình thường.
Ngay cả khi tên đó xuất hiện trước mặt tôi lần nữa, tôi vẫn không thể chấp nhận rằng hắn đang tồn tại.
Lần thứ hai chúng tôi gặp nhau là một tuần sau cuộc săn thiên thạch, khi tôi lên sân thượng một tòa cao tầng chỉ dành cho công việc giết người của mình. Tôi có nhiều chỗ làm việc khác nhau, như là những tòa nhà cao tầng, vách đá ven biển và đường mòn trên núi. Sau khi bẻ cổ đối phương, tôi ném cái xác xuống để cho giống như một vụ tự sát.
Lần này là trên sân thượng của một bệnh viện bỏ hoang ở ngoại ô. Đúng như Shinohara đã bảo, tôi đến bệnh viện vào đúng 11 giờ đêm. Tôi chiếu rọi những bước đi của mình bằng chiếc đèn pin mang theo, giẫm lên những mảnh kính, rồi leo 8 tầng cầu thang để lên tới sân thượng.
Không thấy khách hàng ở đâu cả. Một con bướm đêm bị chiếc đèn pin thu hút và rơi xuống, nó có thân hình to bằng cục pin khô và đôi cánh giống như cánh quạt. Khách hàng chắc chắn đã thay đổi quyết định vào phút cuối rồi. Chuyện này xảy ra thường xuyên mà. Shinohara đã phỏng vấn khách hàng nhiều lần và chỉ sau khi xác nhận được quyết tâm chết của họ, gã mới chuyển sang cho tôi. Tuy nhiên, những chuyện như thế này không phải là hiếm. Nếu là vậy thì không vấn đề gì. Cũng được thôi.
Khi tôi chuẩn bị rời đi thì ngửi thấy một mùi lạ. Khi kiểm tra kỹ hơn, có một vũng nước tiểu màu đen gần mép sân thượng. Tôi ra ngoài nhìn thẳng xuống bên dưới, thì thấy một thi thể bẹp dí nằm trên bồn hoa đổ nát.
Tốt thôi. Nếu khách hàng có thể tự mình chết mà không cần đợi tôi thì càng tốt.
Đột nhiên, tôi cảm thấy có ai đó đang theo dõi mình. Khi quay lại, tôi nhìn thấy người đàn ông đến từ sa mạc đó. Bóng dáng hắn ở xa xa, được chiếu sáng bởi ánh đèn đường mờ ảo, nhưng sự uy nghiêm thì không thể nhầm được.
Tôi tin chắc hắn là người đã làm điều đó. Hắn đã xử khách hàng thay cho tôi.
Giống như lần gặp nhau trên sa mạc, hắn lại nhẹ nhàng giơ tay lên chào tôi. Thế rồi hắn biến mất về phía mặt trăng.