Tư Mã Khôi linh cảm thấy tình hình không ổn, anh thầm nghĩ – những chuyện Nhị Học Sinh kể phù hợp thực tế đến chín mươi chín phần trăm, nhưng dẫu chỉ một phần trăm còn lại là giả dối, thì cũng đủ đẩy đội khảo cổ rơi xuống hố sâu không đáy rồi.
Lúc này, Thắng Hương Lân lại hỏi Nhị Học Sinh thêm vài chuyện nữa, được biết các “gian phòng” trong tổ chức Nấm mồ xanh đều được đánh số, kẻ cầm đầu gọi là “căn phòng số ”, sự tồn tại của hắn khiến số lượng các thành viên trong tổ chức không ngừng phát triển để đủ cung cấp phòng cho Nấm mồ xanh trú ngụ và thâm nhập đến mọi ngóc ngách trên thế giới. Tuy nhiên, miếu thần của người Bái Xà nằm dưới cửu tuyền, cách xa lớp vỏ Trái đất, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của địa từ trường, nên hắn không thể liên lạc được với Entroypy đang bị tấm bia đá nhốt trong hắc động. Điều không may hơn là “căn phòng số ” đời cuối cùng đã vô tình làm lộ ra khuôn mặt thật của mình.
Đó là vào năm , sau khi “căn phòng số ” đương nhiệm chết đi, thi thể hắn được đặt nằm trong chiếc hòm gỗ hóa thạch, chôn ở khu mộ địa lộn xộn những mộ táng. Trước đây, cái hòm đó dùng để đựng Lôi công mặc trong miếu, vì sự việc xảy ra quá đột ngột, nên tổ chức chưa kịp tìm “căn phòng số ” kể nhiệm, rồi cỗ thi thể với hình dạng quái dị ấy bị bọn thổ tặc đào trộm mộ móc lên, chẳng bao lâu sau, chuyện này bị quân đội phát hiện và sinh nghi, họ đưa chiếc hòm gỗ hóa thạch lên máy bay vận tải Hải Âu C - vận chuyển đến chỗ quân liên minh. Tuyến đường bay được xác định từ hướng nam sang hướng tây bắc, nhưng giữa đường chiếc máy bay đột ngột mất tích, không thấy bóng dáng đâu nữa, mãi mười năm sau người ta mới phát hiện thấy xác máy bay ở sa mạc Lopnor.
Chiếc máy bay vận tải hàng không Douglas C - có biệt danh Hải Âu chính là chiếc máy bay bị mất tích mà đội khảo cổ của Tư Mã Khôi gặp trong chiếc hộp thời gian, bởi vì mọi sự vật bị rơi vào chiếc hộp thời gian sẽ hoàn toàn biến mất trong một khoảng thời gian ngoài đời thực, nên cũng có thể nói hội Tư Mã Khôi đã từng chết một lần, mãi cho đến khi cả hội thoát được ra ngoài. Lúc ấy, Triệu Lão Biệt trốn vào trong khoang máy bay C - trước, lão nhìn thấy trên mép hòm dán niêm phong các dải phù chú, nên tưởng nhầm là Lôi công mặc mà mình ngày ước đêm mong, lão vội vàng mở ra xem, chẳng ngờ bên trong là một khối gì đen thù lù, được gói trong túi da lớn, lúc ấy lão bị đội khảo cổ đuổi theo quá gấp nên không có thời gian phân biệt kỹ lưỡng, đành kéo cả bao bò từ khoang trước ra bên ngoài, nào ngờ vừa mới ló mặt ra đã bị cơn cuồng phong cuốn đi. Trong khoanh khắc đó, lão nhìn thấy vị thần cổ xưa khắp thân thể mọc toàn những con mắt đang ẩn hiện trong vực thẳm sâu hút, lão sợ hết hồn vía, đâu còn để ý đến cái tải da đựng thi thể kia nữa. Sau khi lão thoát ra khỏi chiếc hộp thời gian, thi thể của “căn phòng số ” cũng mất tích kể từ đó, bởi vì một khi thi thể nằm trong chiếc máy bay vận tải C - rời khỏi nơi đây, nó sẽ vĩnh viễn biến mất theo dòng khí nhiễu động phía ngoài thời gian. Từ đó, tổ chức Nấm mồ xanh không còn “căn phòng số ” nữa, số lượng các “gian phòng” càng ngày càng giảm, trên thực tế, tổ chức này đã bước đến mạt lộ. Nào ngờ trong hoàn cảnh tưởng chừng hoàn toàn tuyệt vọng, Nấm mồ xanh lại thâm nhập được xuống cửu tuyền nhờ sự trợ giúp của đội khảo cổ, nghĩ lại tất cả những chuyện đó đều là sự run rủi của số phận.
Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể mà đứng lặng người, đau như thể vừa bị ai đánh một cú vào mặt, những chuyện xảy ra đều đã trở thành sự thật, không thể cứu vãn được nữa, may nhờ Tư Mã Khôi hành sự cẩn trọng, kịp thời gỡ bỏ dây dẫn nổ của cuộn thuốc pháo, nếu không cả hội đã lỡ tay phá hủy mất tấm bia đá, đó mới là tai họa trời giáng, bây giờ cả đội khảo cổ đều bị nhốt đến chết trong động, tuy vậy có thể khiến Entroypy cùng chết với mình, thì cũng coi như không uổng phi.
Thắng Hương Lân cho rằng sự việc không dễ kết thúc như thế, nhưng cô không thể phân biệt nổi lời nào Nhị Học Sinh nói lời nào là giả, lời nào mới là thật.
Tư Mã Khôi nói với hội Thắng Hương Lân: “Quá nửa chuyện Nhị Học Sinh kể đều là sự thật, có điều con người này không đáng tin, hắn nói mình là ma, nhưng tôi thấy hắn chính là Entroypy, là thứ tá thi hoàn hồn, nên làm sao hắn có thể mang ý tốt với chúng ta được? Mọi thứ xảy ra trong động tất cả đều nhàm mục đích ép chúng ta ra tay phá hủy tấm bia đá”.
Hải ngọng thắc mắc: “Nhưng giờ thuốc nổ đã mất tác dụng, nếu chỉ dựa vào sức của mấy người chúng ta, dẫu có muốn xô đổ tấm bia thì khác nào châu chấu đá voi?”.
Tư Mã Khôi nhất thời không thể đoán được rốt cuộc đối phương muốn gì, đột nhiên anh nhìn thấy đèn hỏa diệm nhiệt độ cao mà Cao Tư Dương đang cõng trên lưng, một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu, chùm sáng của loại đèn này phát ra còn mạnh hơn lửa cồn, ngay cả quái thú tiền sử khổng lồ nằm săn mồi ở đáy hồ pha lê mà đội khảo cổ gặp phải lúc trước cũng bị chùm sáng của ngọn đèn thiêu rơi mất sọ, nhưng tấm bia đâu phải sinh vật sống, dẫu có dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào, thì cũng chẳng thể xuyên qua nổi tấm bia dày đến thế, huống hồ khắp tấm bia đều khắc chi chít chữ cổ, tấm bia lại cao to sừng sững đến vậy, cho dù đốt được mấy hàng chữ thì vô số chữ còn lại cũng vẫn đủ sức nhốt Entroypy trong động mãi mãi.
Nét mặt Nhị Học Sinh buồn rầu đến thảm hại, hắn nói với Tư Mã Khôi: “Anh không tin tôi thì thôi, khoảnh khắc các anh vượt qua tấm bia đá, bước vào trong động đạo thì số phận đã định đoạt các anh không thể trở về rồi, dẫu có phá hủy tấm bia đá thì mọi người cũng bị Entroypy nuốt chửng, huống hồ giờ đây đội khảo cổ không còn thuốc nổ, nên càng trở thành vật vô giá trị với Entroypy. Tôi biết cả quá trình nguyên nhân kết quả của chuỗi sự việc nên có ý tốt muốn các anh cũng được biết rõ trước khi chết, như thế lòng tôi sẽ thấy thanh thản hơn, đợi khi thời gian ở đây trôi đến điểm tận cùng, thì cả thể xác và linh hồn chúng ta đều bị tiêu diệt, sao tôi còn phải nói dối để lừa các anh làm gì?”
Tư Mã Khôi vẫn không thèm đếm xỉa đến lời của hắn, anh khẳng định gã Nhị Học sinh này chính là con yêu quái trong động biến thành, mục đích của nó là dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá, nhưng không hiểu rốt cuộc nó sẽ thực hiện điều đó bằng cách nào?
Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi im lặng, thì quay sang hỏi Cao Tư Dương: “Lẽ nào đến cô cũng không tin tôi sao? Ban đầu tôi ăn thịt người chết ở lâm trường Đại Thần Nông Giá cũng chỉ vì khẩn thiết muốn được sống, thử hỏi trên đời này có người nào không sợ chết cơ chứ? Nhân lúc hãy còn thời gian, tôi muốn nói với mọi người một vài chuyện vô cùng quan trọng…”
Cao Tư Dương nhất thời không biết phải nói gì, cô nghĩ đi nghĩ lại và thấy rằng mình nên tin lời Tư Mã Khôi thì hơn, vì Tư Mã Khôi chưa bao giờ làm sai điều gì.
Tư Mã Khôi vẫn không nói gì, anh chỉ nghĩ thầm: “Nếu tôi chưa bao giờ làm sai, thì đã chẳng rơi vào bước đường ngày hôm nay”.
Hải ngọng nói chen vào: “Ai nói trên đời này không có ai không sợ chết hả? Ông Hải ngọng đây từ khi bỏ nhà ra đi vào khu Hắc ốc, dựa vào nắm đấm để dẹp mọi chuyện bất bình, nói chơi chứ dăm ba thằng nhào vô cũng chẳng động đến được sợi lông chân của ông. Sau đó đến Miến Điện làm bộ đội tác chiến, dao súng cắt tay tiện chân như cơm bữa, trận chiến nào ông chưa từng gặp hả? Thế mà mày có thấy ông nhăn mày kêu đau bao giờ chưa?”
Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà mở đài thì chẳng bao giờ muốn nhấn nút tắt, thế là anh bèn giơ tay lên ra hiệu bảo cậu ta đừng nói gì nữa, lúc này anh đã tính đến nước xấu nhất, anh dự đoán tấm bia đá Bái Xà trước sau gì cũng sẽ sụp đổ, tuy bây giờ vẫn chưa nghĩ ra được nguyên nhân, nhưng sự việc nhất định sẽ diễn tiến theo chiều hướng để xảy ra kết quả ấy, còn Nhị Học Sinh đứng đây con cà con kê với cả đội chẳng qua vì muốn cố tình kéo dài thời gian, mưu đồ làm tiêu hao toàn bộ pin đèn quặng của đội khảo cổ trước khi tấm bia đá bị phá hủy. Đến lúc đó, thứ nằm cuối động sẽ lập tức từ dưới lòng đất thoát ra ngoài, trong khi mọi người lại đang chìm trong bóng tối. Tới nước ấy thì ngay cả một phần vạn cơ hội thoát thân cũng đừng nghĩ đến. Trong huyệt động dưới lòng đất này, thò tay ra còn chẳng nhìn thấy ngón, môi trường khắc nghiệt khiến tốc độ tiêu hao của pin đèn nhanh gấp mấy lần so với ở điều kiện bình thường, số pin đèn còn sót lại của đội khảo cổ chẳng còn đủ duy trì trong bao lâu nữa, bởi vậy giờ là lúc không được phép nấn ná chần chừ. Ngoài ra, đối phương chủ động tiết lộ những ẩn số này cũng đủ chứng minh hắn không còn e sợ bất cứ điều gì nữa, giờ bốn thành viên của đội khảo cổ chẳng khác nào kiến đang bò trong miệng chén.
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây liền quyết định lựa thời cơ hành động, nhưng nếu cứ không làm gì để phá vỡ cục diện căng thẳng hiện tại, thì cũng sẽ chẳng có cơ hội nào tự dưng rơi xuống, thế là anh lập tức ra hiệu cho mọi người ra tay hành động. Anh bảo Cao Tư Dương chuẩn bị dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào Nhị Học Sinh, chiếc đèn này là phát minh của “Kỹ sư” trong đội thám hiểm Corot Maar. Thời kỳ chiến tranh lạnh, đủ các loại vũ khí trang thiết bị chiến tranh kỳ dị cổ quái xuất hiện nhan nhản trên các chiến trường, Tư Mã Khôi cũng tự cho rằng mình nhìn thấy không ít loại vũ khí lợi hại, nhưng loại đèn phun lửa nhiệt độ cao này thì anh chưa nhìn thấy bao giờ, mà uy lực của nó thì đúng là vô cùng khiếp người. Anh nghĩ bất kể đối phương là loại yêu quái nào, chỉ cần bị chùm sáng nhiệt độ cao này chiếu vào, thì nó cũng lãnh đủ.
Hải ngọng và Thắng Hương Lân từ trước đến giờ đều sống chết theo Tư Mã Khôi, tiến cùng tiến mà lùi cùng lùi, nên cả hai lập tức theo anh tiến lên, duy có Cao Tư Dương là hơi do dự một chút, nhưng cuối cùng cô cũng vẫn cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao đi theo chân anh.
Nhị Học Sinh không ngờ Tư Mã Khôi lại chẳng đánh bài như lẽ thường, anh hoàn toàn triệt đường thương thảo giữa đôi bên, trong lúc vội vàng, hắn cuống quýt lui về phía sau khám thần.
Nào ngờ, Hải ngọng còn ra tay nhanh hơn, anh bước lên bệ đá trước một bước, đảo ngược báng súng, dùng hết sức quất thẳng vào đầu Nhị Học Sinh, xương cổ hắn kêu “rắc” một tiếng, cái đầu bị báng súng đánh trúng liền quay một vòng °, trong khi thân dưới vẫn không hề xê dịch nửa bước, lúc khuôn mặt quay trở về vị trí cũ, tử khí trên gương mặt của hắn càng toát ra nặng nề hơn, hai mắt nhìn chòng chọc vào Hải ngọng ánh lên tia độc địa, oán hờn, đột nhiên hắn há ngoác cái miệng đen ngòm ra.
Hải ngọn giật nảy mình, vội vàng né sang một bên mà quên mất mình đang đứng trên bệ đá của khám thần, lúc lùi về sau, chân anh bước hụt vào khoảng không, Hải ngọng vội hét lên thất thanh: “Ối mẹ ơi”, rồi ngã ngửa xuống mặt đất.
Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân vội vàng chạy lại hai bên tiếp ứng, lần lượt chĩa họng súng vào Nhị Học Sinh bắn liền mấy phát, đạn bay “chíu chíu” trong gian đại điện tối om, găm thẳng vào người Nhị Học Sinh, nhưng vẫn không thể ngăn được tốc độ của hắn đang nhào về phía Hải ngọng.
Lúc này, Cao Tư Dương cũng đến gần khám thần, lúc trước cô còn hơi do dự, nhưng khi thấy khuôn mặt Nhị Học Sinh toát ra vẻ độc ác và luồng tử khí nặng nề, thì cô không dám chậm trễ nữa, đầu ngọn đèn hỏa diệm nhiệt đột cao vẫn đang gác trên vai, cô vội vàng mở nắp đèn, chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh.
Nhị Học Sinh dường như ý thức được mức độ lợi hại của vật này, hắn sợ hãi, sắc mặt thay đổi hẳn, miệng không ngừng phát ra những tiếng kêu “khục khục” đầy quái dị.
Chiếc đèn này bị rơi từ trên khinh khí cầu xuống nên đã bị hỏng khá nặng, hình như chạm mạch thì phải, sửa mãi mà không được, trên đường đi lúc dùng được lúc không. Giờ đây, Cao Tư Dương soi đèn về phía Nhị Học Sinh, nhưng ngọn đèn chẳng hề phát ra chút tia sáng nào, chỉ có đèn quặng gắn trên chiếc mũ liễu là chiếu thắng vào khuôn mặt đối phương ở cự ly gần.
Dường như Nhị Học Sinh rất sợ bị đèn chiếu vào, hắn không dám để mình lộ ra phạm vi chiếu sáng của ngọn đèn, nên quay người tụt xuống khám thần và lẩn về phía sau.
Hải ngọng thấy Nhị Học sinh trốn sau khám thần, anh lập tức nhảy lên, gân nổi cuồn cuộn khắp người, gắng sức nâng cả khám thần được đẽo từ tảng đá khổng lồ lên, định đẩy nó đè chết Nhị Học Sinh, song khám thần nặng ngàn cân nên, tuy Hải Ngọng có sức khỏe phi thường, thì cũng chỉ nhấc nó lên được ° thì đã thấy hai vai tê dại, khí huyết trong lồng ngực như muốn chảy ngược, phun ra khỏi miệng.
Hội Tư Mã Khôi thấy vậy cũng vội ghé vai hợp sức, hét vang một tiếng như sấm rền, rồi cả hội nhấc được khám thần lên, Nhị Học Sinh không trốn kịp, hắn bị cả tảng đá khổng lồ đổ sập xuống người, thoáng chốc đã biến thành đống thịt nát bấy máu, không thể động đậy nổi nữa.
Mọi người thấy ngón tay lộ ra phía dưới tảng đá vẫn không ngừng cử động, thì cùng cúi xuống kiểm tra, đột nhiên cái đầu nát bét của Nhị Học Sinh chui ra khỏi khám thần như một con rắn.
Cao Tư Dương khiếp đảm đến cực độ, trong tay vẫn cầm đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, cô vội vàng chiếu thẳng vào Nhị Học Sinh, cuối cùng thì lần này cái đèn cũng không hỏng nữa, chùm sáng còn mạnh hơn lửa chiếu đi, cái đầu bẹp dúm của Nhị Học Sinh tự nhiên biến mất, nhưng cũng trong khoảnh khắc chùm sáng phụt ra, toàn bộ đèn nến trong và ngoài điện, bao gồm cả đèn quặng gắn trên mũ bốn thành viên đội khảo cổ đều nhạt nhòa dần đi, trước mắt tối đen chẳng khác nào đít nồi.
Mọi người thất kinh, quả nhiên đội khảo cổ vẫn chưa bước ra khỏi kẽ hở trong động không đáy, thời gian đang quay vùn vụt về thời điểm mười một giờ đúng, đồng thời đưa đột khảo cổ đến nơi mà Tư Mã Khôi vứt chiếc hộp thiếc. Entroypy có thể tự do dịch chuyển thời gian trong kẽ hở theo ý muốn, mà không cần đến yếu tố Nhị Học Sinh sống hay chết, và cũng chẳng liên quan gì đến vị trí mà đội khảo cổ đứng trong động không đáy, chỉ cần nó thấy mọi người có hành động nào có khả năng phá hủy được tấm bia, thì sẽ lập tức sẽ khiến cho thời gian trong động không đáy lập tức quay ngược lại, đem theo bốn người trở lại nơi cửa động gần tấm bia đá để việc bia đá bị phá hủy càng dễ dàng trở thành sự thực như ý nó.