Hội Hiệp Sĩ Cladius.
Họ nổi danh trên mọi vùng miền, nhờ quyền lực vô song mà họ đang nắm giữ. Đây là một tổ chức được biết đến về sự giàu có cùng với tiềm lực quân sự hùng mạnh.
Trong quá khứ, họ tập trung một đội quân và phát động nhiều cuộc viễn chinh nhằm giành lại vùng đất thánh nằm ở phía Đông. Và đó là cột mốc đánh dấu sự ra đời của Hội Hiệp Sĩ Cladius.
Vùng đất hứa được ghi trong kinh thánh, Kuldarus, nhưng những kẻ ngoại giáo đã đánh chiếm, chà đạp lên vùng đất này từ rất lâu rồi.
Giáo Hoàng, Franjeans Đệ Tứ, không thể chấp nhận chuyện này và đã ra tay hành động để chống lại những kẻ ngoại giáo, sử dụng thuyết thần học nổi tiếng được biên soạn bởi nhà thần học lỗi lạc - Vị Thánh của Amelia mang danh Jubel. Ông gọi hành động giành lại đất đai là một cuộc thập tự chinh để thể hiện rằng, ngay cả khi đưa quân tiến công xâm lược, họ vẫn sẽ nhận được sự tha thứ từ Chúa trời.
Hai mươi hai năm đã trôi qua kể từ lúc cuộc chiến bắt đầu, và đến giờ nó vẫn chưa có dấu hiệu ngã ngũ.
Vô số người đàn ông mặc bộ giáp mang trong mình biểu tượng của Giáo Hội, thậm chí môt số còn in hằn nó trên da bằng màu mực - những người tiến vào chiến trường phía đông, cùng với vũ khí cầm trên tay. Các hiệp sĩ đi cùng với các tín đồ chống gậy thực hiện cuộc hành hương, mong muốn thân xác mình được chôn cất trên vùng đất thiêng liêng được đề cập ở trong Kinh Thánh.
Tiền thân trước đây của Hội, chính là Hội Ái Hữu Cladius, một tổ chức cung cấp các dịch vụ tương tự với của một bệnh xá - cụ thể ở đây là cung cấp chỗ ở và chăm sóc y tế - cho những người đi đến vùng đất thánh, các binh sĩ mới chân ướt chân ráo trên chiến trường, hay các vị tín đồ đang hành hương.
Tuy nhiên, đã có khá nhiều người chết vì bị thương nặng hay bệnh tật trước khi chạm chân đến vùng đất này.
Họ vẫn kịp để lại di chúc, sẽ để lại toàn bộ tài sản của mình cho Hội Ái Hữu Cladius, và sau đó rời bỏ thế giới này.
Nhờ đó, Hội có được một khối tài sản lớn, sự giàu có của họ ngày càng một tăng lên. Cần thiết để tăng cường sức mạnh cho các đội quân độc lập của hội. Nhưng rốt cuộc, những tu sĩ hiền lành ngày càng biến chất và trở thành những hiệp sĩ tham lam. Họ không hài lòng với những yêu cầu cuối cùng của các tín đồ sùng đạo, và với lòng tham lam của mình, họ dần trở thành một tổ chức hám lợi của cải.
Vào thời điểm này, tiền tài và số lượng các tín đồ đã vượt quá đầu não của Giáo Hội, phe phái của Giáo Hoàng. Không có một người nào trên quả đất này có đủ sức mạnh để địch lại các Hiệp Sĩ Cladius, những con người nắm giữ sức mạnh quân sự áp đảo đến như vậy.
Mặc dù các tin đồn xung quanh đến Kusla đều bị phóng đại quá mức, tuy nhiên sự thật là Kusla đã bốn lần bị treo án tử bởi Giáo Hội, và trong bốn lần đó cậu đều thoát chết trong gang tấc. Thế mới chứng minh rằng, đối với Hội Hiệp Sĩ, chỉ cần cảm thấy Kusla vẫn còn có giá trị lâu dài, thì ngay cả Giáo Hội cũng khó mà thiêu sống cậu.
Và điều này cũng đúng với Kusla, nếu lợi ích vẫn còn, thì cậu vẫn sẽ chấp nhận dâng hiến đời mình cho Hội Hiệp Sĩ như một nhà giả kim. Đây là điều mà Kusla tự nguyện, để bằng mọi giá, bước chân được tới Miền Đất Magdala.
Rốt cuộc, cậu vẫn không có một lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo con đường của một nhà kim thuật và miệt mài nghiên cứu nó. Tuy nhiên, các nghiên cứu này yêu cầu rất nhiều tiền, nguồn nguyên liệu nhiều đến vô kể, một lượng lớn thời gian cùng với quyền lực để bảo vệ cậu ta khỏi mọi sự nguy hiểm. Nếu cậu ta không còn sự bảo hộ của Hội Hiệp Sĩ, điều này sẽ không thể thực hiện được.
Vì thế, cậu phải làm việc cho Hội đoàn như một chú cừu vâng lời. Hành động ném xương của thánh thần vào trong lò nung của cậu ta để thấy một thành quả khác của sự nấu luyện về cơ bản đã là hành động tự sát; sẽ không cảm thấy lạ nếu như cậu ta bị bỏ rơi.
Sau khi được thả khỏi tù giam, cậu ta khởi hành đến thị trấn phía bắc của Gulbetty đúng lúc giữa mùa đông lạnh lẽo. Trên xe ngựa, cậu sực nhớ cuộc đối thoại với lão hiệp sĩ già, cái chết của Friche và khuôn mặt của ông.
"Heh."
Kusla nở một nụ cười gượng gạo.
Thật không may, cậu ta đã thất bại.
Kusla từng nghĩ vẫn có khả năng mà kế hoạch đó thực sự thành công. Ngay cả sau khi đổ xương của các vị thánh vào trong lò nấu trong nỗ lực tinh luyện kim loại có chất lượng tốt hơn, cậu đã có thể được cứu thoát, nhưng cậu đã rất hoảng loạn khi nghe tin về cái chết của Friche. Vì quá buồn bã, đến nỗi cái tên này còn không biết mình đang làm dở việc gì. Những lý do trên, cộng thêm những gì đã đạt được đến thời điểm này, đã giúp cậu thoát khỏi án tử hình.
Nếu không vì vậy, cậu đã không chọn đi trên con đường nguy hiểm này rồi.
"...Mình đã bỏ lỡ một cơ hội vàng rồi."
Kusla lẩm bẩm cùng với tiếng thở dài yếu ớt.
Một điều hoàn toàn đúng là, khi tinh luyện kim loại, việc đốt xương cốt có thể thay đổi kết quả của quá trình. Lúc đó, người ta sẽ dùng tro để thay thế cho xương.
Tuy nhiên, lời nói của ông hiệp sĩ già kia ít nhiều thì vẫn đúng, Friche là một cô gái rất tốt, và cho dù cậu có mơ hồ đoán ra cô ấy là gián điệp, thì nụ cười ngây thơ đó vẫn khiến anh bị mê hoặc. Đã rất lâu rồi anh mới gặp một người mà tạo cho anh cảm giác vui vẻ khi có người ấy ở bên.
Vì thế khi bị hỏi trúng về sự u sầu của mình, Kusla không đủ tự tin để trả lời câu hỏi đó.
Các nhà giả kim thuật ban đầu tin vào sự luân hồi - rằng mọi thứ trên trái đất đều không ngừng thay đổi. Con người vẫn phải chết đi, đó đã là một trạng thái tự nhiên mang tính đặc trưng, và cái cũ sẽ thay thế thành cái mới mẻ trong tất thảy mọi thứ - bởi vậy, cậu luôn tin rằng chì có thể trở thành vàng, và mọi giấc mơ liều lĩnh đến ngu ngốc vẫn có thể trở thành hiện thực.
Nhưng sự thay đổi thì không chờ đợi một ai.
Và rồi, chuyến đi đã kết thúc. Vùng hông của Kusla bị cứng đờ vì ngồi quá lâu, nhưng cuối cùng chiếc xe ngựa cũng đã dừng lại. Người đánh xe im lặng suốt cả chuyến đi, bây giờ mới lên tiếng.
"Đến nơi rồi đó."
"..."
Kusla bước ra ngoài xe ngựa, và việc cậu ta làm đầu tiên đó sau khi rời khỏi đó lại là duỗi người.
Mười ngày qua cậu phải ngồi trong xe ngựa để tránh bị người qua đường nhìn thấy.
Có rất nhiều cuốn sách cậu phải đọc trong suốt chuyến đi, vì thế cái sự buồn chán vẫn giữ ở một mức độ vừa phải, mặc dù cơ thể cậu dần trở nên đau nhức. Cậu ta cảm thấy sẽ ổn hơn nếu chuyến đi này được tiếp tục.
Ngoài trời thì vẫn lạnh nhưng khá tạnh ráo. Theo như cậu biết thì sự trong lành của bầu không khí này chỉ đặc biệt có vào mùa đông.
Phiên chợ buổi sáng dường như đã vãn, và những người nông dân, có thể từ các làng ở xung quanh khu này, đang thong thả dẫn gia súc về nhà sau khi ngày đã tàn. Dường như mọi thứ vẫn ổn đối với Kusla, và trong cuộc sống thường ngày của những người dân ở thị trấn, sự thay đổi duy nhất chỉ đến từ những mùa vụ; tất cả mọi người đều có gia đình để đoàn tụ mỗi ngày.
Cô gái đã bày tỏ sự quan tâm đến cậu trong quá khứ, ắt hẳn, là một gián điệp. Cu cậu nhận ra mình đã phải lòng cô ấy, nhưng cô đã bị giết chỉ sau khoảnh khắc cậu ta quay lưng lại với người con gái ấy.
Kusla không nghĩ đây là một điều đáng thương hại hay đau buồn. Cậu xem xét những khả năng phải chịu cảm xúc tiêu cực nhiều hơn bất kì ai. Mặc dù số phận của Friche thật đáng thương, và nếu cô có thể hồi sinh lại thì tuyệt vời biết mấy, nhưng Kusla vẫn phải bình tĩnh ngay cả khi tận mắt chứng kiến cái chết của nàng. Điều cậu ta còn lại bây giờ đó là câu hỏi: "Cái chết của Friche có thể được sử dụng cho giả kim thuật của cậu như thế nào?"
Kusla tự hỏi liệu đây là lý do tại sao cậu lại cảm thấy nhói đau trong lồng ngực khi nghĩ về cô ấy không. Không còn nỗi buồn nào kéo dài, và cậu ta không cần phải lo lắng nữa. Có lẽ khoảng cách cảm xúc sâu sắc trong lòng của cậu còn làm cậu đau đớn hơn cả chính cái chết của Friche.
Mong muốn thật quá xa vời. Kusla thở dài sau khi rời khỏi trạm kiểm soát của thành phố. Cậu chỉ được xác nhận danh tính bởi một người lính gác duy nhất, và túi của cậu còn không hề có dấu hiệu bị lục soát; vừa rồi là một vài đặc quyền đặc biệt mà chỉ những Hiệp Sĩ mới có. Hầu hết thành viên trong hội đồng đều bị áp bức dưới quyền lực của Hội Hiệp Sĩ. Và đối với những công dân sống trong thị trấn mới nổi này, thì điều đó không có gì đáng để thích thú cả.
Vì lẽ đó mà họ thường nhìn các Hiệp Sĩ với một vẻ bất mãn. Nhưng lý do mà Kusla có thể đi qua một cách vô tư lự bởi vì cậu có thân thế của một nhà giả kim, và người dân của thị trấn này đều chung một quan điểm rằng thà lập âm mưu với một tên dị giáo còn hơn phải dính líu đến một tên làm kim thuật.
Lưng của Kusla vẫn còn ê ẩm sau mười ngày ngồi trên xe ngựa; cậu ta phải kỹ lưỡng trong mỗi bước đi để tránh làm cơn đau của mình thêm tồi tệ.
Tường thành bao quanh thành phố khá dày, và ở gần cổng thành có rất nhiều trạm cung cấp dịch vụ y tế cho lính gác. Bọn lính canh gác ở hành lang, đâu đó bên trong thành phố, cùng với rất nhiều cung tên và máy bắn đá. Áo giáp chúng không được phủ ngoài bằng sơn, mà là bằng dầu - hoặc có lẽ là bằng máu lúc chưa khô hoàn toàn.
Các nhà giả kim chỉ được triệu tập khi có vấn đề cấp bách xảy ra.
Và lý do đáng chú ý nhất trong số những lý do để triệu tập cậu: bàn về vấn đề tiền nong.
Nếu vấn đề chỉ xoay quanh chuyện tiền bạc, giải pháp sẽ khá là đơn giản và trực tiếp - giống như việc chặt đầu ai đó bằng một cây rìu sắc bén.
Kusla lém lỉnh huýt sáo khi cậu băng qua cổng, cảm thấy thoải mái trước khung cảnh đẹp như tranh vẽ của thị trấn đằng sau bức tường dày cộm đó.
Về quy mô thì, Gulbety có tầm cỡ khác hơn so với những nơi mà Kusla từng đặt chân tới.
Có khá nhiều nhánh sông hướng ra cổng thành, và bốn cây cầu hình vòm bắc ngang qua nó.
Sau khi vượt qua cửa chính, cậu ta nhận thấy mọi thứ khá chính xác như những gì đã được mô tả. Các đoàn xe ngựa và xe la được tập trung thành hàng dọc bên lề đường. Những chiếc xe ngựa chất đầy chuồng gà băng qua trước mặt cậu.
Một số lữ khách mũ trùm đầu, đôi mắt sạm đen, mang theo hành lý còn lớn hơn cả thân mình. Bọn họ chắc chắn là người từ các công ti thương mại và đã băng qua nhiều ngọn đồi phủ tuyết vào những dịp cuối năm, cùng với đó hàng hóa mà họ vận chuyển rất có thể là các mặt hàng như da thú sống từ các cuộc săn bắn hay hổ phách và mật ong. Những hành trình theo mùa mà họ thực hiện để thu lợi nhuận nhìn khá là gian nan đây.
Con đường bị phủ đầy phân ngựa và la. Đàn lợn được thuần hóa và những con gà xổng chuồng lòi ra từ trong đám đông và loắt thoắt chạy sang bên kia đường, lướt qua một cách vô tư.
Tất nhiên không phải tất cả mọi thứ đều bình thường như vậy: những tên lưu manh đứng dựa vào thành tường, nhòm ngó người dân; trộm cướp, gái điếm, thậm chỉ cả những tên thợ săn, "thay mặt cho những người lãnh đạo" để đi trộm bọn gia súc vừa mới xổng ra. Trái lại, chỉ mân mê với những đồng tiền, không thèm đếm xỉa đàn gia súc thả rông; đó là mấy tên đổi tiền nguy hiểm trong chợ đen - và theo nghĩa nào đó, hình thức kinh doanh của họ được lai tạo từ sự may mắn và cơ hội. Lý do mấy tên buôn chợ đen
có thể hoạt động bình thường giữa ban ngày ban mật là vì chúng rất cần thiết đối với nhiều người.
Kusla không phải hạng người ưa thích sự thanh bình.
Nếu có thể, cậu ta sẽ chọn cái bầu không khí ồn ào, náo nhiệt ở bên trong cổng thành này.
Ngoài ra, trong thành phố này cũng có một bến cảng, và nó được đặt ở nơi mà đáng ra phải là chỗ dành cho "trái tim" của thành phố.
Quanh cổng thành đã huyên náo đến như thế rồi, thì ở bến cảng chắc sẽ ồn ào lắm đây
Hội hiệp sĩ Cladius đã hoàn toàn kiểm soát thị trấn này.
Chỉ cần cậu còn giữ trong mình hình tượng của họ, sẽ chẳng có ai dự định làm gì cu cậu cả.
"Cũng không tệ lắm."
Cậu hít một hơi thở thật sâu, để thông thoáng hai lá phổi của mình, thải bớt khí độc trong cơ thể và mỉm cười.
Những thanh niên chào hàng, gái điếm và những tên buôn chợ đen không dám lại gần Kusla, vì xung quanh cậu đang tỏa ra một luồng khí bất thường nên ai cũng nghĩ tốt nhất là nên tránh xa người này.
____
"Chúng ta phải đi đến đâu đây?"
Người đánh xe ngựa hỏi Kusla, nhưng không trực tiếp nhìn thẳng vào cậu.
"Ai mà biết? Tôi chỉ được nghe là sẽ có ai đó gặp chúng ta ở đây."
Người đánh xe nín lặng. Ngón tay trái nắm dây cương của hắn đã bị cắt đi một nửa và trên mặt có một vết sẹo lớn ngang mặt, ắt hẳn do một thanh kiếm gây ra, mà hắn ta đã che giấu khá kĩ bằng một chiếc mũ và bộ râu rậm rạp đến tận mang tai; hắn có thể là một cựu chiến binh đã về hưu, người từng phụng mệnh cho Hội Hiệp Sĩ từ rất lâu.
"..."
Đột nhiên tên đánh xe ngựa ngẩng đầu lên.
Hắn cảm nhận được những ánh mắt đang chĩa vào họ trong một thoáng chốc, giống như bản năng của một loài thỏ rừng.
Rồi hắn bẻ dây cương, quay xe ngựa về phía góc của ngã tư.
Một người đàn ông gầy nhẹm đã đứng sẵn ở đằng ấy, cùng với nụ cười trên khuôn mặt.
"Anh bạn được giải cứu rồi sao, hửm?"
Anh ta đặc biệt nhấn mạnh vào những nguyên âm ở cuối câu hỏi. Mái tóc bù xù vàng hoe của gã được buộc lại thành búi, và người ta tự hỏi liệu ông anh đó có chịu cắt bộ râu lùm xùm kia không hay vẫn cứ để nguyên. Mặc dù vậy đây là con người duy nhất trên thế giới chào đón Kusla bằng một nụ cười như thế.Kusla theo phản xạ cũng nhếch môi theo, nở một nụ cười đáp lễ.
"Câu này phải dành cho ông đó, sao ông vẫn còn sống thế?"
"Chắc là Chúa trời đang bảo vệ tôi rồi! "
Một lần nữa, anh ta lại trả lời bằng chất giọng nhấn nhá nguyên âm đó, và nó đã quá quen thuộc với Kusla. Dù có cố ý hay không, thì việc đầu độc vị Tu Viện Trưởng đến chết chắc chắn sẽ phải chịu hình phạt bằng bán án tử hình, nhưng Wayland, theo như Kusla đang thấy, vẫn còn sống và đang đứng trước mặt cậu. Các nhà kim thuật, như vị hiệp sĩ kia đã nói, là những tên pháp sư chính hiệu.
"Sao cậu được cứu hay thế? Tôi nghe nói là cậu đã đi trộm xương thần thánh trái phép rồi ném vào lò nung mà?
"Lúc đó chưa châm lửa kịp, và mấu chốt là tôi đã đưa ra một cái cớ. Hội Thanh Trừng Của Chúa tha cho tôi bởi vì tôi vô tội, mặc dù tôi nghĩ rằng thần thánh phải lạnh lùng hơn chứ ta."
Wayland vừa đi vừa nhìn vào móng tay của mình, và nhún vai.
"Thế còn ông?"
"Tôi ấy hả? Tôi đâu có đầu độc hắn ta."
"...Ý của ông là sao?"
"Nói cách khác, trong khi tên béo đó đang ngấu nghiến thức ăn, tôi xuất hiện trước mặt hắn ta, mỉm cười trước mặt hắn ta, lắc một cái lọ trước mặt hắn ta. Thế là mặt mày của hắn tái ngắt đi rồi sau đó đột tử cmnl"
Đây cũng gần như là mánh khóe Kusla đã ám chỉ lúc chọc quẹo lính canh, nhưng như vậy thì quá thực rồi đấy.
Tuy nhiên nếu chỉ bấy nhiêu mà lại giết được một người, thì có lẽ Wayland đã chuẩn bị từ trước đó.
"Nhưng sao ông lại làm thế ?"
"Vì hắn đã đánh mấy em gái của tôi."
Vẻ mặt Wayland thể hiện như kiểu : "Chớ còn vì cái quần què gì nữa?" và khiến Kusla không biết phải làm gì khác ngoài gật đầu thừa nhận.
"Không phải hắn là Tu Viện Trưởng sao?"
"Tôi đã bảo là hắn đã đi tán tỉnh các em xơ rồi mà. Tu Viện Trưởng của một tu viện nữ thì không nhất thiết cũng phải là nữ."
Kusla chỉ còn biết nhún vai trước khả năng của Wayland vì đã thực hiện một kỳ tích khá đáng nể. Ngay cả trong tình trạng các tu sĩ đã suy đồi như vậy, Wayland vẫn đớp phải thính từ các nữ tu viện, những người cũng có thể là những chú chim bị nhốt trong lồng.
"Cái tên béo đó đã làm nhiều thứ tồi tệ mà mắt người thường không thấy, còn trong mắt mọi người, thì tôi giống như vừa thoát khỏi một thứ bệnh dịch.[note26585] Các nữ tu viện ở đó đã cầu xin tôi giải cứu họ, thế nên tôi mới không bị xử tử. Thậm chí tôi còn được vinh danh làm anh hùng tu viện nữa."
"Ông lúc nào cũng giỏi mấy chuyện đó nhể?"
"Là do cậu không rành thôi, Kusla ạ."
Kusla cũng đã từng say như điếu đổ những lời nói ngọt ngào của một nữ điệp viên; cậu đã hoàn toàn yêu cô ấy, để rồi tận mắt chứng kiến cái chết của cô. Cậu nhún vai và đá con gà sang một bên khi nó bay lại gần cậu.
"Nhưng cũng bất ngờ thật..."
Kusla ung dung đi về phía trước, điềm đạm lắng nghe.
"Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày ta lại làm việc cùng nhau ở chung một phân xưởng đấy, Kusla."
"Câu đó của tôi mới đúng chứ."
"Mà chúng ta gặp nhau trong ngục của Hội hiệp sĩ mấy lần rồi?"
Kusla đã vào rồi lại ra khá nhiều lần trước đây, và bản thân Wayland cũng không hề kém cạnh trong chuyện này, thế là hai người họ thường xuyên gặp gỡ sau song sắt xà lim.
"Nhưng lần cuối chúng ta làm việc cùng nhau tại chung một phân xưởng, đó là khi nào vậy?
Wayland dừng lại một nhịp để trả lời.
"Hừm...là năm năm trước, phải không? Tôi vẫn còn nhớ như in ngày hôm đó."
Bất kỳ khi nào bọn này nhớ lại những gì đã xảy ra năm năm về trước, họ cảm thấy bản thân mình chẳng là gì ngoài những tên ngu ngốc không chịu trưởng thành - một suy nghĩ khiến con người ta chỉ có thể nhăn nhở khi nhắc đến.
Hai người thường xuyên có những cuộc cãi vã, và sau khi tìm hiểu một chút, họ đã liên tục lấy trộm chất độc từ xưởng và nhiều lần tẩm vào thức ăn của đối phương.
Tuy nhiên, thầy của bon họ là một con ác quỷ, tồi tệ hơn rất nhiều lần so với bọn họ, vì thế vào ngày chính thức tốt nghiệp khóa học việc, Kusla và Wayland đã lên kế hoạch đầu độc lão ta. Sau khi người thầy đó ăn hết một nửa phần ăn đã bị tẩm thủy ngân của mình, cả hai đều đã bị bắt giam.
Trước khi chia tay, Kusla nói lời từ biệt với Wayland, khi cả hai cùng trao nhau nụ cười chân thành. Với Kusla, cảnh tượng đó giống như vừa mới xảy ra vậy.
"Còn nhớ hồi đó cậu mít ướt lắm đấy, Kusla."
"Câu đó lại phải dành cho ông đấy. Hồi đó ông cũng mau nước mắt vãi ra."
Wayland nhún vai, đột nhiên anh ưỡn người một cách khuây khỏa, rồi quay lại giáp mặt với Kusla.
"À mà, nhanh chân gặp người sẽ xử lí chúng ta đi, rồi còn quay về xưởng làm việc nữa, tôi nóng lòng lắm rồi đấy."
Kẻ mà anh ta nhắc đến ở đây chính là người phụ trách các hoạt động giả kim thuật cùng với Hội hiệp sĩ, những người đồng thời là chủ sở hữu của cái phân xưởng trong thành phố đó.
Vị này không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho công việc của các nhà giả kim, mà còn là một người hỗ trợ đắc lực, nếu họ bị gán mác gì đó từ Giáo hội, hay là bị thiêu sống trên cột. Mặt khác, nếu họ không còn khả năng phục vụ cho các hiệp sĩ, hoặc bị coi là vô giá trị, thì đơn giản là những người này sẽ bị bán lại cho bên Giáo hội hoặc là sẽ bị mưu sát.
Khá là bất thường, khi Hội Hiệp Sĩ có quyền thẳng tay kết liễu người khác.
Đó là lí do những người này được gọi là "Kẻ treo đầu".
Họ không được gọi là kẻ hành quyết, bởi lẽ các nhà giả kim không có quyền chấp nhận một hình phạt nhanh chóng như chặt đầu, được sử dụng nhiều trong quần chúng nhân dân. Bị thiêu trên cột thì cũng sẽ chết rất nhanh, vì thế nó vẫn được xem là quá dễ dàng. Về cơ bản, người ta sẽ treo cổ các nhà giả kim cùng với những con chó, và họ sẽ bị những con chó này cào cấu cắn xé trong vòng ba bốn ngày liền trước khi chết hẳn.
Kusla luôn tự nhủ bản thân đừng có cười đểu trong lúc cậu hỏi Wayland.
"Ông cũng chưa tới xưởng à?"
"Chưa, mới gửi đồ tới đó thôi. Tôi mới đến vào sáng nay cùng với Quân Đoàn Vận Tải dưới quyền Hội Hiệp Sĩ."
"Vậy là ông cũng vừa mới đến."
"Ừa."
"Sao ông lại không đến đó trước chứ?
"Cậu trông chờ gì ở tôi vậy?"
Wayland cất giọng chế nhạo của mình ra.
"Đồng-nghiệp-ơi~?"
"Tôi rởn hết gai ốc rồi đây này."
"Cậu ác độc quá thế~!"
Wayland thích thú việc bắt chước tiếng rên rỉ của một con chó, cũng giống như Kusla khoái việc đi trêu bọn cai ngục vậy. Thị trấn Gulbetty nằm khá gần chiến tuyến, và người dân, những người đã quen nhìn thấy bọn lính đánh thuê và hiệp sĩ cư xử không khác gì những tên cướp, sẽ hoảng sợ và nhanh chóng chạy trốn khỏi họ.
Kim thuật sư.
Những kẻ hèn hạ đã đi lạc khỏi chính đạo.
Khi còn trẻ, Kusla thường đáp lại những lời nhận xét cay độc kiểu như vậy bằng một câu mỉa mai lạnh lùng.
Tuy nhiên, giờ đây cậu đã không còn hứng thú nữa, chỉ còn động lực nhiều nhất, là khi cậu đi trêu chọc các lính canh. Wayland thì ngược lại, anh ta chẳng khác gì cái hồi còn học việc, và sẽ hạ sát bất kỳ ai mà không hề nháy mắt.
"Nhưng tôi tán thành chuyện đi tới phân xưởng. Ước gì tôi có thể làm nóng chảy luồng khí lạnh ở bên trong tôi - như cách mà kim loại bị nóng chảy vậy." Kusla trầm ngâm.
"Với ngoại thất như thế, thì tôi nghĩ nó vẫn ở trong tình trạng khá tốt đấy chứ. Không hổ danh là một cơ sở gần tiền tuyến."
Vùng đất phía bắc này là nơi Hội Hiệp Sĩ Cladius tập trung phát triển về tài chính lẫn sức mạnh quân sự; họ đã chọn Gulbetty này làm căn cứ. Việc vùng đất cực bắc thuộc về tổ chức này là điều hiển nhiên - và không ai dám chế nhạo Hội Hiệp Sĩ, vì mọi người đều hiểu rất rõ quyền lực của họ.
Nhiều nhà giả kim tham lam luôn thèm thuồng và khát khao về một xưởng làm việc gần tiền tuyến, chúng có thể rèn sắt khi nó vẫn còn nóng hổi. [note26586]Dù gì thì mọi người đều bất chấp mọi thứ để dành lấy phần thắng.
Nguồn ngân quỹ thì vô hạn, giành quyền ưu tiên được cung cấp tài liệu, và họ còn có quyền kinh doanh với các thợ thủ công và khu mỏ khoáng sản ở khu vực đó. Điều này mang lại rất nhiều lợi ích, chẳng hạn như được sờ tay vào các trang sách bí mật hoặc bị cấm.
Kusla có lẽ sẽ rất vui mừng nếu không vì điều kiện nảy sinh sau khi đến được tiền tuyến: là phải đi cùng với tên Wayland này.
"Nhưng còn cái tên đã sử dụng xưởng Gulbetty trước chúng ta thì sao? Hắn thực sự ngu ngốc khi giao lại một khu xưởng tốt như thế cho tụi mình đó."
Kusla bước né qua cái đống phân ngựa trong khi trò chuyện, và Wayland trả lời theo cách không khác gì mấy người miêu tả thời tiết ngày hôm qua ( bằng giọng nói rũ rĩ đặc trưng của anh.)
"Nghe nói hắn đã chết rồi."
"Ồ? Chết vì tai nạn à?"
Hai người đi ngang qua một con chó bị xích lại trước cửa, miệng của nó bê bết máu đỏ tươi. Khả năng cao là nó đã đi săn vào sáng sớm nay - và con mồi, ắt hẳn là một loài sinh vật lang thang nào đó ở trong thị trấn.
"Không, tôi được nghe bảo là một người trong thị trấn này đã giết hắn."
Kusla tiếp tục vừa đi vừa né đống phân ngựa dọc bên đường, lần này thì cậu lại không phản hồi.
Dù cậu hiểu đây là chuyện quá đỗi bình thường, vẫn có gì đó khiến cậu phải bận tâm.
Hội Hiệp Sĩ đã chỉ định hai người bọn họ lần này; quả nhiên họ coi đây là một hình thức để ra tay trừng phạt
"Đừng nói với tôi rằng chúng ta phải bắt cặp với nhau vì chuyện này chứ."
"Hừm...tôi cũng nghĩ như vậy đó, họ đã gửi những tên hoạt động vô nguyên tắc là tụi mình đây đến một nơi tốt như vậy, chắc chắn họ đang che giấu một thứ gì đó."
Wayland vừa đi vừa gãi đầu, giả đò tỏ vẻ lo lắng.
Anh ta là kiểu người hay đi nhặt đá ven đường, mang về để cắt, mài, quan sát và chơi với chúng chỉ để tiêu khiển. Nếu anh ta trông không còn hứng thú nữa, thì tức là anh ta đang quạu rồi.
"Chúng ta sẽ bị giết nếu tách nhau ra, vì thế hai người thì sẽ làm việc thoải mái hơn, cà?"
Rồi hai người bước đi trong im lặng. Kusla quay sang Wayland, anh ta vừa đá vào viên sỏi trên đường.
"Những tên giả kim thuật sư tệ mạt thì sẽ toang sớm."
"Haha, thật lãng phí khi sư phụ lại dạy điều đó cho chúng ta."
Hai người đứng trước cửa nhà của kẻ treo đầu.
Kusla nhớ lại những gì đã xảy ra năm năm về trước, vai của cậu cứng đờ hết lại.
"Sợ không hả?"
"Câu đó của tôi mới đúng."
Đã năm năm trời Kusla mới có lại vài cuộc cãi nhau vặt như thế này.
Cậu cố kiếm nén cái sự hoài niệm, nhưng không thể, khóe miệng của cậu khẽ cong lên.
Những người đi đường gần đó vô cùng hoảng sợ, nên họ tách nhau ra, để một lối đi thông thoáng cho hai người.
============================================================
P/s: Tạm thời như vậy thôi mọi người. Truyện này hơi loằng nhoằng nên không tránh khỏi những sai sót, nên mọi người cứ nhiệt tình phi gạch đi ạ.