Sáng sớm vào ngày tôi bị bà lão bắt được, tôi đã bị đưa ra xét xử.
Bà già này được mọi người gọi là “Bà Cót Két”. Đó là bởi vì bà ta luôn ồn ào như tiếng cót két vậy.
Bà là người lớn tuổi nhất trên đảo, là bác sĩ duy nhất, và cũng là một nhà thông thái được mọi người kính trọng. Bà ta còn là một người lập dị khiến ai cũng phải sợ hãi.
Chỉ có một điều tôi không hiểu. Tại sao Bà Cót Két lại không biết mẹ tôi là ai chứ?
Chắc chắn là Bà Cót Két - bác sĩ duy nhất trên đảo, đã cố gắng hủy hoại tôi bằng cách đưa nhiều dụng cụ khác nhau vào cơ thể mẹ. Tuy nhiên, trước sự phản kháng quyết liệt của tôi, Bà Cót Két đã không thể phá thai được. Vì thế khi tìm thấy tôi, lẽ ra bà ta phải biết mẹ tôi ở đâu nhưng không hiểu sao bà ta lại không rõ. Có một số điều cần phải suy nghĩ.
Đầu tiên, Bà Cót Két đã rút ra thứ gì đó từ bên trong mẹ tôi, không phải tôi, rồi nghĩ rằng mình đã phá thai thành công. Chà, chẳng biết cái gì đã được lôi ra ngoài nữa.
Ngoài ra, có thể bà ta đã từ bỏ việc phá thai và giao lại việc đó cho mẹ. Nói cách khác, mụ ra lệnh cho mẹ sinh tôi ra trong nhà xí để dìm chết tôi. Đàn bà trên đảo lúc nào cũng mang thai như lũ chuột vậy, việc xử lí trong hố xí không phải là chuyện hiếm.
Mà tôi nghĩ đây là khả năng dễ xảy ra nhất, có thể đơn giản là do Bà Cót Két đã già. Chắc chắn bà ta đã quên sạch mọi thứ rồi.
Tất cả gái điếm đều tham gia phiên tòa do Bà Cót Két xét xử.
Trước khi tên Ma Cô và những tay sai trẻ trâu của hắn còn chưa thức dậy, Bà Cót Két đã đến tận phòng của từng cô gái và gọi họ đến buổi họp trong khu rừng. Những người phụ nữ mắt ngái ngủ thậm chí còn không kịp vệ sinh thân thể. Một cô ả qua đêm cùng khách phải lẻn ra khỏi giường và đi đến một khoảng trống giữa những tán cây mà khách hàng không hề hay biết.
Bà Cót Két bế tôi lên bằng cả hai tay như đang tìm kiếm chủ nhân của món đồ bị thất lạc, bà hỏi đám gái điếm rằng ai đã sinh ra đứa trẻ này. Không ai trả lời, Bà Cót Két bắt đầu the thé giọng lên:
Chúng mày đã quên hết luật lệ của đảo rồi à? Nếu bị chủ nhân bắt thì sao? Nếu cứ tiếp tục như thế này, chúng mày sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới đến nhau. Tất cả bọn mày sẽ phải chịu tai họa khủng khiếp. Chúng mày chẳng khác nào động vật cả, đẻ con mà cứ như là chó ỉa ra cứt vậy. Chúng mày quên hết chuyện quá khứ rồi à? Đứa nào sinh con cũng đều bị giết sạch, tất nhiên những đứa trẻ cũng bị xử luôn, thân xác con gái sẽ bị nguyền rủa. Đã có con ả nào đó đẻ con bằng cách trộn tinh dịch đàn ông cùng với máu và phân giấu trong bụng rồi. Nếu bây giờ đứa nào thú nhận là mẹ thì bước ra, tao sẽ để ả đó trốn thoát cùng đứa trẻ này. Nếu không, tao sẽ giết quách nó rồi đem chôn luôn.
Tuy nhiên, không có ai bước đến. Mẹ của tôi lại cố giết tôi lần nữa.
Người đã đứng ra cứu tôi chính là những cô gái điếm đã bế tôi khi đến thăm tôi trong tủ tường.
Những cô gái điếm đã cầu xin mạng sống cho tôi, và khi việc đó không có kết quả, họ đe dọa Bà Cót Két. Thậm chí bây giờ có giết đứa bé này, thì việc không báo cho chủ nhân ngay khi tìm thấy đứa bé vẫn là phạm tội mà? Chúng tôi sẽ không im lặng đâu, chúng tôi nhất định sẽ báo cho chủ nhân.
Sau khi nghe điều đó, Bà Cót Két đã thay đổi quyết định. Giọng điệu của bà ta đột nhiên trở nên bình tĩnh hơn, bà đề xuất một cuộc bỏ phiếu theo đa số để quyết định xem nên giữ lại hay loại bỏ tính mạng của tôi.
Kết quả “giữ lại” thắng áp đảo và tôi đã được cứu, nhưng nó không giải quyết được vấn đề. Tôi không thể lẩn trốn gã Ma Cô và bọn tay sai trên hòn đảo chật chội này mãi được.
Đó là lúc Bà Cót Két vận dụng hết trí tuệ của mình. Thỏa thuận với chủ nhân là không được sinh con.
Không có người phụ nữ nào trên hòn đảo này sinh ra tôi, tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi dạt vào biển và có người nhặt được, đó chính là cái cớ mà bà ta nghĩ ra.
Trong vài ngày tiếp theo, những người phụ nữ vào rừng về đêm và chăm chỉ đóng mộc. Họ đóng một chiếc thuyền giả để chở tôi từ biển đến đảo.
Chiếc thuyền nhỏ hình cái nôi bằng gỗ cũ kĩ hết mức và được đóng khá chắc, nhưng gã Ma Cô lườm chiếc thuyền với vẻ nghi ngờ rồi nhìn tôi.
Lần đầu tiên nhìn thấy tên Ma Cô, trông hắn giống như một loại sinh vật kỳ lạ nào đó chẳng giống người chút nào. Có lẽ vì hắn là người đàn ông đầu tiên tôi gặp sau khi tôi ra đời, hơn là vì vẻ ngoài của hắn. Bây giờ nghĩ lại, hình dáng của một gã đàn ông lớn tuổi nhỏ nhắn, hói đầu với những hình xăm trên làn da chảy xệ dường như chẳng có gì là bất thường.
Nơi này không cần trẻ con.
Trước mặt năm mươi hay một trăm gái điếm, gã Ma Cô lẩm bẩm một mình trông như đang niệm kinh vậy.
Khách hàng đến hòn đảo này vì muốn quên đi cuộc sống thường ngày, nhiều người nhìn vào đứa trẻ và sẽ nhớ đến khuôn mặt của vợ và gia đình, nếu điều đó xảy ra, khách hàng sẽ trở nên căng thẳng và thắt chặt hầu bao. Hòn đảo này phải là thiên đường, mà trên thiên đường thì không có bọn nít ranh nào hết, chỉ có tiên nữ mà thôi.
Nhưng những cô gái không chịu khuất phục. Năm chục, một trăm gái điếm vây quanh tên ma cô và cầu xin tha mạng cho tôi một cách xúc động. Gã Ma Cô không hề kiêu ngạo hay bướng bỉnh đến mức phớt lờ đám đàn bà. Hắn biết rằng hắn sẽ không thể tiếp tục làm chủ nếu đám phụ nữ ghét mình. Tuy nhiên, hắn không tốt bụng hay thiếu quyết đoán đến mức chỉ nghe theo yêu cầu của họ. Ma cô không thể để mình bị đám phụ nữ xem thường.
Đứa bé này có thực sự bị bỏ rơi và dạt vào biển không? Mẹ nó không có ở đây sao? Ma Cô vừa nói vừa nhìn quanh các cô gái và tuyên bố sẽ tiến hành một thử nghiệm để chứng minh điều này. Nói cách khác, hắn đang nói rằng hắn sẽ ném tôi xuống biển một lần nữa. Nếu có thể quay trở lại đảo mà không bị cuốn trôi, hắn sẽ tin lời đám phụ nữ và chào đón tôi như một công dân của đảo.
Không ai phản đối đề xuất hợp lý này. Nếu còn chống đối thêm nữa, họ có thể phải hứng chịu cơn thịnh nộ của gã Ma Cô.
Tôi được một tên trai trẻ lái chiếc thuyền lớn và ra khơi. Gã Ma Cô, Bà Cót Két và một số phụ nữ cũng đi theo. Những người phụ nữ đang khóc.
Họ vừa khóc, vừa ôm tôi và liếm mặt tôi, nói lời xin lỗi, mong tôi sẽ quay lại, tôi là con của thần linh hay muốn thế chỗ cho tôi.
Chiếc thuyền lớn cuối cùng cũng dừng lại khi hòn đảo đã khuất tầm mắt, những người phụ nữ đưa tôi lên một chiếc xuồng nhỏ giống như cái nôi. Mấy đứa đàn em buộc vòng ở đầu hai sợi dây rồi luồn vào xuồng. Khi chiếc xuồng con hạ xuống mặt biển, sợi dây được kéo lên nhanh chóng.
Thuyền lớn cùng với những người phụ nữ đang thổn thức ở trên nhanh chóng biến mất về phía chân trời. Tôi đã sinh ra trong hố xí, và bây giờ tôi đã bị ném xuống biển.
Chiếc xuồng đang trôi theo hướng ngược lại với hòn đảo, tôi mất phương hướng khi phải nhìn quanh đường chân trời 360 độ. Lúc đầu, nước bắt đầu rỉ vào đáy xuồng từng chút một.
Nhưng vận may đã đến với tôi. Trước hết, biển không nóng cũng không lạnh, vì vậy tôi đã biết cách bơi. Dường như tôi khó có thể mà bị giết bởi các mùa, tôi cũng không hề sợ nước vì đã biết bơi từ việc né tránh những thiết bị liên tục cố gắng lôi tôi ra khỏi bọc nước ối của mẹ.
Ngoài ra còn một điều may mắn nhất, đó là có một vầng trăng màu trắng tựa như một miếng oblaat [note54999]lơ lửng trên khoảng trời trong veo. Tôi nhảy tõm xuống biển rồi bám vào mép thuyền, tin vào trăng và bắt đầu bơi về phía trăng.
Khi đang bơi, tôi nghĩ đến ánh sáng lấp lánh của con dao không vỏ mà tên Ma Cô đã giắt vào cạp quần hắn.
Sau đó tôi phát hiện ra rằng, xưa kia gã Ma Cô từng đến hòn đảo này để làm khách. Hắn nói rằng hồi trước mình từng là một ngư dân có tay nghề.
Gã Ma Cô có được vị trí hiện tại là do lão ma cô tiền nhiệm của hắn đối xử tàn nhẫn với đám phụ nữ, và rồi hắn đã đứng lên bảo vệ họ. Với sự giúp sức của những ngư dân đồng hương, hắn đã thách đấu với bè lũ của lão chủ tiền nhiệm. Tôi không biết cuộc chiến đó kéo dài bao lâu, nhưng cuối cùng gã Ma Cô đã mổ bụng lão chủ tiền nhiệm và moi hết nội tạng lão ra. Nghe nói đó là một chiêu thức sống động giống như moi ruột cá ra vậy.
Nhưng chẳng còn cách nào khác, gã Ma Cô đã xem nhẹ tôi quá rồi. Nếu muốn giết tôi, đáng ra hắn phải rạch móc nội tạng tôi ra thay vì chỉ ném tôi xuống biển.
Như đã nói trước đây, các múi cơ đã thức dậy khi tôi đang lủng lẳng trên hốc hố xí và trèo lên dây rốn. Nếu đó là sự thức tỉnh đầu tiên, thì việc bơi trong đại dương đã khiến cơ bắp của tôi bắt đầu phát triển hơn nữa, gọi là lần thức tỉnh thứ hai cũng được.
Hai, ba, bốn ngày sau đó, tôi đã tới hòn đảo.Tôi được cứu bởi những người phụ nữ đang chờ đợi trên bờ biển với niềm tin vào một phép màu. Đúng như dự đoán, tôi đang ở trong tình trạng sống dở chết dở. Vì phải uống nước biển khi bụng đói, nên các cơ quan nội tạng của tôi sắp ngừng hoạt động. Nhưng nhờ sự chăm sóc ân cần của những người phụ nữ và sức mạnh thể chất hơn người thường, không mất quá nhiều thời gian để tôi hồi phục.
Tên Ma Cô có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi trở về từ biển, nhưng hắn chẳng thèm quan tâm gì nữa và chấp nhận tôi là công dân đảo như đã hứa. Bây giờ tôi đã có nhà mới, không còn phải chui rúc vào tủ tường trong nhà kho. Đối với tên Ma Cô, chắc hẳn gã đã hết cách nên đành phải đưa đồ chơi cho đám gái điếm đang ăn vạ vòi vĩnh.
Đó là một lán trại xiêu vẹo được dựng ở lưng chừng núi, khá xa so với khu nhà tập thể nơi gái điếm sinh sống. Ma Cô đã chọn địa điểm đó để tránh xa tầm mắt của những vị khách đến đảo.
Ngay trước lán trại là đồng cỏ dành cho dê núi. Mười, hai mươi hay ba mươi con dê nhàn nhã gặm cỏ trong chuồng hình elip, chúng tỏa ra mùi động vật quyến rũ trong khi dẫm nát phân của chính mình.
Nhiều cô gái đã đến gặp tôi, thay phiên nhau sáng, trưa và tối.
Họ chăm sóc tôi bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như mang đồ ăn cho tôi, tắm rửa hay cắt tóc cho tôi.
Tất cả phụ nữ đều gọi tôi bằng những cái tên tùy ý.
Taro có muốn ăn thêm cơm nữa không?
Shouichi lớn nhanh quá.
Ryota, chắc chắn con sẽ trở thành một nam nhi tốt.
Chuyện là vậy đó. Tôi là Taro, Shouichi, Ryota, Happei, Genichiro, Kintaro và nhiều người khác.
Công việc mà tôi được giao cho là vắt sữa dê.
Loài dê đã sống trên hòn đảo từ trước nhưng người dân trên đảo đã thuần hóa chúng làm vật nuôi. Vì hòn đảo này quá nhỏ nên ban đầu lũ dê được thả tự do đi lang thang, nhưng vào một năm nọ, có vài con dê đã nhảy ra khỏi bến cảng để tự sát nên họ cho xây dựng một chuồng trại.
Lũ dê đã liếm sạch cơ thể nhỏ bé của tôi.
Bọn dê ban đầu trông như những ông già khó chịu, nhưng khi nhìn tôi thì cười toe toét, tôi đến gần để vắt sữa thì chúng lại húc đầu, xì rắm và nhổ nước bọt vào tôi.
Nhưng lũ dê không hề biết đến sức mạnh cơ bắp vẫn tiếp tục phát triển từng giây phút của tôi. Tôi nhanh chóng nhận ra cách xử lí và hành hạ lũ dê đến cùng. Lần lượt tôi ném mười, hai mươi hay ba mươi con dê lên không trung, đè chúng cho đến khi lòng trắng trong mắt lộ ra và rồi vắt từng giọt sữa ra khỏi chúng.
Mỗi ngày một lần, lại có một gã đàn em đến kịp lấy một xô đầy sữa. Bọn đàn em trước đây đều là những khách hàng đến để mua dâm, nhưng không hiểu sao lại ở lại hòn đảo và trở thành thuộc hạ của ma cô chủ cũ. Tất cả bọn chúng đều lười biếng đến vô vọng, suốt ngày uống rượu và đôi khi thú vui duy nhất của chúng là chơi đùa với đàn bà, nếu được sự cho phép từ lão Ma Cô.
Sở dĩ ngay cả những kẻ đó cũng thích thú và yêu quý tôi là vì tôi là đứa duy nhất trên đảo có địa vị thấp hơn chúng. Chúng cũng luôn trông chừng ai đó. Chúng phải trông chừng không chỉ có chủ Ma Cô mà còn cả gái điếm và khách hàng.
Bọn đàn em thích thú cái cách tôi đứng vững trên mặt đất và cách tôi ném dê dễ như bỡn, nên chúng đùa giỡn với cơ bắp của tôi và khen ngợi tôi.
Sữa dê được phân phát cho gái mại dâm và khách hàng. Người ta tin rằng nó là một nguồn năng lượng mạnh mẽ, thực sự có tác dụng và góp phần khơi dậy cảm giác hứng tình trên đảo, nhưng tôi lại thích thịt dê hơn. Tuy nhiên thịt dê hiếm khi được ăn, món ăn chính ở đảo lại là cá.
Mặc dù lão Ma Cô sở hữu tận hai con tàu đánh cá nhưng chúng chủ yếu được dùng để chở khách và chẳng bao giờ đi đánh bắt. Lão Ma Cô từ lâu đã không còn là ngư dân nên luôn đến hòn đảo chính để mua cá. Hoặc là ngư dân từ đảo chính sẽ mang cá đến cùng với khách hàng. Lão Ma Cô và đám thuộc hạ moi ruột những con cá được mua số lượng lớn rồi rắc muối lên để làm cá khô. Hàng trăm con cá khô luôn xếp thành hàng trên những khúc gỗ trải khắp bãi cát, bốc mùi hôi thối khắp hòn đảo.
Lần duy nhất có thể ăn thịt dê là khi lão Ma Cô có tâm trạng vui vẻ.
Nó chỉ đơn giản phụ thuộc vào số lượng du khách đến đảo. Khi hòn đảo trở nên đông đúc hơn lão Ma Cô mong đợi, bọn đàn em sẽ giết dê và phân phát cho người dân trên đảo.
Tôi vẫn không thể quên được cảm giác thích thú khi lần đầu tiên được ăn thịt dê. Mặc dù chỉ đơn giản là dê được muối và rang lên, nhưng nước dãi của tôi chảy ra như thác nước và cơn đau xuyên thấu tận xương hàm. Khi tôi ăn thứ gì đó ngon miệng, má tôi thực sự sẽ xẹp xuống. Không chỉ là ngon thôi đâu. Mọi tế bào trong cơ thể tôi đều sẽ ngứa ran và phản ứng. Cơ bắp sẽ căng lên khi tôi hấp thụ chất dinh dưỡng từ thịt.
Cơ bắp của tôi trải qua sự thức tỉnh lần đầu tiên khi trèo dây rốn trong hố xí, lần thức tỉnh thứ hai là bơi băng qua đại dương. Thịt dê khiến cho cơ bắp của tôi mở mang hơn nữa.
Đôi khi tôi bí mật giết dê vào ban đêm và ăn thịt chúng. Phải mất hai, ba hoặc bốn ngày để ăn hết thịt một con. Máu, nội tạng và não đều được tích trữ trong dạ dày để không bị lãng phí. Phần còn lại bị ném xuống biển. Vì số lượng dê ngày càng giảm và lũ đàn em sắp phát hiện ra, nên tôi đã cố lừa chúng bằng cách nói rằng dê đã bỏ chạy, nhưng rõ ràng là nếu cứ tiếp tục như vậy thì lũ dê sẽ sớm biến mất khỏi đảo, nên tôi quyết định xử lí bằng cách ăn thịt dê con. Lũ dê thường đẻ nhiều nên ngay cả dê con cũng có thể lấp đầy cơn đói. Nếu có năm con dê con được sinh ra, hai con đã bị giết và ăn thịt.
Dù chuyển đến sống trong lán nhưng tôi không bao giờ quên ngắm nhìn vầng trăng. Nửa đêm tôi ra ngoài giơ tay hướng về phía trăng, ánh trăng xuyên qua đầu ngón tay, đàn dê cũng đang chăm chú nhìn trăng, mắt chúng cụp vào nhau và mặt hướng lên trời. Những đôi mắt của chúng lấp lánh và vàng rực, phản chiếu ánh trăng.
Chúng thật ngạo mạn, tôi nghĩ.
Bọn mày thì biết gì về trăng chứ, lũ súc vật này, tôi nghĩ vậy.
Một đêm nọ, tôi chợt nhớ tới Bù Nhìn.
Kể từ khi sống sót khỏi đại dương, tôi đã hoàn toàn quên mất Bù Nhìn.
Lâu lắm rồi mới được ra đồng như vậy.
Vô số cây ngô hiện đang mọc lên trên cánh đồng trống trải trước đây.
Bù Nhìn vẫn ở đó. Đầu của Bù Nhìn nhô lên giữa cánh đồng ngô rậm rạp, đội chiếc mũ quân đội có sọc đỏ.
Tôi dần dần nhổ đám cây ngô ra và làm trống khu vực xung quanh Bù Nhìn. Sau đó tôi bắt đầu nhảy múa cọc, cọc, cọc. Tôi đã thử nhảy cọc, cọc, cọc trong khi giữ thanh đòn gánh.
Bù Nhìn không phản hồi. Dù có trăng tròn nhưng nó không cử động. Đó chỉ là một con bù nhìn mặc bộ quân phục rách rưới, trên một bộ khung hình chữ thập mục nát.
Thật là buồn. Tôi cảm thấy bị bỏ rơi.
Thay vào đó, tôi lại được biết về mẹ.Đó là một người phụ nữ tên Masuyo.
Người phụ nữ đó gọi tôi là Masaharu. Nếu Masuyo là mẹ ruột của tôi thì tên tôi sẽ là Masaharu. Một cái tên ngớ ngẩn, chẳng có gì hay ho cả. Đó là cái tên mà một ả đàn bà ngu ngốc sẽ chọn.
Masuyo là một trong những gái mại dâm thay phiên nhau đến gặp tôi.
Giống như những phụ nữ khác, Masuyo cũng chăm sóc tôi bằng cách mang đồ ăn, lấy ráy tai, cắt móng tay... Cô ta chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên đồ ăn cô ta nấu dở tệ hơn bất kỳ ai khác, không những vậy lại còn là nữ nhân đẹp nhất trên đảo. Có lẽ cô ta vào khoảng 20 đến 30 tuổi, chắc vậy.
Dù hiếm khi xuất hiện vào đêm khuya, Masuyo đã thấy tôi cùng vẻ mặt bất ngờ. Miệng tôi tràn ngập máu me của một con dê con mới thịt, bộ phận sinh dục của tôi đang cương cứng dù được bao bọc bởi bao quy đầu. Mỗi lần ăn thịt dê, cái ấy của tôi trở nên khỏe mạnh hơn. Tuy nhiên, Masuyo không nói gì và bắt đầu lau chùi bằng giẻ ướt mang theo. Cô ta xắn gấu và tay áo kimono lên, lau sàn lán rồi để tôi tiếp tục ăn thịt dê con. Cuối cùng, Masuyo đã dọn dẹp xong, cô ấy nói sau khi tôi đã ăn hết thịt:
“Nè, Masaharu.”
Cô ta nói chuyện với cái đó của tôi.
“Mẹ xin lỗi vì đã im lặng cho đến giờ. Mẹ là người đã sinh ra con.”
Đó là những gì mẹ nói.
Từ đó trở đi, Masuyo ngày càng đến thăm tôi thường xuyên hơn. Đôi khi chúng tôi ở trong lán và ngủ cùng nhau trong chiếc chăn nhỏ mà các bà già trên đảo đã may cho tôi.
Khi đụng độ với nữ nhân khác, Masuyo trở nên xấu tính một cách trắng trợn và đuổi họ đi. Masuyo là người phụ nữ đẹp nhất trên đảo, nên cô ta có quyền lực khá đáng kể. Phụ nữ đẹp thì sẽ có nhiều khách hàng hơn. Trong số những người dân trên đảo, những người duy nhất Masuyo không thể chống lại là gã Ma Cô và bà Cót Két.
Masuyo thường kể với tôi những điều không hay về những người phụ nữ khác.
Mụ đó đúng là một kẻ vô học, con ả kia là một tên trộm, con bé kia thì bệnh tật, ả đó thì thật bẩn tính, con bé đấy là con rơi của bọn đàn em, còn mụ kia đã từng giết khách và ném họ xuống biển...
Mẹ không quên nói xấu gã Ma Cô và bà Cót Két. Ông chủ là một tên xã hội đen keo kiệt, bà Cót Két thì có vấn đề về đầu óc.
Thực ra mẹ không phải là loại đàn bà ở một nơi như thế này đâu, Masuyo nói.
Cha của mẹ là một người đàn ông rất vĩ đại, ông là gương mặt của giới chính trị và kinh doanh. Mẹ từng sống trong một biệt thự lớn hơn cả hòn đảo này cơ. Ở đó có rất nhiều người giúp việc, nếu muốn đóng tất cả cửa chớp trong nhà, thì đám giúp việc cũng phải mất hàng giờ. Ngôi nhà đó lớn như vậy đấy, một nơi chứa đầy ắp châu báu. Có vô số vàng bạc, đồ trang sức và các tác phẩm nghệ thuật nước ngoài. Nhưng khi cha qua đời vì bệnh tật, nơi đó đã sụp đổ. Mẹ quyết định làm việc tại một công xưởng để chăm lo cho bà mẹ và em trai của mẹ. Mẹ đã làm việc từ sáng đến tối với mồ hôi trên trán, thế rồi chủ xưởng nhìn thấy và tiếp cận mẹ. Mẹ đã bị cuốn theo và ảo tưởng vì bà mẹ và em trai của mẹ. Vậy là chủ xưởng đã đứng ra trả thay món nợ do cha của mẹ để lại. Ông ta đã trở thành chồng của mẹ, đó là một người tốt bụng dù cho mẹ bị dụ dỗ nhưng vẫn thấy hạnh phúc. Vào một lần trên đường đi học về, mẹ đã gặp một chàng thư sinh, người ấy đã cho mẹ mượn chiếc ô khi mẹ bối rối vì cơn mưa bất chợt. Và rồi mẹ và chàng thư sinh yêu nhau, sau đó mẹ mang thai. Khi chồng của mẹ phát hiện ra, ông ấy đã rất tức giận. Món nợ cha để lại mà chồng mẹ đã trả thay, giờ đây đã trở thành món nợ của mẹ. Sau đó ông chồng của mẹ đã bán mẹ đi. Cha của con chính là thư sinh đó, một thư sinh có khuôn mặt đẹp đẽ. Chắc chắn chàng thư sinh đã trưởng thành và đang chờ đợi mẹ trên đất liền. Mẹ đang tiết kiệm tiền và sẽ rời khỏi đảo này, ngày đó sắp đến rồi, tất nhiên là mẹ cũng sẽ mang con theo......
Thực tế rằng, Masuyo đã làm việc rất chăm chỉ cả ngày lẫn đêm để tiết kiệm tiền.
Masuyo, mĩ nhân số một của đảo, có rất nhiều khách hàng trung thành. Cô ta cũng là người phụ nữ có giọng nói to nhất trên đảo.
Khi đang nhìn lên trăng vào nửa đêm, tôi nghe thấy giọng của Masuyo từ xa phát ra từ phía khu nhà tập thể. Một âm thanh trụy lạc tuy yếu ớt nhưng dường như được gió từ biển mang đi khắp hòn đảo.
Có lẽ đó là khoảng thời gian tôi khám phá ra “Chiến Xa Rừng”.
Đêm đến, khi vầng trăng lưỡi liềm bao phủ ánh hào quang bảy màu, tôi lại lên đường khám phá hòn đảo, tôi tiến sâu vào khu rừng mà trước đây tôi chưa từng mạo hiểm đặt chân tới.
Tuy là một hòn đảo nhỏ nhưng nửa phía Tây toàn là núi non, còn chân núi phía Đông là khu vực rừng rậm hiểm trở. Đó là một khu rừng yên tĩnh đến lạ thường. Tôi đã đi xuyên rừng nhiều lần, nhưng ngoài một số loại côn trùng, tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì giống sinh vật sống. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con rắn hay con chim nào. Bọn côn trùng cũng không có gì quá to tát. Một con nhện treo mình lỏng lẻo trên một sợi chỉ với mạng giăng một nửa; một con sâu bướm bám vào vỏ cây và không hề di chuyển; và một con bọ mối vẫn là viên bi và không chịu mở ra.
Hay những con vật nhận ra sự hiện diện của tôi và đang lẩn trốn chăng? Không biết chúng có sợ hãi khi nhìn thấy diện mạo tương lai của tôi, một kẻ sát nhân bất tử với sức mạnh của mặt trăng, thân hình như một ngôi đền và tràn đầy sinh lực của một con quỷ không nữa.
Mặc dù lúc này vẫn còn là một đứa trẻ, nhưng tôi đã có được cơ bắp săn chắc và “Chiến Xa Rừng” cũng góp phần vào sự trưởng thành của tôi. Nó cho tôi cơ hội không chỉ phát triển về mặt thể chất mà còn củng cố mối quan hệ giữa trăng và tôi.
Đó là một chiếc xe tăng cũ của quân đội Nhật Bản.
Lúc đầu thì tôi chẳng biết nó là gì. Tuy nhiên, tôi nhớ mình có cảm giác rất khó chịu khi nó ở đó.
Nó phát sáng xanh mướt và nhầy nhụa trong bóng tối của khu rừng, đắm mình trong ánh sáng xuyên qua kẽ lá dưới mặt trăng.
Nếu lúc đó tôi biết xe tăng là gì, chắc chắn cảm giác khó chịu của tôi sẽ dữ dội hơn. Điều này là do những cây sồi dày đã được chèn chắc chắn vào bốn góc của xe tăng. Cứ như thể bị đóng đinh vào mấy cái cây vậy.
Xe tăng thậm chí có thể húc đổ cây cối và xâm nhập vào rừng.
Không đời nào mà nó lại bị mắc kẹt trong một nhà tù bằng cây như thế này.
Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc xe tăng một lúc lâu, rồi rón rén tiến lại gần và chạm tay vào nó.
Những ngón tay tôi tê cứng vì cảm giác lạnh lẽo. Tôi đập nó bằng nắm đấm của mình. Đây là lần đầu tiên tôi đập thứ gì đó cứng đến thế.
Tôi hỏi Masuyo về chiếc xe tăng trong rừng.
“À, mẹ chắc chắn đó là một chiếc xe tăng.” Masuyo trả lời.
Khi tôi tiếp tục hỏi, mẹ nói với tôi rằng đó là một công cụ để giết người. Cách đây rất lâu, Bà Cót Két kể đã từng nhìn thấy nó trong rừng, nhưng hóa ra đó lại là sự thật, cứ tưởng đó chỉ là chuyện của mấy mụ già điên khùng thôi chứ.
Nhưng, chỉ có vậy thôi. Masuyo dường như không có hứng thú hay thắc mắc gì thêm về xe tăng.
Ngày hôm sau, tôi vào rừng khi trời còn sáng. Tôi muốn ngắm nghía chiếc xe tăng kỹ hơn. Nhưng ngay cả khi nhìn vào bánh xe, bánh xích và nòng súng, tôi vẫn không thể nào tìm ra cách giết người. Ban đầu, tôi thậm chí không thể tưởng tượng được rằng đó là thứ có thể chạy.
Tôi quyết tâm leo vào xe tăng. Nòng súng hướng về làng. Nó không giống bất kỳ loại vũ khí nào khác. Vũ khí duy nhất mà tôi biết chỉ là dao hoặc sừng dê mà lão Ma Cô và lũ tay sai đeo ở thắt lưng.
Tôi nhận ra có một cửa nắp phía trên tháp pháo. Tôi nắm lấy tay cầm và cố gắng mở nó ra. Chẳng nhúc nhích tí gì.
Tôi muốn chiến đấu. Tôi nhặt một mảnh gậy và ném nó vào xe tăng.
Tôi đã bắt đầu ghét các mùa rồi. Tôi ghét cơn gió ấm dở dở ương ương của mùa xuân, ghét cái nóng của mùa hè đã làm tôi biến dạng, ghét cái cảm giác mùa thu nghiêng về đâu đó, ghét sự tĩnh lặng như đang chìm sâu của mùa đông , ghét mọi thứ trên hòn đảo tồn tại qua mọi mùa.
Tôi không ghét tên Bù Nhìn đó lắm. Đã có một lần hắn nhảy múa tôi với tôi rồi. Vậy nên có thể bỏ qua cho hắn. Còn chiếc xe tăng, tôi đã quyết định rằng nó là kẻ thù. Nếu là kẻ thù thì phải chiến đấu. Vì vậy tôi bỏ qua.
Hằng đêm, tôi đi vào rừng để chiến đấu với xe tăng. Nếu đập nó bằng gậy và liên tục đẩy rồi kéo, cơ bắp của toàn bộ cơ thể tôi sẽ vui sướng và đổ mồ hôi đầy mệt mỏi. Khi nhịp tim của tôi phát cuồng, tôi ngừng chiến đấu lại và cố gắng leo lên xe tăng để mở cửa nắp vào cuối ngày. Tôi quyết định rằng khi cửa nắp mở ra, đó sẽ là chiến thắng.
Masuyo vẫn như vậy. Vào mùa hè thì ôm tôi chặt đến nỗi mồ hôi nhớp nháp phải vắt ra, mùa đông thì ôm chặt đủ để làn da lạnh giá của tôi phải nứt nẻ. Tôi tọng vào miệng đồ ăn dở tệ và thì thầm.
Masuyo nói với tôi về giấc mơ của mình sau khi trở lại đất liền. Chung sống hạnh phúc với chàng thư sinh, trở thành một giáo viên tại trường nữ sinh, nâng khăn sửa túi cho một người vĩ đại giống như cha, mở một quán ăn, và nhiều thứ khác.
Vào một đêm trăng tròn, khi vung gậy lên để đánh một phát, tôi cảm thấy như chiếc xe tăng đang kêu ré lên. Tôi ngừng tấn công lại và lắng nghe.
Bốn góc xung quanh xe tăng run rẩy từng chút một, khoảnh khắc sau đó, cửa nắp bắt đầu từ từ mở ra. Cửa nắp giơ cờ trắng lên mà tôi chưa kịp chạm vào tay của nó.
Tôi chờ đợi để xem có gì sẽ xảy ra tiếp theo, một thứ như khói trắng hoặc hơi nước bốc lên từ cửa nắp, bọn côn trùng thường im lặng trong rừng đã bắt đầu xào xạc, những con chim vô danh hót líu lo, mùi của rừng tràn ngập khu rừng vốn không mùi từ trước.
Tôi lẩm bẩm “Được rồi” và trèo lên chiếc xe tăng. Tôi nhìn vào cửa nắp, có một vũng tối tăm màu đen.
Tôi thò đầu vào để nhìn rõ hơn rồi ngã xuống, nhưng khi ngồi đó, xoay người trên ghế xạ thủ và nhìn lên trời, trăng tròn đã ở ngay giữa cửa nắp, trăng và cửa nắp chồng lên nhau. Ánh trăng chảy vào xe tăng như thác nước. Khi được tắm mình trong áng sáng vàng đó, tôi - một đứa trẻ khoảng ba, bốn, năm tuổi đã xuất tinh lần đầu tiên kể từ khi được sinh ra.
Khi tôi trở lại lán trại, Masuyo đang ngủ trong chăn mền với thân hình uốn cong.
Masuyo nhận thấy dấu hiệu và hỏi tôi đã đi đâu trong khi đang chải lại tóc tai. Tôi không trả lời câu nào, nhưng lại đứng đó và cầm chặt cây gậy đã đánh chiếc xe tăng rất nhiều lần.
Masuyo tháo chiếc khăn gói đồ ra và bắt đầu lục lọi.
Hôm nay mẹ mang thịt bò đến này, Masuyo nói. Đây là lần đầu con được ăn thịt bò đúng không nào, bọn tay sai đã mua từ đất liền về đấy.
Masuyo nở nụ cười xinh đẹp nhất trên đảo và đưa ra một khúc thịt đen tuyền. Tôi vung cây gậy qua đầu và đập nó xuống đầu Masuyo. Máu lan rộng như thể có tấm lưới được quăng ra để bắt lấy tôi.
Ngày hôm sau, một cô gái điếm đến tìm kiếm Masuyo, cô ta đã tìm thấy tôi nằm ngủ và Masuyo nằm trên mặt đất, đầu chảy máu.
Masuyo vẫn chưa chết. Là do sức lực của tôi quá mạnh.
Tốc độ vung gậy xuống của tôi nhanh đến mức cây gậy gãy làm đôi trước khi chạm tới đầu Masuyo.
Việc xét xử lại diễn ra lần nữa. Lão Ma Cô tập hợp tất cả gái điếm và hỏi ý kiến về hình phạt dành cho tôi. Như trước đây, những người phụ nữ lại cầu xin tha mạng cho tôi.
Masuyo há hốc mồm ra như một kẻ ngốc mà không nói gì. Có lẽ do tôi đã đập vào đầu và mất trí nhớ tạm thời. Hoặc là cô ta không thể chấp nhận sự thực việc bị tôi tấn công.
Đối với đám phụ nữ, Masuyo bị thế nào cũng chẳng sao. Masuyo thường tỏ ra kiêu ngạo và coi thường mọi người nên họ ghét cô ta.
Khi bị gã Ma Cô tra hỏi, tôi không trả lời. Ngay cả khi Masuyo không khai điều gì, bất lợi của tôi vẫn rõ ràng. Dù sao thì cũng tôi đã ngủ với một cây gậy bên cạnh Masuyo đẫm máu.
Ma Cô dần dần trở nên bực tức trước Masuyo đang im lặng và đám phụ nữ đang khóc lóc. Lần đầu tiên tôi thấy một khuôn mặt quỷ Hannya [note54998]đầy giận dữ mà tôi đã nghe từ tin đồn. Gã Ma Cô có ba hình xăm nằm ở bên ngực trái, ngực phải và lưng, nhưng nếu cơ thể gã bị kích thích, khuôn mặt quỷ Hannya sẽ trở nên đỏ ngầu và biến thành trạng thái phẫn nộ.
Thật đáng ngạc nhiên khi người đã cứu tôi chính là Bà Cót Két.
Trước hết, tôi không biết bà lão đó tám mươi hoặc chín mươi hay một trăm tuổi, bà ta đã chen qua đám phụ nữ và đấm vào sườn tôi. Sau đó, bà ta quỳ lạy đập trán xuống đất trước mặt gã Ma Cô.
Tôi sẽ chăm sóc đứa trẻ này, bà nói vậy.
Vì vậy, buổi xét xử đã kết thúc. Lão Ma Cô dường như đã nhẹ nhõm. Ngay cả khi hắn vâng lời Bà Cót Két, cái uy quyền chủ nhân của hắn vẫn sẽ không bị tổn hại. Mặt quỷ Hannya giận dữ nhanh chóng trở lại sắc mặt bình tĩnh.
Kể từ ngày đó, tôi bắt đầu sống chung với Bà Cót Két.
Masuyo không phải là mẹ mày đâu, đó là những gì Bà Cót Két đã nói với tôi từ ngày đầu tiên.