Phó Lan Quân cả kinh, đứng phắt dậy cao giọng hỏi cô ta: “Anh ấy đi đâu rồi?”
Ánh mắt Trình Bích Quân xa xăm mờ mịt: “Chết rồi.”
Phó Lan Quân chỉ thấy tai mình ù cả đi, hai đầu gối mềm oặt suýt ngã khuỵu, cô thì thào với vẻ không thể tin: “Không thể nào, sao anh ấy chết được…”
Trình Bích Quân nở nụ cười độc ác cay nghiệt nhìn cô: “Sao lại không thể? Thời buổi chiến tranh loạn lạc, anh ta xung phong dẫn binh đi đánh giặc, mỗi ngày phải gặp bọn đầu trâu mặt ngựa bao nhiêu lần.”
Cô ta nhìn Phó Lan Quân, ánh mắt đan xen đau đớn và thỏa mãn: “Cảm ơn cô đã trở về, cảm ơn cô đã nghe tôi nói những lời này, người thống khổ không chỉ có một mình tôi, thật tốt.”
Cô ta đứng dậy bước từng bước chầm chậm ra ngoài: “Tôi rất căm hận, nhưng tôi không hối hận.”
Đi đến cạnh cửa, cô ta quay đầu nói với Phó Lan Quân: “Tôi đã cố gắng hết sức để chiến đấu, trao đi tất cả tình yêu của mình. Nhưng số trời không nằm ở chỗ tôi, nhiệm vụ của tôi cũng đã hết. Tôi không giống các người, nên hối hận, phải là các người mới đúng.”
Phó Lan Quân chẳng biết mình ra khỏi Trình gia bằng cách nào.
Cô lang thang trên đường như các xái không hồn, sau lưng loáng thoáng nghe thấy có người gọi tên cô nhưng chẳng làm sao ngăn được nhịp chân bước, như là bị bắt nhốt, nhốt vào trong chính giấc mộng của mình. Cho tới khi người nọ đuổi kịp và vỗ mạnh lên vai cô một cái.
Phó Lan Quân ngoảnh lại, đập vào mắt là khuôn mặt như đã từng quen biết ánh lên nét vui mừng mà đầy âu lo, đôi mắt cô chợt sáng ngời, túm chặt lấy vai người nọ như tìm được vị cứu tinh: “Dương tiên sinh! Cố Linh Dục đâu? Hắn không chết phải không?”
Là Dương thư sinh, là Dương thư sinh mà Cố Linh Dục từng cứu, ông ấy vẫn còn đây, vậy thì nhất định Cố Linh Dục sẽ không chết, chắc chắn Trình Bích Quân kia lừa cô rồi!
Vẻ mặt Dương thư sinh biến hóa liên tục, ông ấy gục đầu: “Đúng, cậu ấy không chết.”
Dương thư sinh dẫn cô đi gặp một người.
Những con phố và khoảng sân in trong ký ức, đây là nhà Đồng Sĩ Hồng, thầy của Cố Linh Dục. Cô đã tới đây hai lần, một lần là cùng Cố Linh Dục đến chúc thọ Đồng Sĩ Hồng, một lần là được Đồng Sĩ Hồng mời đến ăn bữa tiệc tiễn biệt ông…
Dưới tán cây lê, có người đưa lưng về phía cửa đang ngồi một mình chơi cờ, Dương thư sinh cúi chào theo nghi thức quân đội: “Đồng lão, ông xem ai tới này.”
Đồng Sĩ Hồng quay đầu, ông già rồi, ông sinh vào năm Đồng Trị thứ bảy, giờ chắc cũng đã ngót nghét sáu mươi. Anh hùng của những năm cuối đời, hai bên thái dương lấm tấm sợi bạc phơ, thời gian hằn trên gương mặt ông những nếp nhăn khắc khổ, mắt cũng đục mờ, híp lại sau cặp kính viễn thị hòng nhìn rõ Phó Lan Quân hơn, một lúc lâu sau, cuối cùng ông đã nhận ra cô.
“Không ngờ đời này còn có thể gặp lại.” Ông cứ thổn thức mãi.
Phó Lan Quân nói thẳng: “Thầy Đồng, Cố Linh Dục đâu? Trình Bích Quân nói với tôi anh ấy chết rồi, anh ấy chắc chắn không chết đâu, phải không?”
Đồng Sĩ Hồng tháo kính xuống đặt lên chiếc bàn đá, tay xoa xoa mắt: “Cô hẵng bình tĩnh, từ từ nghe tôi kể, A Tú không chết, nhưng giờ cậu ấy đi đâu, tôi cũng chẳng rõ.”
Hoàng hôn dần dần buông, Đồng Sĩ Hồng chuyên chú kể lại hết mọi chuyện đã xảy ra suốt mười mấy năm qua.
Phó Lan Quân có lẽ không biết, cuốn sổ tiết kiệm ngân hàng Hối Phong nhét trong hành lý của cô, tiền bên trong đó là một phần của số tiền Cố Linh Dục đã đổi bằng tất cả sản nghiệp tổ tiên Cố gia.
Tháng năm năm Dân quốc thứ hai, Viên Thế Khải tổ chức cuộc họp hội đồng bí mật ở Phủ Tổng thống nhằm chuẩn bị và phát động cuộc nội chiến. Cố Linh Dục hay tin, biết sắp có trận tai vạ lớn giáng xuống, cảm giác bi quan về tương lai của Trung Quốc mỗi lúc một dâng cao trong lòng hắn, trận biến động này có lẽ sẽ phải kéo dài nhiều năm mới chấm dứt triệt để. Vì thế hắn bán của cải lấy tiền mặt, đổi một phần tiền thành ngoại tệ mạnh là vàng, một phần quy đổi thành bảng Anh và Đôla rồi gửi vào các ngân hàng nước ngoài. Một phần giữ trong tay để sử dụng cho mục đích cách mạng, một phần lặng lẽ cất vào hành lý của Phó Lan Quân, một phần để thu xếp cho mẹ, thím hai và Trình Bích Quân, định sẽ đưa họ sang Mĩ. Trình Bích Quân khăng khăng từ chối, cô ta nhất quyết muốn ở lại bên cạnh Cố Linh Dục.
Sau nữa, quả nhiên thiên hạ rơi vào cảnh li loạn.
Tháng bảy năm Dân quốc thứ hai, cách mạng lần thứ hai bùng nổ, khắp nơi đánh dẹp tranh chấp của quân Viên, Cố Linh Dục cũng là một trong số những phần tử đánh Viên. Sau đó, cách mạng thất bại, Cố Linh Dục trở thành tội phạm truy nã của chính phủ Viên, dưới sự trợ giúp của Đồng Sĩ Hồng, hắn qua Nhật Bản lánh nạn và vào bổ túc tại trường sĩ quan lục quân Nhật Bản, đợi thời cơ tới lại về nước tham gia cách mạng.
Tháng hai năm Dân quốc thứ tư, hành động cố chấp muốn khôi phục chế độ quân chủ tiêu diệt nền Cộng hòa của Viên Thế Khải đã thành công khơi ra cuộc vận động bảo vệ tổ quốc, Cố Linh Dục và nhóm đồng chí về nước gia nhập vào dòng chảy vũ trang lật đổ đảng Viên. Mà khi đó, Đồng Sĩ Hồng đã tràn trề thất vọng với Viên Thế Khải, cùng bắt tay với đám người Thái Ngạc, Đường Kế Nghiêu đạp đổ Viên. Thầy trò bọn họ gặp lại ở Vân Nam, đánh từ Tứ Xuyên tới Tương Tây chi viện cho Vân Nam Quảng Tây.
“Thật đúng là một năm phong ba bão táp tứ phía ập đến, hai thầy trò tôi học đánh giặc cả đời, cuối cùng cũng có cơ hội cùng nhau đánh một trận sảng khoái. Trừ những khi A Tú ở cạnh cô thì đó là lúc tôi thấy cậu ấy vui vẻ nhất, có lần cậu ấy nói với tôi rằng: Thầy ạ, quả là tuyệt vời khi biết những gì mình đang làm là việc đúng đắn duy nhất, loại cảm giác này thực sự đã quá đi mất.
Cậu ấy bảo: Khi đó em còn thấy hơi lo, về sau đã chứng mình những lo lắng ấy là rất đúng."
Cuộc vận động bảo vệ tổ quốc kết thúc với thắng lợi của quân hộ quốc, tháng ba năm Dân quốc thứ tư, Viên Thế Khải bị buộc bãi bỏ chế độ quân chủ, khắp nơi trên cả nước lần lượt tuyên bố độc lập, tháng sáu, Viên Thế Khải lâm bệnh qua đời.
Nhưng thắng lợi cuối cùng đâu hề đơn giản như vậy, vận động hộ quốc thắng lợi, Viên Thế Khải đã chết, nhưng Trung Quốc vẫn còn tồn tại bè đảng của Viên Thế Khải, bọn quân phiệt lộng hành cát cứ, phản đối khôi phục Hiến pháp lâm thời, cách mạng rơi vào thế gánh nặng đường xa.
Tranh chấp phủ viện, Trương Huân đứng lên… Trung Quốc hết loạn này đến loạn khác, Tôn Trung Sơn một lần nữa tổ chức quân đội cách mạng thảo phạt chính phủ Bắc Dương, Đồng Sĩ Hồng và Cố Linh Dục nối gót theo sát, chiến tranh lặp đi lặp lại với bao cuộc nội loạn và tạo phản, cho đến cuối năm, Trương Học Lương của quân phiệt Phụng hệ tuyên bố Đông Bắc đổi màu cờ, tấm màn kịch rốt cuộc khép hạ.
Trong trận chiến kéo dài suốt mười mấy năm này, vô số người đã chết, rạng danh sử sách như Tôn Trung Sơn, Hoàng Hưng, Thái Ngạc, âm thầm vô danh như hàng ngàn hàng vạn binh lính, cũng có vô số người mất tích, ví dụ như… Cố Linh Dục.
Năm Dân quốc thứ sáu, Cố Linh Dục mất tích.
Trước đó hắn làm huấn luyện viên ở trường quân sự Hoàng Phố.
Năm Dân quốc thứ mười ba, Tôn tiên sinh và Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành hợp tác thành lập trường quân sự Hoàng Phố dưới sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản và Liên Xô, năm ấy Cố Linh Dục cũng đã vào tuổi tứ tuần, về việc mở trường quân sự hắn cực kỳ phấn khởi.
“Cậu ấy nói với tôi, cậu ấy vui lắm. Quân sự là gốc rễ của cách mạng, cách mạng khó mà thành công nếu không có lực lượng vũ trang mà nó vun đắp, cậu ấy nói cuộc vận động bảo vệ tổ quốc trì trệ không thể giành được thắng lợi chính vì thiếu hụt vũ trang, quân phiệt sao có thể tin tưởng mà dựa vào được? Vì lợi ích cá nhân mà người nào cũng trở mặt nhanh như lật sách, mấy ai có được ý thức đại cục của quốc gia dân tộc? Điều đất nước cần là một quân nhân có ý thức quốc gia tiên tiến, người đó phải mừng vui khi nhận được thư mời của trường quân sự Hoàng Phố, muốn làm một trận thật lớn, đào tạo ra thật nhiều quân nhân xuất sắc vĩ đại cho nước nhà.”
Vì đây là ngôi trường được thành lập thông qua hợp tác của Đảng Cộng sản nên trong trường không thiếu đảng viên cộng sản, thậm chí khi hai đảng hòa hợp gắn bó thì thành viên của Đảng Cộng sản còn được phép dùng thân phận cá nhân để gia nhập Đảng Quốc dân, đồng thời có được hai đảng tịch. Quan hệ giữa đảng viên hai đảng càng chặt chẽ khăng khít, Tôn tiên sinh đồng ý kiến nghị “liên Nga, dung Cộng, phù trợ nông-công”, tư tưởng lập đảng của Đảng Cộng sản được truyền bá khắp đoàn thể xã hội, đến giáo viên và cả học sinh. Đồng Sĩ Hồng nghĩ, hẳn là chính vào lúc này Cố Linh Dục đã chấp nhận được tư tưởng Trung Cộng, cán cân trong lòng hắn cũng có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, hơn nữa còn bí mật gia nhập tổ chức Đảng Trung Cộng.
Sẽ chẳng có gì là sai khi tình hình tiếp tục diễn ra như vậy, nhưng đáng buồn thay, trời không chiều lòng người.
Năm Dân quốc thứ mười bốn, Tôn Trung Sơn qua đời trước cách mạnh, Đảng Quốc dân đã sớm có người bất mãn với Trung Cộng, sau khi Tôn tiên sinh tạ thế thì bắt đầu làm khó dễ. Hội nghị Tây Sơn, sự kiện chiến hạm Trung Sơn, quan hệ quốc cộng ngày càng ác liệt. Cuối cùng, vào năm dân quốc thứ mười sáu bạo phát cuộc đảo chính “Ngày tháng ”, dưới khẩu hiệu “Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” của Tưởng Giới Thạch, vô số người của đảng cách mạng Trung Cộng bị thảm sát, mà thân phận đảng viên Trung Cộng của Cố Linh Dục đã bị kẻ phản bội bán đứng khai hết toàn bộ.
Vì Cố Linh Dục xuất thân từ hệ huấn luyện viên Hoàng Phố và có thành tích xuất sắc trong công cuộc bảo vệ đất nước nên chỉ bị bắt tạm giam rồi báo cáo với cấp trên xin biện pháp xử lý.
“Tôi lén thả cậu ấy đi.” Nhắc tới chuyện cũ chấn động lòng người ấy, Đồng Sĩ Hồng nói với giọng nhẹ nhàng bâng quơ, “Tôi không thể trơ mắt nhìn cậu ấy chết, cậu ấy là đứa học trò đời này tôi tâm đắc nhất. Hơn nữa, cậu ấy trông rất giống một người, tôi không thể nhìn khuôn mặt đó chết lần thứ hai trước mặt tôi. Nên tôi mới bất chấp tất cả, để cậu ấy chạy thoát.
A Tú chào tôi nghe nghi thức quân đội, rồi xoay gót bước đi. Từ đó tôi không còn thấy cậu ấy nữa, không còn nghe bất kì tin tức nào về cậu ấy. Có lẽ A Tú tới Trung Cộng, thay họ đổi tên, ai biết được?
Sau khi thả cậu ấy, tôi đã đi tự thú, tôi già rồi, sống đủ rồi, tùy bọn họ muốn làm gì thì làm. Cuối cùng bọn họ không xử lý tôi, chỉ cho tôi giải ngũ về quê, ha, tôi mong còn chả kịp. Đánh chiến mười mấy năm, vất vả lắm mới có được cơ hội về với trời yên biển lặng, kết quả đột nhiên người nhà quay sang cắn nhau, cái quái gì thế này? Tôi già lắm rồi, không muốn nghĩ nhiều thêm nữa, tôi chỉ muốn ngồi một mình một cõi vui cái thú đánh cờ, nghe kịch trong vô tuyến điện, chậm rãi già đi, thanh thản chờ đợi cái chết.”
Ông đứng dậy quay người vào phòng, qua lúc lâu, ông cầm một quyển sổ bước ra đưa cho Phó Lan Quân: “Đây là nhật ký của A Tú, năm đó người bắt A Tú đã lục soát được từ chỗ ở của cậu ấy, tôi cầm về, vẫn giữ đến bây giờ, nghĩ tới nghĩ lui, vẫn nên giao lại cho cô mới là ổn thỏa nhất. Cô đọc đi, để hiểu trái tim cậu ấy, cả tấm lòng của cậu ấy đều gửi gắm bên trong này.”
(còn tiếp)