Thu đi đông đến, một quý qua đi trong yên bình. Đầu xuân, những sĩ tử vào kinh ứng thí chẳng khác gì những lộc non mơn mởn mọc lên từ bùn đất. Đưa mắt nhìn quanh, toàn bộ phố xá Lạc Dương độc một màu áo xanh ngút ngàn. Thi xuân ba năm mới có một lần, là sự kiện quan trọng nhất của thiên triều, trên dưới triều đình hăng hái bận bịu, ngay cả dân chúng Lạc Dương cũng mang vẻ mặt hân hoan chứ đừng nói đến các nhà kinh doanh quán rượu, các tú bà thanh lâu. Nhà nào nhà nấy đều sửa sang lại cho gọn gàng ngăn nắp, trên dưới Lạc Dương náo nhiệt phồn hoa như đón mừng lễ hội.
Dục Sơ cưỡi ngựa chậm rãi tách ra khỏi dòng người, cả đường cứ cau mày không thôi.
Trời sinh hắn thích yên tĩnh, hồi còn nhỏ mỗi lần đến Đại bỉ, nhìn khắp hang cùng ngõ hẻm Lạc Dương chen chúc đầy người là cứ thấy trong lòng phiền không ngớt. Năm ấy mười tám tuổi, trên đường vào cung tình cờ gặp Trạng nguyên đi tuần phố, nhất giáp nhất danh ngày đó chính là Lục Diệu Am mặc áo Trạng nguyên rực lửa cưỡi ngựa xích thố, càng tôn thêm tướng mạo đẹp như thiên tiên của y, rạng rỡ đến chói lòa, thêm nữa là dáng vẻ tung hô reo hò của dân chúng dọc đường khiến Dục Sơ thầm nghĩ, hi vọng Địch thiếu gia của hắn cũng sẽ có một ngày phong quang như thế. Ba năm sau Mạch Sở Địch tròn mười bốn, người nhà Mạch gia vốn định để ba năm nữa mới cho y thi, nào ngờ y nằng nặc kéo Dục Sơ chạy đến Lạc Ấp phủ nha báo danh thi hương.
Tới khi thi hội, người ta nói phải tỏa viện, ba ngày một bài thi liên tiếp ba đợt, chín ngày trời nán lại trường thi không được ra. Từ nhỏ đến lớn Dục Sơ chưa từng xa Mạch Sở Địch quá năm ngày, vừa nghe xong đã thấy đứng ngồi không yên. Mạch Sở Địch liền khuyên, nói trong trường thi thích lắm, mỗi người ở một gian, có giường có bàn, có người chuyên đưa cơm. Dục Sơ nghĩ sơ sơ thấy cũng không khác ở nhà là bao, vì thế sốt ruột thì sốt ruột, chín ngày cũng qua đi. Tới khi thi thố xong xuôi, Dục Sơ thân chinh đến trường thi đón người, lúc đấy mới thấy rõ cái gì gọi là ‘mỗi người ở một gian, có giường có bàn’, tức tới mức muốn đốt sạch cái trường thi. Mạch Sở Địch cười hì hì chạy ra, người gầy đi rất nhiều, Dục Sơ xót xa vô cùng, lại không trút giận lên đầu y được, một bụng tức tối áp đảo cả trường thi.
Đến khi thi đình, ai ai cũng khen Mạch Sở Địch kỳ tài ngút trời, thi hương thi hội đều là người đứng dầu, nhất định sẽ liên trung tam nguyên, đại khôi thiên hạ, Dục Sơ cũng một lòng chờ đợi hi vọng của ba năm trước trở thành sự thật. Không ngờ khi chủ khảo chấm xong dâng Tam giáp lên cho Hoàng đế khâm điểm, Hoàng đế lại lo Mạch Sở Địch tuổi nhỏ, còn là hoàng thân, nếu để Trạng nguyên e khó tránh khỏi sĩ tử thiên hạ sẽ nói ra nói vào, vì thế truất xuống hai bậc cho làm Thám hoa. Kim bảng đã yết, nghe xong lời giải thích của Hoàng đế, Dục Sơ suýt chút nữa ói ra cả búng máu, từ đó hắn căm ghét mấy cái thứ thi cử xúi quẩy này mười phân vẹn mười. Hơn nữa sau khi Mạch Sở Địch nhậm chức ở Lễ bộ bận tới mức tối mặt tối mày, còn hơn cả hồi Đại bỉ, thường thường toàn mười ngày nửa tháng mới được gặp nhau. Tầng tầng oán hận chất chứa trong lòng, Dục Sơ càng thấy ghét cay ghét đắng hai từ “khoa cử”, cứ việc liên quan tới khoa cử nếu có thể không nhúng tay hắn tuyệt không động vào, thế nên cho đến tận bây giờ hắn vẫn không biết chủ khảo năm nay là ai.
(Liên trung tam nguyên: chỉ việc thi Hương, thi Hội, thi Đình liên tiếp giành được các chức Giải nguyên, Hội nguyên, Trạng nguyên. Đại khôi thiên hạ là đỗ Trạng nguyên.)
Mắt thấy cửa cung sắp đóng, Dục Sơ hỏi tùy thị bên cạnh: “Hoàng thượng công bố Kim bảng chưa? Năm nay ai quản lý thi cử?”
Tùy thị nghe hắn hỏi thế trong lòng thấy hơi kỳ quái, đáp: “Hồi bẩm chủ tử, chủ khảo năm nay là Sử đài phủ, phó chủ khảo là Tả ngự sử của Đốc sát viện và… chủ tử của Mạch gia.”
Nháy mắt Dục Sơ thấy kinh hoàng, hắn nhanh chóng xoay người xuống ngựa, đưa lại roi ngựa bước vào cửa cung.
Hai mươi lăm tuổi đã chủ khảo thiên hạ, không biết vì sao, hắn cảm thấy có gì đó chẳng lành…
Khi hắn bước đến bậc thềm kim điện, ba vị chủ khảo vừa được bổ nhiệm từ trong điện bước ra, Dục Sơ đáp lại lời chào của Sử Uyên và Tả Cung Trì, bước tới trước mặt Mạch Sở Địch thì dừng lại, hai vị lão thần thấy hắn có chuyện muốn nói đành đứng ra xa xa chờ.
“Phải tỏa viện rồi đúng không?”
Mạch Sở Địch gật đầu.
“Thuốc đâu?”
“Hoàng thượng ân chuẩn buổi chiều mỗi ngày sẽ cho người nhà đưa đến.”
Dục Sơ gật đầu, nhìn y một lúc như muốn nói nhưng cuối cùng lại xoay người bước vào cung điện.
Mạch Sở Địch nhìn bóng lưng hắn, cụp mắt rồi lập tức xoay người đuổi theo Sử Uyên và Tả Cung Trì.
Sơn đào trong trường thi đã nở được mấy gốc, sáu ngày trôi qua, hai bài thi đã hết, mọi việc suôn sẻ. Sách luận về bài thi thứ ba của kì thi hội bắt đầu, trước đêm kiểm tra, không khí ở trường thi có hơi u ám. Mấy vị chủ khảo ngồi cùng nhau lật xem bài thi, tôi tớ Mạch gia đúng giờ đưa giỏ thuốc tới, Mạch Sở Địch mở vung bưng bát chậm rãi uống, trước khi đặt bát xuống y vươn tay lấy trong giỏ ra hai tờ giấy.
Tả Cung Trì ngẩng đầu nhìn y, Sử Uyên vẫn cúi đầu. Mạch Sở Địch từ tốn đọc hết dưới ngọn đèn rồi đặt hai mảnh giấy xuống ngọn nến đốt sạch, tới khi giấy trắng cháy hết mới sai tôi tớ ra về, rồi như chẳng có chuyện gì cúi đầu tiếp tục chấm bài.
Tả Cung Trì liếc mắt nhìn Sử Uyên, Sử Uyên giả vờ như chẳng biết gì hết, Tả Cung Trì cũng không nói gì nữa, ba người tự ôm suy nghĩ của mình, một đêm không nói chuyện.
Hai ngày sau, mỗi lần tôi tớ Mạch gia tới đưa thuốc, trong giỏ lúc nào cũng có thêm một tờ giấy. Mạch Sở Địch xem xong luôn đốt sạch, sắc mặt bình thản chẳng nhìn ra nửa phần tâm trạng.
Sách luận đã khảo xong, cử sĩ được ra khỏi trường thi, đợi tới khi các bài thi được sao chép lại hết, niêm phong hết tên tuổi, ba vị chủ khảo mới ngồi xuống án, mấy trăm bài thi được trải rộng, theo thứ tự mà chuyền tay nhau đọc. Nếu ba người chấm xong thấy đủ tư cách, sẽ đánh dấu tên đặt vào hộp, chờ tới lúc tiến cử. Cứ thế lặng lẽ chấm nửa ngày, Tả Cung Trì đột nhiên nói: “Đặt bài này vào hộp hạ quan thấy không ổn.” Nói xong định truyền bài thi nọ cho Mạch Sở Địch.
Sử Uyên ở bên cạnh vươn tay ra cầm lấy, nhìn thoáng qua rồi nói: “Dù lời lẽ hơi thiếu hoa mỹ nhưng suy nghĩ rất sâu sắc, theo lão phu thấy, có nhiều điểm đáng học hỏi.”
Tả Cung Trì nhìn Mạch Sở Địch, thấy y vẫn cúi đầu im lặng đành phải cầm lại bài thi, đánh dấu tên.
Sau đó mấy bài thi được Sử Uyên chọn đều rất kì quặc, thậm chí trong đó còn có người viết sai chính tả song Tả Cung Trì thấy Mạch Sở Địch từ đầu đến cuối không nói lời nào, thầm nghĩ, lẽ nào y với Sử Uyên đã thống nhất một điều gì đó rồi. Vì không hỏi thẳng được nên cũng đành không nói.
Tới lúc công bố kết quả, các sĩ tử dường như chẳng hề dị nghị gì với nó, Tả Cung Trì mới thấy nhẹ lòng. Hồi chấm bài thi Đình, Sử Uyên cũng bị hiềm là đã đề bạt cất nhắc vài bài nhưng Tả Cung Trì thấy Mạch Sở Địch quyết định giả như không thấy, Sử Uyên cũng bình tĩnh ung dung nên ông cũng chỉ đành nhiều một chuyện chẳng bằng ít một chuyện, hai môi đóng chặt tuyệt không để lọt.
Khâm điểm Trạng nguyên, ban thưởng áo gấm, cưỡi ngựa dạo phố, yến tiệc quỳnh lâm, hoa xuân đất Lạc Dương nở tươi như thế mà cũng đâu có sánh bằng khánh điển mừng tân khoa tiến sĩ. Một loại sự kiện lớn nhỏ đổ dồn hết về một ngày, lâm triều hôm sau, tấu chương của Lục Diệu Am lại dấy lên một phen sóng to gió lớn.
“—— thông đồng cấu kết, gian lận thi cử?”
Dục Sơ nghe vậy lòng thắt lại, vô thức nắm chặt bàn tay.
Lục Diệu Am khấu đầu nói: “Hồi bẩm bệ hạ, con trai Lại bộ Thượng thư Ngạc Liên Thư là Ngạc Hằng Xuân bình thường gàn dở, ngang nhiên trụy lạc, dốt nát kém cỏi, trên dưới kinh thành không ai không biết thế mà lần này lại đỗ Nhị giáp Nhị thập tam danh, bây giờ sĩ tử trong kinh đã điều tiếng rầm trời, đều gửi thư yêu cầu chấm lại bài.”
Thi cử là chuyện quan trọng bậc nhất quốc gia nên mỗi lần án khoa cử xuất hiện nhất định máu sẽ chảy thành sông. Hoàng đế hiện giờ triền miên trên giường bệnh, chỉ mong triều dã yên ổn đành nói với Sử Uyên: “Sử đài phủ, ngươi đã nhiều lần nhậm chức chủ khảo, lúc nào cũng đức cao vọng trọng, chuyện hôm nay mong ngươi kể rõ.”
Sử Uyên là lão thần từ triều trước, Hoàng đế cũng còn tôn ông một tiếng Đài phủ, bấy giờ ông bước ra khỏi hàng, gương mặt chẳng mảy may cảm xúc, chỉ quỳ xuống đất khấu, “Những kẻ thi rớt mang lòng đố kị, thường thường sẽ mượn cớ gây sự sau khi yết bảng, vi thần cho rằng chuyện không đáng lo, xin Hoàng thượng minh xét.”
Hoàng đế gật đầu, “Lời là như thế song chuyện này vẫn phải rõ ràng mới bình được lòng kẻ sĩ thiên hạ.”
Sử Uyên nói: “Theo vi thần được biết, con trai Ngạc thượng thư hồi nhỏ tuy ngang bướng nhưng mấy năm gần đây Ngạc thượng thư quản giáo nghiêm minh, lớn lên đã dần thu liễm, Ngạc thượng thư còn mời danh sư về dậy dỗ, tất nhiên bài vở đã có phần tiến bộ. Thuở xưa có đoạn cơ chi ngộ của Mạnh tử, sau có Lý Bạch ma chử chi hối, biết sai biết sửa là cái tốt, nếu người ta đã có lòng hối cải mà ta cứ đay nghiến chuyện xưa, e là bất công.”
(Đoạn cơ chi ngộ: ngừng dệt dạy con, đây là đoạn điển tích đã được chuyển ngữ thành bài học “Mẹ hiền dạy con” trong sách giáo khoa, kể về cách mẹ của Mạnh tử đã giáo dục ông. Tóm tắt là một lần ông cúp học về nhà chơi (ủa sao cúp học mà về nhà chơi cho bị mắng chi?), mẹ ông đang dệt cửi thấy thế cắt đứt tấm vải trên khung, bảo “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy”.
Ma chử chi hối: nỗi ăn năn khi nghe câu “mài chày thành kim”, tức là giống cậu bé trong “Có công mài sắt có ngày nên kim” ở sgk lớp , Lý Bạch chuyên gia cúp tiết, một hôm gặp bà lão đang mài chày mới hỏi bà mài làm gì, bà trả lời mài thành kim, chày tuy to nhưng mỗi ngày mài một ít sẽ thành kim.)
Hoàng đế hỏi Ngạc Liên Thư: “Đã dần thu liễm, bài vở tiến bộ là thật sao?”
Ngạc Liên Thư bước ra khỏi hàng khấu đầu đáp: “Đúng như Sử đài phủ nói.”
Hoàng đế nghe vậy dần bình tĩnh lại, “Đã vậy thì kiểm tra lại bài thi một lần nữa, nếu không có điều gì đáng chê trách thì những sĩ tử đó cũng không nói ra nói vào nữa.”
Lát sau bài thi được trình tới, Hoàng đế nhìn lướt qua, thấy văn vẻ cũng có vài chỗ đáng đọc liền nói với Lục Diệu Am: “Ở đây chỉ có ngươi từng đỗ Trạng nguyên, ngươi thấy bài này có đáng Nhị giáp Nhị thập tam danh không?”
Lục Diệu Am nhận bài thi tùy thị đưa, xem trước xem sau một lát rồi đáp: “Bài này thì không có gì không ổn, nhưng… bài này chưa chắc đã là Ngạc Hằng Xuân viết.”
Hoàng đế giật mình, “Cái gì?!”
“Những người sáng suốt đều có thể nhìn ra Ngạc Hằng Xuân không có chân tài thực học, hẳn gã đã dự liệu rằng sau khi yết bảng sẽ dẫn đến sự chê bai của các sĩ tử nên đã chuẩn bị sẵn một bài thi xuất chúng, chờ thời cơ trộm long tráo phụng hòng che mắt thánh.”
Sử Uyên: “Ngươi thân là ngôn quan, tấu trình thì phải dựa vào chứng cớ xác thực, sao có thể vọng đoán bừa bãi, ngậm máu phun người!”
Lục Diệu Am nói: “Nếu trong tay hạ quan không có chứng cớ xác thực, nào dám tấu chuyện này lên triều đường.”
“Có chứng cứ gì?”
“Hồi bẩm bệ hạ, chuyện tráo bài thì vi thần không có chứng cứ nhưng chuyện gian lận thì vi thần có nhân chứng đoàng hoàng.”
Câu nói chấm dứt, mặt Ngạc Liên Thư tái xanh, Hoàng đế bật người hỏi: “Ai?’
“Lễ bộ Thượng thư Mạch đại nhân.”
Lập tức cả điện im bặt.
Thực ra chuyện gian lận thi cử xưa nay rất nhiều, quan lại thông đồng với chủ khảo mưu cầu cho con cháu một tương lai phú quý cũng chẳng phải chuyện lạ, lần này có hơi phô trương chứ không thì cũng chẳng thể nào mà lộ được. Mạch Sở Địch thường ngày ở triều đường lúc nào cũng kín tiếng, hơn nữa y dung sắc nhã nhặn, đối nhân lại nhún nhường, đồng liêu thấy án khoa cử dính tới y trong lòng đều có chút lo lắng đồng tình, vậy mà bây giờ nguồn cơn lại bắt đầu từ y, họ đều thầm ngạc nhiên và đâu đó sinh ra chút khinh thường. Những quan viên tham gia vào vụ gian lận thi cử lần này thì mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, trong đầu thì nguyền rủa y bằng những lời cay độc nhất.
Hoàng đế ngả lưng về long ỷ, lặng lẽ nhìn lướt qua cả điện rồi nói với Mạch Sở Địch: “Có bằng chứng gì, nói tỉ mỉ ra đi.”
“Hồi bẩm bệ hạ, những bài thi kém cỏi mà Sử đài phủ đề bạt vi thần tận mắt thấy, bệ hạ có thể lấy toàn bộ bài thi ra kiểm tra lại lần nữa là biết. Về phần Ngạc Hằng Xuân, có thể lệnh cho gã thi lại lần nữa, có tài hay không có tài nhìn kết quả là biết.”
“Ngươi đã tận mắt thấy sao ngày đó không báo? Bây giờ bảng vàng đã yết, ngươi không thấy đã quá muộn rồi sao?”
“Hồi bẩm bệ hạ, vi thần…” Mạch Sở Địch ngẩng đầu lên, do dự một lát rồi nói, “Sử đài phủ sai người đặt bảng danh sách những người được đề bạt vào giỏ đưa thuốc của vi thần, nếu mọi chuyện vỡ lở vi thần sẽ hết đường chối cãi, nên… chưa dám bẩm báo.”
Hoàng đế khẽ nhíu mày, “Bây giờ ngươi thấy sĩ tử lên án, sợ chuyện này không giấu diếm được nữa nên mới xuống tay trước để mong tránh khỏi liên can đúng không? Không ngờ thường ngày ngươi an phận, khi xảy ra chuyện lại tháo vát đến thế.”
Mạch Sở Địch chỉ quỳ trên đất không nói một lời.
Sử Uyên biết một khi chấm lại toàn bộ bài thi hoặc lệnh cho Ngạc Hằng Xuân trọng khảo thì chuyện gian lận tất sẽ phơi bày, ông nhìn Mạch Sở Địch với ánh mắt như hận không thể ăn thịt lột da y.
Hoàng đế thấy ánh mắt ông liền hỏi, “Sử Uyên, để Ngạc Hằng Xuân trọng khảo, ngươi dám không?”
Sử Uyên biết chẳng còn đường nào để trốn nữa đành dập đầu bẩm: “Vi thần làm rối loạn kỉ cương, tội đáng muôn chết song vi thần mong bệ hạ cũng đừng buông tha cho tiểu nhân nịnh thần kia!”
Hoàng đế cười nhẹ, “Tiểu nhân? Y bo bo giữ mình quả là đáng ghét nhưng ngươi trù tính hãm hại y thì là quân tử sao?”
“Bệ hạ minh xét, bảng danh sách đó không phải do vi thần bày kế, lúc đó y ăn nói lung tung chỉ để thoát khỏi can hệ, xin bệ hạ minh xét!”
Mạch Sở Địch khấu đầu nói: “Vi thần không hề nhận được một chút lợi lộc nào từ những người được cất nhắc, thường ngày cũng chẳng qua lại gì với nhau, nếu không do Sử đài phủ bày kế thì cớ gì bảng danh sách lại ở trong giỏ thuốc của ta?”
Sử Uyên lớn tiếng hỏi ngược lại: “Tại sao bảng danh sách lại ở trong giỏ của ngươi? Nếu đầy tớ của ngươi không nhận, sao nó lại ở trong giỏ của ngươi?”
“Hạ quan quản giáo hạ nhân không nghiêm, hạ quan biết tội nhưng cái danh nhận của đút lót, gian lận thi cử hạ quan không dám nhận.”
“Ba ngày liền trong giỏ thuốc của ngươi đều có bảng danh sách, Tả đại nhận và ta tận mắt chứng kiến, dù ngày đầu có thể do ngươi quản giáo không nghiêm nhưng nếu ngươi răn một câu thì tên đầy tớ có dám nhận không? Đó là do ngươi mặc kệ không quản, nhiều lần xem đi xem lại tờ giấy, chẳng phải là đang tính tiền sau khi yết bảng đó sao?”
Mạch Sở Địch nói với ông: “Điều hạ quan nghĩ là sau khi vụ án bị phanh phui, kẻ có liên quan là những ai, để tìm cho mình một đường lui.”
“Đủ rồi!” Hoàng đế vỗ án quát lên, “Triều đường há là nơi để các ngươi tùy tiện khắc khẩu như vậy, quá là nhơ nhuốc! —— Việt Lâm Xuyên!”
Việt Lâm Xuyên bước ra khỏi hàng khấu đầu đáp: “Vi thần có mặt.”
“Án này giao cho ngươi thống lĩnh Tam pháp ti thẩm định, nguyên cớ hậu quả, những kẻ dính líu, ngươi phải cho quả nhân một đáp án rõ ràng!”
Việt Lâm Xuyên lướt thoáng qua Mạch Sở Địch bên cạnh, khấu đầu đáp: “Vi thần lĩnh chỉ.”
Mạch Sở Địch vẫn cúi đầu quỳ, chợt nhận thấy ánh mắt Dục Sơ, y chầm chậm khép lại đôi mi.
“Đầy tớ nhà họ Mạch được quản giáo nghiêm khắc, ngàn vàng đổi một tờ giấy còn chẳng màng, hà cớ gì vì năm mươi lượng bạc mà truyền giấy vào trường thi hãm hại đại nhân, hạ quan thấy kì lạ lắm.”
Mạch Sở Địch quỳ gối dưới đường, khẽ ho mấy tiếng.
Việt Lâm Xuyên cười cười, bước ra khỏi án đi đến trước mặt Mạch Sở Địch, tay chống gối khuỵu người xuống sát cạnh y: “Nhìn Mạch huynh bây giờ trong lòng tiểu đệ thấy thoải mái lắm, vẻ quỳ lạy ngoan ngoãn làm người ta đau lòng thế này hẳn là Tam điện hạ cũng chưa được chiêm ngưỡng bao giờ nhỉ?”
Mạch Sở Địch nghe hắn nói thế liền biết người ngoài đã lui, ngẩng đầu nhìn hắn cười, đáp: “Việt hiền đệ thấy đau lòng thì cứ nói thẳng, vi huynh chẳng keo kiệt mà tặng đệ một câu hiếu thuận đâu.”
Việt Lâm Xuyên cười to, dìu y đứng lên, “Trong thiên hạ này cũng chỉ có Mạch huynh là nói chuyện vui tai thôi. Nhưng lần này lấy thân làm mồi kéo Sử Uyên xuống ngựa, có lẽ huynh thấy thi thú nhưng tiểu đệ lại thấy không đáng.”
Mạch Sở Địch nghe từng câu tất sát của hắn mà chỉ khẽ cười, “Sử Uyên làm tướng đã hai triều, nhân mạch thân tín rắc rối phức tạp, muốn kéo địa vị của lão xuống chỉ có ra tay với khoa cử. Sau án của Thái tử, thế lực của lão trong triều vỡ mất một nửa, thừa dịp làm chủ khảo lão bắt đầu trắng trợn chiêu mộ nhân lực. Cái cớ hoàn hảo đến thế dâng tận miệng mà vi huynh còn không biết tận dụng, sau này nằm mơ cũng sẽ hối hận, thổ huyết luôn đó.”
Việt Lâm Xuyên nghe Mạch Sở Địch nhại lại y hệt hai vế cuối của mình hôm nào thì bật cười, kéo Mạch Sở Địch ngồi lên ghế bành rồi ngồi xuống cạnh y, “Tuy nói như thế nhưng Mạch huynh cũng nên chọn vai sạch sẽ một chút. Để khiến Sử Uyên thả tay phạm tội, dặn dò đầy tớ thuận nước đẩy thuyền quả là kế sách cao minh nhưng sau khi chấm thi xong huynh nên lập tức vạch tội lão, thứ nhất có thể kéo Sử Uyên xuống nước, thứ hai có thể chứng minh bản thân mình trong sạch, bằng vào tâm cơ của Mạch huynh, hẳn là không sợ việc có-trăm-miệng-cũng-không-biện-bạch-được chứ nhỉ?”
“Ta vốn không biết Sử Uyên trù tính như vậy để hãm hại ta thì sao dặn hạ nhân nhận tờ giấy đó được?”
Việt Lâm Xuyên nghe vậy thắc mắc nhìn y.
Mạch Sở Địch mỉm cười, “Quản gia Thái Phỉ nhà ta rất thông minh thế nên khi hạ nhân phụ trách đưa thuốc thấy có người nhờ hắn truyền giấy, hắn liền tìm nàng xin ý kiến, Thái Phỉ không biết tờ giấy đó hữa dụng hay vô dụng với ta liền đặt giấy xuống dưới chén thuốc. Giỏ thuốc rất kín, nếu ta không lấy nó ra xem vậy chẳng ai biết trong đó có một tờ giấy, Thái Phỉ thấy ngày đầu tiên ta đã lấy tờ giấy đó mà không nói gì liền biết nó có ích, thế nên ngày nào cũng truyền vào.”
“Hạ nhân thì thông minh mà Mạch huynh lại hồ đồ, đến tận hôm nay mới vạch tội thành ra khó tránh khỏi hiềm nghi.”
“Chỉ có cái danh Lễ bộ Thượng thư phù du mà đổi được tính mạng của một nguyên lão hai triều, hiền đệ thấy đáng hay không đáng?”
Lòng Việt Lâm Xuyên lạnh toát.
“Bởi sau khi chết, chân của rết vẫn ngọ nguậy được. Bằng thâm niên và thân phận của Sử Uyên, nếu chỉ luận tội gian lận thi cử chúng ta kéo được lão xuống khỏi cái ghế Thừa tướng nhưng không thể nào diệt trừ tận gốc ảnh hưởng của lão trong triều. Mà hôm nay, lão đã thừa nhận mình thao túng cả hội thi, sửa đổi bài thi, khi quân phạm thượng tránh sao khỏi tội chết.”
Việt Lâm Xuyên chấp chưởng Ngục lệnh đã nhiều năm, vậy mà chưa từng gặp người nào không tiếc kéo mình xuống nước chỉ để dồn đối thủ vào đường cùng như y, lòng không khỏi sợ hãi. Qua một lát mới nhớ ra, những điều này đều vì Dục Sơ cả, trong lòng lại sinh thương hại.
“Nhưng… kể từ giờ, Mạch huynh đã rơi vào miền ‘đáng ghét’ của Hoàng thượng rồi, sau này e khó trở lại lòng Người.”
Mạch Sở Địch buông mắt, “Hiền đệ nghĩ xem, vi huynh còn sống thêm được mấy năm?”
Giọng nói ấy rất bình thản, như thể sinh mệnh y thật sự chỉ là làn khói, phút chốc sẽ tan biến ngay trước mắt. Việt Lâm Xuyên sợ hãi, kinh ngạc nhìn Mạch Sở Địch.
Người đối diện thấy hắn như vậy, khẽ khàng mỉm cười, “Vi huynh biết, đệ là người khẩu xà tâm phật, việc gì cũng phải hiểu rõ đến từng chân tơ kẽ tóc, là quan giám ngục thượng đẳng. Tam điện hạ lúc nào cũng bênh vực cho đệ bởi ngài ấy biết đệ là người có thể gánh vác trọng trách. Nhưng cái miệng chết người thế này, vi huynh khuyên đệ nên quản lý chặt chẽ hơn. Đệ vốn biết gặp ai phải nói gì, không ngờ đêm Lục điện hạ đại náo Đại Lý tự đệ lại dám chống đối như vậy, nếu Lục điện hạ thật sự giơ đao chém xuống, dù đệ được nói đã miệng một lúc, nhưng không có đầu thì những ngôn từ sắc sảo đó làm sao mà thốt ra?”
Việt Lâm Xuyên hất tay, bực bội nói: “Mới gọi huynh là huynh vài ngày mà đã lắm miệng hơn cả Lục sư phụ ta, không ngờ một ‘tiền’ Lễ bộ Thượng thư cả ngày chỉ biết chăm hoa giỡn cỏ lại có hệ thống tin tức linh thông đến thế.”
“Hoàng thượng chưa hạ chỉ miễn quan đâu, mồm miệng của đệ chẳng biết tích đức gì cả.” Mạch Sở Địch vừa nói vừa lắc đầu cười, “Vụ đó của Đại Lý tự đã truyền khắp hang cùng ngõ hẻm cả kinh thành, thậm chí còn phổ thành hí văn từ lâu, dù là vi huynh chẳng muốn nghe nhưng đâu thể chặn được âm thanh lọt qua tai. Nói ra thì, cữu huynh đại nhân cũng ngang vai vế với ta, y chẳng trị được đệ, vậy để ta khuyên đệ hai câu cũng phải thôi.”
Việt Lâm Xuyên đột nhiên xoay người lại, ôm lấy vai Mạch Sở Địch nhìn vào mắt y, “Ngày ấy huynh muốn ta trở thành một người bạn mà đôi bên có thể nói lời thật lòng, nhưng bây giờ tiểu đệ ngày càng không biết lời nào Mạch huynh nói là thật, lời nào là giả nữa rồi.”
Mạch Sở Địch ngẩn ra.
“Thấy ta lo lắng cho huynh, nói đùa mấy câu rồi chuyển đề tài cũng là lẽ đương nhiên, nhưng những lời đó vòng đi vòng lại cũng chỉ có ân huệ của Tam điện hạ với ta, mối thù cũ của Lục điện hạ với ta, còn cả thanh danh của Lục điện hạ trong kinh thành. Lời của Mạch huynh, phải nói là thâm ý trùng trùng.”
Mạch Sở Địch nhìn hắn một thoáng, buông mắt.
Việt Lâm Xuyên nói tiếp: “Những lời đó nghe gượng gạo lắm, nói đùa mà nghe chẳng giống phong cách Mạch huynh bình thường, cứ như biết mạng mình chẳng còn lâu nữa, phó thác cho tiểu đệ trước lúc lâm chung, Mạch huynh… đã giấu đệ những gì?”
“Bệnh của vi huynh ngày càng nặng thêm, ngày nào cũng ho ra máu, nếu bị trục xuất khỏi kinh quả thật không còn mạng mà về, thực sự là mạng chẳng còn lâu nữa.”
Việt Lâm Xuyên nghe vậy mỉm cười, vỗ vai y: “Mạch huynh lo xa rồi, lúc dâng tấu tiểu đệ nhất định sẽ cân nhắc cẩn thận, bình thường Hoàng thượng cũng rất tán thưởng tài hoa của huynh, chuyện nhỏ này cùng lắm là giáng chức, huống chi Tam điện hạ còn ở trong triều, nhất định không đến mức trục xuất khỏi kinh đâu.”
“Nếu vi huynh nói, điều vi huynh muốn là bị trục xuất khỏi kinh thì sao?”
Tay Việt Lâm Xuyên siết chặt, trừng mắt nhìn y.
“Lời khai của vi huynh hiền đệ đã đọc chưa?”
Sáng nay Việt Lâm Xuyên thăng đường thẩm vấn Mạch Sở Địch, chưa kịp nhìn bản cung khai của y, bấy giờ mới lấy đơn kiện ra khỏi bàn, vội vã đọc lướt qua, không chỉ buồng phổi thiếu khí mà ngay cả bàn tay cầm tờ giấy Tuyên cũng run rẩy tới mức nó kêu sột soạt —— “Huynh… huynh nhận tội? Ngay cả những lời nhớp nhúa của Ngạc Hằng Xuân cũng…”
“Những bông súng xanh lam trong phủ ta quả thực được Việt châu mục mua từ Thiên Trúc, phái người ngàn dặm xa xôi tới tặng.”
“Lãng phí ngàn dặm chỉ vì mười chậu hoa sen? Hoa sen tàn rồi mới có hạt, ngày ấy thứ được gửi tặng nhất định là hạt sen.”
Mạch Sở Địch kinh ngạc vì hắn thông minh đến thế nhưng chỉ ngẩng đầu một thoáng, không đáp lời.
“Còn Ngạc Hằng Xuân… Gã muốn vấy bẩn thanh danh của huynh, kéo huynh xuống bùn… Muốn nhục mạ huynh bằng mấy lời sáo rỗng, huynh…”
“Thời gian địa điểm, ngay cả số lần nói chuyện với nhau cũng chính xác, sao hiền đệ biết không phải sự thật?”
“Một tay ăn chơi như gã, nếu thật sự cùng với huynh… Nếu nhớ được từng lần gặp mặt như thế, tất có chân tình, nếu đã có tình sao có thể khai huynh ra, tất cả chỉ là vu oan giá họa, vừa nhìn đã biết rồi… Dù huynh nhận tội nhưng ai sẽ tin!”
“Vi huynh biết không thể gạt được Việt hiền đệ cho nên mới tới nói rõ cho đệ nghe, mong hiền đệ giúp vi huynh giấu Tam điện hạ.”
Việt Lâm Xuyên tức đến giậm chân, “Ta vào Đại Lý tự bảy năm, chưa bao giờ gặp phạm nhân nào như ngươi! Rốt cuộc ngươi nghĩ gì vậy!”
Mạch Sở Địch từ tốn nói: “Thứ cho vi huynh bất kính, nếu như, nếu như cữu huynh đại nhân mắc căn bệnh chết người, muốn để Việt hiền đệ được sống thoải mái, y nên chết khi tình sâu nghĩa nặng hay nên chết khi tình nghĩa đã cạn? Nên chết nơi chân trời hay chết ngay trước mắt?”
“Huynh vì ——” Việt Lâm Xuyên chợt đờ cả người, rồi phút chốc đôi mắt hắn ánh lên vẻ đau đớn khôn tả, song lại như thương hại, “… Huynh vì Tam điện hạ… làm đến nước này?”
Mạch Sở Địch đứng dậy cúi người thật sâu, “Ngày tháng còn lại của vi huynh không dài, mong hiền đệ thành toàn.”
Trong phòng im lặng hồi lâu Việt Lâm Xuyên mới khẽ nói: “Dù gì cũng là mạng của huynh, huynh muốn thế nào thì cứ thế đi.”