Madan no Ou to Vanadis

chương 3: kế thừa.

Truyện Chữ Hay
Tùy Chỉnh
Truyện Chữ Hay

Sau ngày Sasha qua đời 1 hôm, chiếc thuyền chở Elizavetta Fomina cũng cập cảng Lippner. Cho dù là người thắng cuộc, Elizavetta không hề xuất hiện trước mặt người dân Lippner.

Nữ Vanadis mà được người dân Lippner tôn làm chủ nhân của họ là Sasha. Dù là gì đi nữa, họ cũng sẽ cảm thấy không vui vẻ gì khi mà Vanadis của xứ Lebus lại là người kiêu hãnh ca khúc khải hoàn được. Đó là những suy nghĩ của cô.

Bên cạnh đó, cái chết của Sasha vẫn chưa được công bố ra bên ngoài. Thị Trưởng Lippner tin rằng việc này nên được để chính Lâu đài thực hiện thì hợp hơn, cho nên ông đã cho gửi một người đưa tin tới đó. Hiện tại, người ngoài chỉ được biết rằng Sasha không thể xuất hiện là bởi cô đang bị bệnh nặng.

Cùng với một người hầu cận của mình, Elizavetta bước xuống bến cảng.

Gọi là cảng thật, thế nhưng vì là nơi thuyền chiến đang cập bến, không có người dân nào được phép bén mảng tới đây.

Theo sau cô gái là môt hiệp sĩ tầm 30 tuổi có tên là Naum. Anh ta đã phục vụ trong Lâu đài Lebus trước cả khi Elizavetta lên nắm quyền. Cho dù trên khuôn mặt người hiệp sĩ đã hằn lên nhiều vết nhăn của nhiều ngày tháng vất vả, thế nhưng nhờ mày râu nhẵn nhụi, nên trông anh ta vẫn trông có vẻ khá trẻ.

Hai người vừa rời khỏi cảng xong liền đi ngay về ngôi nhà biệt thự của Dmitry, thị trưởng của Lippner. Nữ Vanadis tóc đỏ, vừa mới được dẫn vào phòng khác, đã hỏi tình hình của Sasha ngay sau khi chào hỏi.

Cho dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước bởi đã nghe chuẩn đoán từ thầy thuốc cách đây một vài ngày trước, thế nhưng Sasha vẫn còn sống khi hai người chia tay nhau ngoài khơi. Elizavetta muốn được tận mắt chứng kiến tình hình thực sự ra sao. Vì lý đó, cô mới thân chinh tới tận đây.

“Alexandra-sama đã từ trần từ ngày hôm qua.”

Dmitry lạnh lẽo đáp. Elizavetta chỉ lẩm nhẩm “Như vậy à?”, mặt cũng lạnh tanh không kém. Cho dù nỗi hối hận vì đã đến quá trễ và sự tiếc thương cho người đã chết che mờ đôi mắt hai màu của cô gái, thế nhưng cô vẫn cố giấu kín cảm xúc của mình đi, không để ai nhận ra.

Tiện cũng nói, Ellen đã rời Lippner từ hôm qua và đang nhanh chóng quay về Leitmeritz. Không biết liệu hai cô gái không được gặp nhau là may hay rủi nữa.

Sau khi xưng tên chư vị thánh thần, trong đó có cả Perkunas – Vua các vị thần, và cầu nguyện cho Sasha, Elizavetta lên tiếng, giọng cô có phần hơi ngượng ngịu.

“Nếu mà không có Alexandra ở đó, chúng ta có lẽ đã không thể nào mà thắng được. Đó là tất cả những gì tã muốn nói.”

Gọi đó là biết ơn thì hơi quá, thế nhưng Dmitri chỉ thật thà gật đầu.

“Nhất định tôi sẽ gửi lời của Vanadis-sama lên Cung điện.”

“Không cần. Ta sẽ gửi lời chia buồn với tư cách là Vanadis Elizavetta Fomina của xứ Lebus sau.”

Sau khi từ chối thẳng thừng lời đề nghị của Dmitry, Elizavetta chuyển sang chủ đề khác. Sau khi bàn bạc một vài việc quan trọng xong xuôi, cô nói lời cảm ơn và rời khỏi căn nhà. Cô quay sang hỏi Naum.

“Thuyền sẽ ra khởi sau bao lâu nữa?”

“Tầm 3 tiếng nữa, thưa ngài.”

Cô chỉ muốn rời đi càng sớm càng tốt một khi xong việc, thế nhưng cô vẫn cần phải để cho tay chèo và thuỷ thủ có thời gian nghỉ ngơi. Cho dù không có hứng thú giết thời gian trên khoang thuyền chật hẹp làm gì, cô cũng không hề muốn đi dạo trong thành phố vẫn còn đang say men chiến thắng.

“Cho chuẩn bị ngựa đi. Ngựa gì cũng được, miễn không phải là ngựa kéo.”

Naum nhanh chóng mang 2 con ngựa tới, cả 2 đều đã được thắng yên cương đầy đủ. Sau khi nói “tốt lắm”, Elizavetta rời khỏi thị trấn, theo sau bởi vị hiệp sĩ. Trên lưng ngựa, nữ Vanadis tránh đường chính mà thơ thẩn đi về hướng bờ biển mà không hề có chút chủ đích gì trong đầu.

Cô gái cảm thấy tựa như trái tim của mình bỗng trở nên đầy trống rỗng. Cô không nghĩ là mình muốn có mắt khi Sasha qua đời, ngay cả quan hệ giữa hai người bọn họ cũng không thể nào khiến cô mong ước điều đó. Vốn dĩ khi Sasha còn sống, chuyện hai bên giao chiến với nhau với tư cách là Lãnh chúa của Legnica và Lebus là chuyện chẳng hề lạ lẫm gì.

--- Đến cả mình cũng hiểu điều đó.

Dù sao đi nữa, Elizavetta vẫn cảm thấy hết sức cô đơn. Cô vẫn mong muốn được có một cơ hội để trò chuyện với Sasha. Tự cảm thấy giận cho chính bản thân mình, cô không tài nào xua đi nổi những cảm xúc đó khỏi lòng mình.

Vì không phải vội làm gì, cô cứ để ngựa thư thả mà đi. Naum cũng chỉ lặng lẽ bám theo sau.

Tiếng vò ngựa hoà cùng với tiếng sóng biển làm cho tai cô gái thấy có phần nhột nhạo. Thi thoảng, cô còn nghe thấy được cả tiếng chim biển kêu lanh lảnh đâu đây.

Và cứ thế, cô rong ruổi như thế trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Nhìn lại về phía sau, xem ra cô đã đi khá xa khỏi thị trấn. Cảnh vật xung quanh cũng đã biến thành một vùng đầy những đá nhọn lởm chởm.

“Vanadis-sama, có lẽ chúng ta nên quay lại thôi.”

Nguyên nhân có thể là bởi trước mặt họ không còn đường đi nữa. Nghe Naum ở phía sau nói vậy, Elizavetta không đáp lại mà chỉ cho dừng ngựa lại.

Con đường đất đá cũng dừng lại tại đó, nhường chỗ cho một bãi biển đầy cát nho nhỏ. Ở phía bên kia bãi biển là một con dốc thoai thoải lởm chởm đá nhọn.

Nằm giữa hai vùng đất đá đó còn có một vài ngôi làng rải rác ở giữa.

Phần lớn người dân làng lúc này đang đi thu lượm sò biển. Elizavetta cũng từng có những kỷ niệm về những việc như thế.

Thông thường thì người ta vẫn hay thu nhặt sò từ xuân tới hè, thế nhưng vào lúc này, nếu là để chuẩn bị cho một mùa đông đang tới gần, kể cả là mùa này thì họ vẫn có thể đi thu lượm được. Cho dù hầu hết chỉ có sò nhỏ, thà là như vậy vẫn còn hơn không có gì.

Bên cạnh đó còn có một con thuyền nhỏ chở được tầm 5,6 người nằm trên bãi cát. Có lẽ họ còn vừa đi câu cá về. Con thuyền được lật úp lại có lẽ là để phơi khô.

Đôi mắt của Elizavetta lại hướng sang chỗ khác. Trong số những người dân làng, chỉ có duy nhất một chàng trai trẻ, tay cầm một cây cung. Không hề nhìn ra bãi biển cũng như là biển khơi bao la, thay vào đó anh lại hướng lên trên bầu trời xanh. Dõi theo ánh mắt của chàng trai trẻ, Elizavetta nhìn thấy một vài con chim đang bay lòng vòng trên đó.

Lờ mờ đoán được phần nào, Elizavetta đứng nhìn đầy ngỡ ngàng. Đó là bởi chàng trai kia đang lắp một mũi tên vào và chuẩn bị giương cung lên.

“Liệu hắn ta có định bắn không nhỉ?”

“Nếu là vậy, xem ra là hơi cao.”

Trước giọng nói đầy kinh ngạc của Elizavetta, Naum lên tiếng trả lời. Hiện tại những con chim biển đều đang bay ở một độ cao kha khá. Một mũi tên thường không thể nào bay tới đó được. Hai người đều cho rằng chàng trai kia đang đợi cho chim bay thấp xuống mới bắn.

Thế nhưng, tất cả đều nhầm. Tầm 5,6 giây trôi qua, chàng trai trẻ bình thản nhả dây cung, cho dù đàn chim vẫn chưa hề hạ thấp tầm cao của chúng xuống.

Dù là thế, mũi tên của chàng trai vẫn bay tới tận đó như thể không có vấn đề gì, cắm phập vào một con chim. Cả Elizavetta lẫn Naum đều mở tròn xoe mắt mà đứng nhìn.

Chàng trai kia lại lắp thêm một mũi tên nữa và bắn hạ thêm một con chim nữa. Ngay cả con chim này cũng bay ở tầm cao tương tự con chim đầu tiên, chưa kể nó còn đang hoảng hốt bay đi hướng khác sau khi con thứ nhất bị tên bắn trúng.

Elizavetta cuối cùng cũng hiểu ra. Thứ mà chàng trai trẻ chờ đợi chính là cơ hội để có thể bắn hạ được hai con chim liên tiếp nhau. Độ cao ngay từ đâu đối với anh ta chưa bao giờ là vấn đề.

Elizavetta đưa đôi mắt hai màu của mình về hướng chàng trai trẻ, đồng thời lên tiếng hỏi Naum.

“Liệu có ai ở Lâu đài của ta có thể làm được như vậy không?”

“… E là không.”

Ngay cả Naum cũng ngạc nhiên không kém. Đến cả một cung thủ kinh nghiệm đầy mình cũng khó mà làm được. Rõ ràng đó là một kỳ tích khó tin tới độ kể cả có chứng kiến tận mắt cũng vẫn cảm thấy ngờ vực trong lòng.

“Làm thế nào mà hắn có thể…?”

Elizavetta nói tới đó thì chợt dừng lại. Đó là bởi cô bỗng nghe thấy một tiếng hét thất thanh.

Ở đồi đá nằm đối diện với nơi hai người đang đứng, một nhóm mười người lố nhố xuất hiện, chạy xuống và bao vây lấy những người dân làng. Tất cả bọn chúng đều ăn mặc bẩn thỉu, tay lăm lăm vũ khí. Elizavetta cau mày đầy khó chịu.

“Thật đúng là trùng hợp ngẫu nhiên.”

Bộ dạng của đám người đó giống hệt như đám hải tặc bại trận cách đây vài ngày trước. Dù đã đánh chìm tất cả thuyền của phe hải tặc, có lẽ họ đã không bắt được tất cả bọn chúng. Nói cách khác, đây có thể là tàn quân của phe cướp biển đó.

Đối với Elizavetta, cô không có bổn phận gì đối với những người dân đang đứng dưới kia. Trách nhiệm của cô là bảo vệ người dân Lebus nằm dưới quyền cai trị của cô, chứ không phải là người Legnica.

Dù rằng để chuyện thấy chết không cứu lọt ra ngoài thì cũng chẳng hay ho gì, thế nhưng xem ra cả người dân làng cũng như bọn cướp biển đều không hề nhìn thấy cô. Thêm nữa, ngay từ đầu cũng chẳng có ai tin được là một cô gái chưa tròn 20 tuổi cùng một hiệp sĩ có thể đương đầu với hơn chục tên hải tặc được.

Thế mà, nắm chặt lấy ngọn roi Thiểm Đình ở bên công, Elizavetta thúc ngựa xông lên. Không phải là vì công lý, cô làm vậy là bởi bản thân không thể nào chấp nhận để cho đám hải tặc, mà cô để lọt lưới, tự tung tự tác ngay trước mặt như vậy được.

Trước tiếng vó ngựa gầm vang, đám hải tặc cuối cùng cũng nhìn thấy Elizavetta. Vì đang bị đám hải tặc bao vây, những người dân làng không dám ngoảnh mặt lại nhìn, thế nhưng nghĩ lại có khi thế lại là may mắn.

Trên lưng ngựa, Elizavetta vung ngọn roi đen xuống không chút khoan nhượng. Ngọn roi sấm sét phát ra một thứ ánh sáng trắng rực, cắt phăng đầu một tên cướp biển đang đứng ngay gần đó, máu phun ra tựa như suối.

Sắc mặt của bọn hải tặc chợt tối sầm lại. Đúng như Elizavetta đoán, chúng đều là những kẻ trốn thoát được sau khi bị quân Lebus đánh bại cách đó vài ngày.

Cho dù an toàn thoát được khỏi bãi chiến trường và may mắn tìm thấy đất liền, chúng không hề quen thuộc gì với địa lý nơi đây. Quá tuyệt vọng,

chúng cho thuyền tìm tới bờ biển, phát hiện ra những người dân vừa đi câu cá về, và tới đây tính bắt cóc họ.

Hình bóng của nữ Vanadis tóc đỏ, mặc một bộ váy không hề ăn nhập gì với nơi chiến trường, đứng trên một núi xác chết, tay cầm ngọn roi đen đã trở thành cơn ác mộng trong tâm trí lũ cướp biển. Thêm vào đó, sau khi Elizavetta tiếp tục đoạt thêm một mạng nữa, số hải tặc còn lại vừa la hét vừa quay lưng lại bỏ chạy.

Isgrifa [Lôi Oa Thiểm Cơ] không hề có ý định để chúng chạy thoát. Cô cho ngựa lao lên, hạ hết tên này tới tên khác.

Thế nhưng, khi chạy tới dốc, cô không thể nào đuổi kịp chúng được. Nguyên nhân là do con ngựa cô đang cưỡi không phải là loại ngựa chiến nòi, cùng lắm chỉ dùng để cưỡi quanh đây là cùng.

Hơi do dự, Elizavetta xuống ngựa và, hai tay nhấc vạt váy, trèo lên con dốc lớm chởm đá. Chỉ có duy nhất Naum đi theo, còn lại đám dân làng chỉ biết đứng ngây ra đó mà nhìn, Một số còn mặt trắng bệch, tay chân vẫn chưa hết run rẩy.

Trèo lên được tới đình dốc, Elizavetta chặc lưỡi. Đám hải tặc đã chạy sang bên kia từ lâu. Tại đó, trên bãi biển có hai con thuyền nhỏ. Chúng hò nhau vác thuyền lên vai và vội vã chạy ra biển.

“Đứng lại!”

Cho dù hét lên như thế, lũ cướp biển không đời nào nghe theo. Vừa đưa thuyền được ra tới biển, chúng trèo lên, cầm lấy mái chèo mà chèo lấy chèo để.

Elizavetta quay lại nhìn nơi những người dân làng đang đứng. Chạy một mạch xuống bãi biển, mắt gườm gườm nhìn họ, cô cầm roi trỏ vào con thuyền đang lật úp.

“Ta cần mượn con thuyền này. Cử vài người ra chèo thuyền đi.”

Cô gái lên tiếng với giọng đầy ép buộc. Chợt, ánh mắt cô ta quay sang nhìn chàng trai trẻ cầm cung.

“Còn tên không?”

Thấy anh ta gật đầu, Elizavetta cau mày lại. Cho dù những người dân làng khác còn chưa hết ngỡ ngàng trước tình thế hiện tại, người thì la hét, người thì chỉ biết đứng chôn chân tại chỗ, chỉ có duy nhất chàng trai trẻ vẫn bình tĩnh như không.

Trông anh ta cũng chỉ tầm tuổi Elizavetta. Tóc đỏ bù xù, cằm mọc râu lởm chởm. Người tầm thước, nhưng chỉ nhìn cánh tay là đủ hiểu anh ta là người được rèn luyện kỹ càng.

“Vậy thì ngươi cũng đi theo ta luôn.”

Bên cạnh đó, Elizavetta còn chọn ra thêm 3 người nữa. Họ đưa thuyền ra ngoài biển và trèo lên. Elizavetta đứng ở mũi thuyền, theo sau là Naum, chàng cung thủ trẻ và ba người dân làng.

Ra tới ngoài khơi, đoàn người ngay lập tức tìm thấy thuyền của bọn cướp biển. Vừa nhác thấy bóng dáng của Elizavetta, chúng hối hả cố chèo thuyền thật nhanh hòng chạy trốn. Không thèm giấu vẻ khó chịu, Elizavetta quay sang đám dân làng.

“Chỉ có 3 mái chèo thôi ư?”

Một người dân mặt đỏ gay gật đầu. Vì cả bên hải tặc cũng không khác gì là mấy, cứ đà này thì khoảng cách giữa hai bên cũng khó bề thay đổi được.

Cùng lúc đó, chàng trai tóc đỏ chợt đứng dậy. Anh quỳ gối xuống, giương cung lên và lắp tên vào. Cả Elizavetta lẫn Naum đều nheo mắt lại nhìn.

Áng chừng thì khoảng cách giữa hai bên sẽ vào tầm 200 arshin. Thêm vào đó, thuyền còn chòng chành, cộng với đó, dù khá nhẹ, gió đang thổi ngược chiều. Đáng nhẽ ra anh không thể nào bắn trúng được.

Tiếng dây cung rung bần bật vang lên. Mũi tên của anh đâm thẳng vào một tên cướp biển. Từ xa, bóng dáng của tên cướp biển, tay vẫn cầm mái chèo, nghiêng hẳn sang một bên và rơi ùm xuống biển.

Chàng trai trẻ lại bắn tiếp. Thêm một tên chèo thuyền nữa loạng choạng và thả tuột mái chèo xuống nước. Chỉ còn duy nhất một tay chèo, con thuyền không còn có thể đi nhanh như ban nãy được nữa, dần dần đi chậm lại.

Không hề bỏ thời gian ra khoe mẽ, chàng trai lại tiếp tục nhắm sang con thuyền bên kia. Lại thêm hai tên chèo thuyền nữa rơi xuống biển xanh.

Bắn xong, anh lại ngồi xuống thuyền, thế chỗ cho một tay chèo và bắt đầu chèo thuyền. Elizavetta khó chịu nhìn ra chàng trai trẻ.

“Sao ngươi không bắn tiếp nữa?”

Chàng trai trẻ chỉ lặng lẽ quay lưng lại cho cô nhìn bao tên của mình. Trong đó không còn một mũi tên nào nữa. Dù hiểu, Elizavetta vẫn không hề bằng lòng trước thái độ của chàng trai trẻ. Ban đầu cô cũng tưởng là anh ta không biết nói, thế nhưng khi nhìn thấy anh thì thầm trao đổi với một người dân làng, xem ra không phải là như vậy.

Elizavetta liền thét lên đầy tức giận.

“Chèo nhanh nữa lên! Nếu mà đuổi được chúng, ta sẽ ban thưởng cho các ngươi mỗi người hai đồng bạc, kể cả là người đi thuyền hay người đang chờ trên bãi biển!”

Đám dân làng quay sang nhìn nhau, thái độ thay đổi trong nháy mắt. Người đàn ông ban nãy vừa mới trao mái chèo cho chàng trai vội giành lấy mái chèo lại, hùng hổ chèo thuyền tới độ nước bắn lên tung toé. Naum hết nhìn chủ nhân của mình lại sang đám dân làng mà không thể giấu nổi vẻ kinh ngạc.

Thuyền của Elizavetta trong thoáng chốc đã đuổi kịp thuyền của phe cướp biển.

Nữ Vanadis tóc đỏ uyển chuyển quay một vòng, đồng thời đánh văng gần hết đối phương của mình xuống biển. Gọi là “gần hết” là do vẫn còn một tên thoát được Thiểm Đình bằng cách lấy đồng đảng mình ra làm lá chắn. Hắn ta là một kẻ nhỏ thó, trên hông đeo 2 con dao.

Tên hắn ta là Moritz. Cho dù tiếng là đứng đầu cánh trái của bên hải tặc trong trận thuỷ chiến Olsina, hăn cũng chính là người bỏ rơi đồng đảng của mình và chạy trốn ngay khi thấy tình thế bất lợi cho mình.

Nhanh nhẹn né tránh được ngọn roi đen, Moritz đạp vào mạn thuyền mà nhảy sang tấn công Elizavetta Nếu mà nhảy ra trước mặt cô, hai con dao trong tay hắn ta sẽ được dịp mặc sức đâm chém. Thêm vào đó, ngọn roi của cô xem ra khó mà có thể phản ứng kịp được.

Thế nhưng, con dao của Moritz

lại bị một luồng sáng trắng bất chợt đánh bay đi khi hắn vừa mới tới gần Elizavetta. Cả người hắn bỗng tê điếng lại tới đau đớn, hắn loạng choạng và rơi thẳng xuống biển.

Mồm câm bặt, ngón tay run rẩy hầu như không cử động nổi, Moritz nổi lềnh phềnh trên mặt biển. Trước tên cướp biển mặt xanh lè, Elizavetta lạnh lẽo thốt lên.

“Ngươi vẫn còn tỉnh táo chứ? Thế nhưng, thêm nửa ngày nữa thì người đừng mơ mà cựa quậy được. Thực tế, chưa tới nửa ngày, chỉ cần nửa tiếng nữa là quá đủ.”

Moritz mở tròn mắt ra đầy kinh hoàng. Nếu mà hắn bị một cơn sóng đánh vào mà lật úp, chắc chắn hắn sẽ đi đời ngay. Ngoại trừ cực kỳ may mắn, sớm muộn gì hắn cũng sẽ mất mạng mà thôi. Cho tới lúc đó, hắn sẽ phải tiếp tục thấp thỏm trong lo sợ.

Mặt biển sáng loé lên trong giây lát, kèm theo đó là từng đợt sấm sét gầm thét. Elizaveta vung Thiểm Đình lên và đập tan hai con thuyền của bọn cướp biển thành từng mảnh nhỏ.

“---Phew.”

Elizavetta thở dài một tiếng. Đương nhiên, không phải là cô vẫn chưa hết buồn bã, thế nhưng thay vì cưỡi ngựa rong ruổi vô định, như thế này vẫn hơn nhiều. Cho dù không quá lớn lao, cô cảm thấy đây như thể là một phần quà nho nhỏ dành cho Sasha.

Cô quay lại nhìn về phía sau, mặc kệ cả Moritz cũng như đồng bọn của hắn. Cô gái ra lệnh như thể đó là lẽ đương nhiên.

“Quay về thôi. Chèo nào.”

Về phần người làng, vẫn còn chưa hết bàng hoàng trước vẻ đáng sợ của Elizavetta, họ thậm chí không còn không thốt nổi lên lời. Nghe thấy tiếng Elizavetta, tất cả đều giật thót mình mà hối hả chèo thuyền.

Tất nhiên là không ai trong số họ biết cô là một Vanadis, thế nhưng nhìn trang phục cũng như người hiệp sĩ đi tháp tùng, ai cũng đoán rằng cô cũng là một quý tộc. Thế nhưng, vào lúc này, Elizavetta không chỉ là một quý tộc mà họ phải cúi đầu, mà là một người cao quý mà họ phải sợ hãi.

Thế nhưng, không có gì bất ngờ khi mà chỉ có mỗi chàng trai tóc đỏ là không hề tỏ chút sợ hãi nào. Vẫn cái vẻ mặt dửng dưng như không đang nhìn Elizavetta, thi thoảng anh lại hướng về mặt biển cuồn cuộn những con sóng trắng xoá.

Elizavetta nhận ra là anh chàng đang tò mò quan sát đôi mắt Laziris [Đôi

Mắt Cầu Vồng] của cô. Cho dù không hề vui vẻ chút nào, cô cũng không kém phần tò mò về chàng trai trẻ.

“Tên ngươi là gì?”

Đầu tiên, chàng trai trẻ vẫn không có vẻ gì là nhận ra bản thân đang được hỏi. Phải tới khi có một người làng huých cho một cái thì anh mới ngẩng mặt lên.

“Urz.”

Một người dân làng ngay lập tức cầm đầu Urz dúi xuống , quay lại nhìn Elizavetta mà gượng cười.

“Xin ngài t-thứ lỗi cho. Cái thằng này, đầu hắn bị va phải, nên xin ngài thứ lỗi cho sự thô lỗ của hắn… Xin ngài hãy tha tội cho hắn.”

Tay vẫn nhấn đầu Urz xuống, người kia cũng cúi thấp đầu xuống, mồ hôi vã ra như tắm. Elizavetta chỉ đáp lại gỏn gọn “Được rồi.”

Cho dù thái độ của người dân làng kia có phần hơi khúm núm, thực tế hành động đó không có gì là sai. Nếu như Elizavetta là một kẻ tàn bạo, có lẽ Urz đã bị đẩy xuống biển từ lâu rồi.

--- Nói gì đi nữa, giọng hắn ta nghe lạ quá. Ừm, giọng người Brune thì phải?

Nhìn xuống Urz, ấn tượng đầu tiên của Elizavetta về anh chàng là vậy. Tiếp đó, quay sang người dân làng lúc này mới dám rụt rè ngẩng đầu lên, cô ta hỏi một câu hỏi có phần tinh nghịch.

“Ngươi, Ngươi thấy mắt ta như thế nào? Cứ việc thành thật mà nói.”

Đôi mắt vàng và xanh của cô gái nhìn chòng chọc vào người kia. Naum đưa tay lên trán, vờ như đang vuốt tóc, mặt mệt mỏi như muốn nói “lại bắt đầu rồi đó.” Vết nhăn trên mặt người hiệp sĩ lại thêm phần hằn sâu lại.

“Đ-đương nhiên

là, ừm, mặt người tuyệt đẹp như những viên ngọc rồi!”

Cố giữ nụ cười trên môi, người làng kia đáp. Elizavetta chỉ gật đầu, ra vẻ như muốn nói “được rồi”. Cuối cùng thì cũng chỉ là một lời nói dối quen thuộc mà cô đã quá nhàm tai.

Elizavetta vẫn luôn cảm thấy lẫn lộn giữa hai cảm xúc tự ti và tự kiêu trong tâm trí mình, và, nói gì thì nói, không chỉ là ở mức bình thường. Cho dù bên kia có trả lời ra sao đi nữa, cô cũng sẽ không bao giờ trừng phạt họ. Thay vào đó, cô chỉ mỉm cười thật tươi mà nói “Vậy à?”.

Laziris [Mắt Cầu Vồng]. Đó là đôi mắt kỳ lạ của Elizavetta từ khi cô sinh ra. Có nơi coi đó là điềm tốt, và lại có nơi coi đấy là điềm xấu.

Elizavetta đã bao phen khổ tâm vì chính đôi mắt đó từ khi cô còn bé. Mắt của cô gái cũng không hề có sức mạnh bí ẩn gì như trong truyện cổ tích. Những ai nhìn thấy cặp mắt hai màu của cô đều cho rằng đó là một căn bệnh, hoặc là họ cười nhạo, hoặc là họ lánh xa cô.

Cho dù đau buồn và sầu khổ tới mức nào đi nữa, cô gái không có đủ cam đảm để móc mắt mình ra, và cô chấp nhận suốt ngày đeo một miếng che mắt. Kể cả là thế, do ai cũng biết tới đôi mắt Cầu Vồng của cô nên cô vẫn tiếp tục bị người khác bắt nạt.

Thời gian trôi đi, khi Elizavetta đã trở thành Vanadis xứ Lebus, Laziris [Mắt Cầu Vồng] của cô lại được người ở Lâu Đài kính trọng hết mực. Vào lúc đó,

cô cũng nhận ra rằng ở từng vùng miền khác nhau người ta lại có cách nhìn nhận khác nhau về điều này.

Sau đó, nữ Vanadis Laziris [Mắt Cầu Vồng] đôi lúc hãy nổi hứng lại đi hỏi người khác.

Câu hỏi của cô ta là “Ngươi nghĩ gì về cặp mắt này của ta?”

Giống như người đang quỳ mọp trước mặt cô, có người so sánh cặp mắt đó với ngọc ngà đá quý. Có kẻ lại còn cho rằng con mắt vàng của cô không khác gì mặt trời và con mắt xanh sánh tựa trời cao hoặc biển sâu.

Có người thì lấy hình ảnh vàng và pha lê. Người thì lấy hoa, kẻ thì chọn chim chóc. Một số thậm chí còn dùng cả tên của những bộ áo giáp huyền thoại chỉ có vài người biết tới để so sánh với cặp mắt của cô. Chung quy lại, có rất nhiều người không tiếc lời khen ngợi đôi mắt đó.

Vì ai cũng biết Elizavetta là một Vanadis, họ không còn cách nào khác ngoại trừ tán dương, so chúng với một thứ gì đó thật đẹp đẽ. Dù thừa biết là thế, nhưng cô vẫn hỏi đi hỏi lại điều đó.

“Urz. Thế ngươi thì sao?”

Urz không trả lời ngay. Anh chỉ chăm chú nhìn mắt Elizavetta, đầu nghiêng về một phía đầy đăm chiêu, để rồi vỗ tay tựa như vừa mới sực nhớ ra cái gì đó.

“Chúng giống hệt như mắt của một con mèo. Tôi đã từng nhìn thấy một con mèo như vậy cách đây rất lâu lắm rồi.”

Trong tâm trí của Urz chợt hiện lên hình bóng của một ông già thấp bé mập mạp, tay cầm một con mèo nhỏ - một món quà lưu niệm. Gương mặt của ông ta rất mù mờ, thêm nữa Urz cũng không tài nào nhớ nổi tên ông ta.

Một người dân làng ú ớ hét lên và đẩy ùm Urz xuống biển. Một cột nước phóng vọt lên trên mặt biển. Hai người còn lại, mặt xanh lét đi hơn cả biển xanh, mồm miệng cứng đờ không thốt nổi ra câu gì.

Ngay cả Naum, cũng quá kinh ngạc, chỉ biết đưa mắt hết nhìn người dân làng, Urz đang rơi xuống biển và Elizavetta.

Ngẩn người ra, Elizavetta chỉ biết đứng nhìn Urz đang nổi lập lờ ở dưới. Cho dù những gì chàng trai vừa nói đều không có ác ý gì, thế nhưng cũng khó có thể gọi đó là khen được. Nhìn phản ứng của người làng là đủ thấy.

Trong quá khứ cũng từng có người so sánh cặp mắt của cô với hoa hoặc chim, thế nhưng tất cả rốt cuộc cũng chỉ xoay quanh một cái khái niệm “đẹp” đầy cay đắng. Kể cả là Elizavetta không thực sự thích hay ghét mèo, cô cũng không hề thấy chúng thực sự đẹp ở điểm nào.

Sau một hồi im lặng, bỗng Elizavetta lấy tay che miệng, người cúi gập hẳn xuống mà cười khoái chí. Cô thực sự hết sức bất ngờ.

Sau khi cười thoả thích, Elizavetta lệnh cho người làng kéo Urz lên thuyền. Sau đó,

cô thẳng thừng thắc mắc.

“Urz. Ngươi còn họ hàng gia quyến gì không?”

Đang vắt quần áo, Urz băn khoăn nhìn về từng người cùng làng với mình. Họ rụt rè đáp lại thay cho Urz.

“Urz không có họ hàng chi hết. Không, đúng ra là không có ai biết chắc điều đó.”

“Urz… Cậu ta không phải là người làng này. Chúng tôi tìm thấy cậu ta đang nằm bất tỉnh và đưa cậu ấy về làng.”

Tầm 12, 13 ngày đã trôi qua kể từ khi Urz được tìm thấy trên bãi biển. Việc người dân làng tìm ra được Urz cũng không hề bất ngờ lắm, nhất là khi làng của họ nằm ngay sát bờ biển, cộng với việc người trong làng hằng ngày vẫn hay tới đó để thu lượm sò biển.

Quần áo tả tơi, người lạnh ngắt. Nhìn qua thì khó mà biết được liệu anh chàng còn sống hay chết, thế nhưng, khi tới gần kiểm tra thì họ vẫn thấy anh thoi thóp thở. Không muốn để anh lại, người dân làng đã mang Urz về làng để chữa trị.

“Trưởng làng cũng không rõ có phải là cậu ta bị ngã từ một con thuyền đi qua nơi này và bị sóng đánh dạt vào đây không.”

Sau đó 3 ngày, chàng trai trẻ cũng tỉnh lại, thêm 2 ngày thì đã có thể nói và đi được. Thế nhưng, khi được người làng hỏi tới danh tính, anh không hề nhớ ra được bất cứ điều gì hết.

Khi bị hỏi dồn xem còn nhớ gì không, bỗng anh ta thốt lên 1 tiếng “Urz”. Từ đó, người làng cũng gọi anh là Urz.

Không tài nào nhớ thêm được gì nữa, Urz cũng không biết phải đi đâu về đâu nữa. Anh ta cũng chẳng có xu nào dính túi.

“Nghe nói là người từ xứ xứ đều đổ về Kinh thành Silesia. Tạm thời cậu cứ đây mà giúp việc cho mọi người, dành dụm tích cóp đợi tới khi nào lấy lại được trí nhớ. Như thế có được không?”

Nói là “như thế có được không”, bản thân Urz cũng chẳng có lựa chọn nào khác. Anh vẫn còn nợ ơn cứu mạng và chăm sóc từ những người dân làng này. Cúi đầu xuống, Urz nói “mong được mọi người giúp đỡ” và bắt đầu cuộc sống mới của mình.

Khi những người làng đi cùng kể xong chuyện của anh, mọi người cũng vừa vặn nhìn thấy bãi biển ngoài xa. Những người đang đợi họ trên bờ vừa nhác thấy đã vẫy tay đầy mừng rỡ.

Dù vậy, Elizavetta chỉ chăm chăm nhìn Urz.

“Vậy thì quá tiện rồi.”

Nếu Urz mà là người Legnica thì sẽ có chút rắc rối nảy sinh. Thế nhưng, nếu mà là mất trí nhớ thì sẽ không vấn đề gì hết. Quyết là vậy,

Elizavetta quay sang nói với Urz.

“Ta sẽ mang ngươi theo. Urz, từ ngày hôm nay ngươi sẽ phục vụ cho ta.”

Dân làng xung quanh đều há hốc mồm ra mà nhìn, đến cả Naum cũng lộ rõ vẻ bất ngờ.

Về phần Urz, với vẻ mặt lơ đãng và một giọng nói đều đều, anh chỉ đáp “vâng”.

. Việc Urz đi theo Elizavetta không gặp một chút trở ngại gì từ bên dân làng hết.

Cho dù trong những ngày ngắn ngủi ở ngôi làng, Urz đã làm việc hết sức chăm chỉ, tuy nhiên điều đó cũng không thể nào thay đổi được việc bản thân anh mang lại rất nhiều điều rắc rối. Không có lý do gì trói buộc anh ở lại đây. Thêm vào đó, chất giọng Brune lại khiến cho dân làng thêm phần lo lắng và dè chừng. Nếu như có một quý tộc tò mò nào đó mang anh đi thì quả đúng là những gì họ mong muốn.

“Ta mừng cho cậu lắm, Urz ạ.”

Người trưởng làng nói và vỗ vai Urz.

“Có lẽ đó chỉ là nổi hứng nhất thời thôi, cơ mà xem ra nữ quý tộc đó không phải là người xấu đâu. Nếu cậu mà cần cù chịu khó, rồi thì cũng sẽ có ngày được về Brune thôi.”

“Vâng, bác nói đúng đấy. Cảm ơn bác rất nhiều.”

Urz cũng mỉm cười cảm ơn ông trưởng làng.

Tiếp đó, Urz cũng đi tới từng nhà người quen ở làng, cảm ơn vì đã chăm sóc anh cũng như nói lời từ biệt. Cho dù cô gái tìm thấy Urz ở bờ biển tỏ vẻ hơi ngập ngừng, cô vẫn tiễn anh đi bằng một nụ cười, kèm theo đó là một lời “hãy bảo trọng”.

Thế nhưng, cô gái đó vẫn còn một điều không thể nào nói ra được. Đó là vể cây cung đen cô nằm trong tay Urz khi cô mới tìm thấy anh ấy đang nằm bất tỉnh trên bãi biển. Khi đó, cô đã vô tình quăng cây cung xuống biển do cảm thấy cây cung có cái gì đó đầy kỳ quái. Và cũng từ đó, cô cũng cảm thấy trong lòng nặng trĩu mỗi khi nghĩ tới điều đó.

Và như vậy, từ đó Urz cũng bắt đầu phục vụ Elizavetta.

. .

Trong khi Ellen còn đang chuẩn bị cho đám tang cảu Sasha ở Legnica, do Lãnh chúa của mình vẫn đang vắng mặt ở trong

Lâu đài Leitmeritz, Limlisha đang bận túi bụi xử lý giấy tờ đang chất đống trong văn phòng.

Lớn hơn chủ nhân của mình 3 năm, tức là năm nay cô đã 20 tuổi, cô gái có thân mình mảnh khảnh, người khá cao ráo, hiện đang mặc mộ bộ trang phục dày, mái tóc vàng buộc thành một bím vắt sang bên trái. Một con gấu bông nhỏ tí được treo trên thắt lưng cô gái, cố ý để sao cho người ngoài không nhìn thấy được.

Cô ta là phụ tá, đồng thời cũng là một trong những người bạn thân nhất của Ellen. Những người thân vẫn gọi cô là “Lim”. Trên gương mặt xinh đẹp của cô gái không có vẻ gì là dễ gần cả, thế nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc cô là một con người cáu kỉnh hay không có cảm xúc chi hết. Nguyên do là bởi một phần đó là bản chất của cô, phần còn lại là vì cô luôn muốn tỏ ra vẻ thật điềm tĩnh.

Vào tối hôm đó, một vị khách bất chợt có mặt ở Leitmeritz.

“Eugene-dono–– Bá Tước Pardu ư?”

Eugene Shevarin là Lãnh chúa xứ Pardu, nằm ở phía Đông Leitmeritz. Không giống như Brune, vốn đặt tên tước hiệu trước họ, ở Zchted, tước hiệu lại được gắn với tên của lãnh địa người đó cai quản.

“Hãy dẫn ngài Bá tước tới phòng khách. Tôi sẽ ra ngay.”

Lộ chút ngạc nhiên, sau khi ra lệnh xong, Lim ngừng công việc lại và đứng dậy. Kể cả là có để ông ta đợi, ông ta cũng sẽ không hề phiền lòng, thế nhưng cô không thể nào để điều đó xảy ra được.

Trong khi sải bước thật nhanh về phía phòng khách, đúng lúc đó Teita cũng lao ra. Một cô gái với dáng dấp của một người hầu gái, với một chiếc tạp dề trắng phủ trên một bộ váy đen dài chạm gót, mái tóc nâu của cô được buộc gọn gàng lại về phía sau.

Cô ta là một cô gái người Brune, vốn là một người hầu gái từ khi Tigre còn ở Alsace. Cô là một người dũng cảm và hăng hái tới độ sẵn sàng chuyển tới sống ở Lâu đài này. Đã nửa năm trôi qua kể từ khi cô phục vụ ở đây, thế mà cô không chỉ chiếm được lòng tin của Ellen và Lim, mà còn từ nhiều người khác nữa.

“Em đã thắp lò sười phòng khách rồi, thế nhưng chắc phải đợi tí nữa thì phòng mới ấm được. Em đang định chuẩn bị rượu ấm để mang ra.”

“Em hãy làm đi. Có bao nhiêu người đi theo Ngài Bá Tước vậy?”

“Chỉ có một người hầu cận thôi ạ. Em đã chuẩn bị một phòng nghỉ cho người đó rồi.”

Vào lúc này Leitmeritz vẫn còn đang là mùa thu, thế nhưng trời đã trở lạnh dù mới chỉ nhá nhem tối. Liếc nhìn bầu trời đêm đen ngoài cửa sổ, Lim nói tiếp với Teita.

“Chị nghĩ nếu là Ngài Bá Tước thì chắc là sẽ không có vấn đề gì, thế nhưng phiền em chuẩn bị một bộ áo lông để ngài ấy mặc. Cứ báo cho hầu gái trưởng là được.”

Cúi xuống và đáp “Vâng ạ”, Teita lại tất tả chạy dọc theo hàng lang.

Bước tới phòng tiếp khách, Lim chậm rãi mở cửa ra sau khi gọi vọng vào bên trong. Hơi ấm từ căn phòng toả ra, mơn trớn gò má của cô gái. Bên trong phòng, một người đàn ông đang ngồi trên sô-pha và thả lỏng toàn thân, thế nhưng ông ta mỉm cười bật dậy ngay khi nhận thấy bóng dáng của Lim.

“Lâu rồi không gặp, Limlisha. Con vẫn khoẻ chứ?”

“Vâng. Thế nhưng được thấy Eugene-dono mạnh khoẻ là con thấy vui rồi.”

Lim cũng bớt nghiêm mặt lại và đứng chào. Đối với cô, Eugene như là một người thầy. Vào 3 năm trước, khi Ellen mới trở thành 1 Vanadis, Eugene đã được cắt cử làm một viên quan ở Leitmeritz, đồng thời lo việc dạy dỗ quy cách ứng xử cho xứng với một quý tộc của Zhcted.

Năm nay đã 44 tuổi, mái tóc dài của ông ta đã ngả dần sang màu xám, thêm vào đó ông ta còn có một bộ râu dài dưới cằm. Nhìn vào thái độ điểm đạm và cơ thể gầy gò của ông ta, có vẻ Ngài Bá Tước là một con người trầm tính. Thế nhưng, Lim, cũng như Ellen, vốn được ông ta dạy dỗ, thừa biết sự thật không phải là như vậy.

“Mà Viltaria-dono đâu rồi?”

Ông ta lên tiếng hỏi về Ellen. Thấy Lim không trả lời ngay, Eugene chỉ niềm nở cười lớn.

“Hừm. Chắc là ngài ấy lại lẻn ra khỏi lâu đài để qua thị trấn, đúng không nào?”

Lim bỗng dưng đỏ mặt, mắt hướng xuống đất. Ellen vốn đã như vậy kể từ lúc còn được Eugene chỉ dạy.

Cùng lúc đó, Teita, tay bưng một chiếc khay, trên đó là những chiếc cốc bằng bạc đựng đầy rượu vang, bước vào căn phòng. Lim nhanh chóng trấn tĩnh lại và lên tiếng mời Eugene ngồi.

“Thật là hân hạnh khi được đón tiếp ngài tại đây.”

Đợi cho Eugene ngồi xuống, Lim cũng ngồi ở phía đối diện. Trong khi đó, Teita đang đặt cốc lên bàn. Cô hầu gái tóc màu hạt dẻ cúi chào, sau đó bước ra ngoài và đóng cửa lại. Eugene quay lại tò mò hỏi Lim.

“Ta cho là cô gái kia cách đây 3 năm vẫn chưa có mặt ở đây nhỉ?”

“Cô ta tên là Teita, một người xứ Brune. Vì một vài lý do nên cô ta hiện đang ở đây.”

“Brune hử. Dù có nghe đồn đại, nhưng xem ra mọi thứ đã dần thay đổi --- Ai mà ngờ rằng con lại có sở thích đáng yêu như vậy chứ.”

Lặng im mất một lúc, Lim mới lần theo ánh mắt của Eugene. Cô nhanh chóng nhận ra con gấu bông vẫn đang đeo lủng lẳng ở trên thắt lưng cô. Cô đã định bỏ nó lại khi ra khỏi phòng, nhưng vì còn đang vội đi tiếp Eugene mà cô quên bẵng đi mất.

“K-không, đây là, ừm, một cái bùa, ý con là…”

“Đâu cần phải xấu hổ chứ. Gấu luôn được coi là hiện thân của Vors, Thần Gia Súc. Và con gái ai mà chẳng thích gấu bông chứ. Lẽ nào con đã tìm ra nửa kia của mình rồi ư?”

Cho dù có hơi hoảng hốt, Lim nhanh chóng lấy lại bình tĩnh trước câu hỏi đùa trêu của Eugene. Cô gái chỉ đáp một tiếng “không” ngắn ngủi với vẻ mặt đầy cô đơn. Cố mỉm cười, cô gái cố chuyển sang chuyện khác để nói.

“Con đã cho chuẩn bị nước nóng và thức ăn rồi. Hôm nay thầy tới đây là vì chuyện vì vậy?”

Như Lim vẫn thường biết, Eugene là người thường cho gửi người đưa tin tới trước. Cô cho rằng đã có chuyện gì xảy ra mà Ngài Bá tước mới đường đột tới đây như vậy. Thế nhưng, người thầy cũ của cô chỉ cười lớn và lắc đầu.

“Con không cần phải lo lắng như vậy làm gì. Chỉ là tiện đường nên ta qua đây chào con một tiếng thôi.”

“Tiện đường?”

Thấy Lim ngơ ngác như vậy, Eugene gật đầu và cầm cốc rượu lên. Dưới ngọn lửa ấm áp trong lờ sưởi, chiếc cốc ánh lên một luồng sáng lấp lánh.

“Ta đang được Quốc Vương triệu kiến, hiện đang trên đường tới Kinh thành.”

Lim hiểu ra ngay. Để đi từ Padu, lãnh địa của Eugene, tới Kinh thành Silesia, đương nhiên nhanh hơn cả là đi qua con đường chính ở Leitmeritz.

“Trời đã tối rồi. Xin thầy hãy ở lại đây đêm nay. Con đã nói ban nãy rồi, thế nhưng con đã cho chuẩn bị nước nóng và thức ăn rồi đó.”

“Nhưng mà…”

Eugene ra vẻ do dự. Cố gắng không tỏ vẻ cưỡng ép, Lim lại nói thêm.

“Nếu con mà chỉ tiễn Eugene-dono đi chỉ với một cốc rượu, e rằng Eleonora-sama sẽ trách mắng con mất. Dù sao thì nỗi nhục của kẻ thuộc hạ cũng là nỗi nhục của người chủ nhân. Những lời đó con vẫn chưa quên đâu.”

Eugene mỉm cười trước lời của Lim. Đó là bởi chính ông , trong khi còn dạy lễ nghi cho Ellen và Lim cách đây 3 năm trước, đã nói đi nói lại điều này. Chính xác hơn thì câu của ông là: “Nỗi nhục của chúng ta là nỗi nhục của chủ nhân chúng ta, và nỗi nhục của chủ nhân cũng chính là nỗi nhục của chính quốc gia.”

“Hờ, với tính cách của ngài ấy, không đời nào Viltaria-dono lại trách mắng con.”

Vừa nói vừa làm một ngụm rượu, Eugene nở một nụ cười ấm áp và nói tiếp.

“Nói là vậy, thế nhưng tới nước này mà từ chối lời mời của con thì không hay chút nào. Đã vậy thì ta sẽ chấp nhận lòng thành của con.”

Đầu tiên Lim dẫn Eugene tới phòng tắm, sau đó Teita đưa ông qua phòng nghỉ. Giống như phòng khách, lò sưởi phòng nghỉ cũng đã được thắp lên. Lim và Eugene lại ngồi đối diện nhau bên một chiếc bàn.

Bữa ăn Lim cho chuẩn bị cũng khá là đơn giản.

Cháo yến mạch nấu với sữa ấm, trứng rán trộn hạt rẻ và cỏ cay, khoai tây nướng với pho mát cắt mỏng, và một bát súp đậu và cá tươm tất đặt trên bàn, toả ra một mùi hương quyến rũ như mời gọi, khói bốc nghi ngút.

Lim chọn những món này là vì cô biết rõ khẩu vị của Eugene. Chỉ cần nhìn phản ứng của Eugene thôi là đủ thấy 3 năm đã trôi qua nhưng khẩu vị của ông vẫn không hề thay đổi.

“Vợ con thầy vẫn khoẻ chứ?”

“Ừ. Con gái ta xem ra càng lớn càng nghịch. Cứ khi nào nghe chuyện Viltaria-dono trên chiến trường, không ngày nào con bé lại không mang về một vết trầy xước mới. Xem ra nó chỉ thích chơi với kiếm và ngựa thôi. Dù cho con bé trái ngược hoàn toàn với mẹ của nó, nhưng xem ra cũng có cái vui của nó. Thế nhưng hai chúng ta vẫn phải liên tục coi chừng con bé.”

Eugene có 1 vợ và 1 con gái. Giọng nói của Ngài Bá tước, cho dù xen vào đó là những tiếng thở dài, vẫn chứa đầy sự quan tâm tới gia đình mình.

Nghe tới đó, một lần nữa Lim lại thêm phần thán phục người thầy cũ của mình.

Một phần là do vợ của ông không phải là một phụ nữ bình thường, mà là một người trong gia đình Hoàng gia, cháu gái của Quốc vương Victor.

Đã từng có thời Eugene là một trong những cận thần gần gũi nhất của Vua Victor. Nhờ vào thái độ khuyên can Đức vua không hề sợ sệt mà Đức vua đã gả cháu gái mình cho ông. Chuyện đó đã xảy ra cách đây 15 năm trước.

Theo luật của Zhcted, khi con gái trong Hoàng tộc được gả cho người khác, quyền thừa kế ngôi báu của người đó cũng được chuyển sang người chồng. Ai mà cưới cháu gái của Vua thì cũng đồng nghĩa với việc nắm được vị trí thứ 8 trong việc truyền ngôi báu. Đối với Đức vua, phải yêu quý lắm mới ban cho điều đó.

Eugene cảm tạ

Đức vua và chấp nhận cuộc thành hôn này. Tiếp đó, ông ta được ban cho vùng Pardu nằm ở phía Nam Vương quốc và cùng vợ chuyển tới sống tại đó. Sau này, ngoại trừ là dịp Đầu năm, hiếm khi nào ông lui tới Kinh thành. Đó cũng là cách để bày tỏ lòng trung thành của ông.

Nhắc lại chuyện cũ, khi Ellen được Eugene kể lại điều này, cô ta không nói lên nổi lời nào, chỉ biết ú ớ “Hế-ế” mà nhìn chằm chằm vào vị Bá tước gày gò. Nữ Vanadis tóc bạch kim không tài nào tin nổi là ông ta lại có quan hệ với Vua Victor tới mức đó.

Vì là cuộc hội tụ đầu tiên sau 3 năm dài đằng đẵng, Lim và Eugene bắt đầu hỏi han nhay về tình hình hiện tại của đôi bên. Tuy nhiên, khi Eugene đả động tới cuộc nội chiến Brune vào năm trước, một thoáng buồn bã hiện lên trên khuôn mặt của Lim.

Nhận ra ngay điều đó, Eugene cố lái sang chủ đề khác, thế nhưng Lim bỗng lộ rõ vẻ quyết tâm và nhìn thẳng vào vị Bá tước tóc hoa râm.

“Không, thầy không cần phải để tâm tới vậy đâu. Thêm nữa, con cũng muốn nói cho Eugene-dono biết về chuyện này.”

Đôi mắt xanh của cô gái loé lên đầy nghiêm túc và sắc bén, khiến cho Eugene cũng phải nghiêm mặt lại.

“… Vậy thì kể cho ta nghe đi.”

“Vậy xin phép thầy cho con kể về cuộc nội chiến ở Brune.”

Lim bắt đầu trình bày lại ngắn gọn hết sức có thể về trận đánh ở Dinat, rồi tại sao Tigrevurmud Vorn bị bắt làm tù binh, việc Leitmertiz cho Alsace mượn binh, can thiệp vào cuộc nội chiến để rồi dẫn tới khi tìm ra Công Chúa Regin và đánh bại Công tước Thenardier.ư

“Sau đó, Bá Tước Tigrevurmud trở thành thượng khách của Lâu đài. Ngài ấy luôn tỏ ra sốt sắng học hỏi văn hoá của Vương quốc chúng ta và, cho dù tài hèn sức mọn, con vẫn cố hết sức giúp ngài ấy.”

Ellen thi thoảng cũng chen vào trong khi Lim đang giảng dạy cho Tigre, từ ngôn ngữ trang trọng dùng trong lễ nghi cũng như trong cung đình, cho tới tập tục cùng với những câu chuyện cổ tích từ những thời xa xưa. Đôi lúc, Tigre cũng dạy lại cho 2 người những tập tục và thành ngữ của Brune.

Nếu mà ở một ngôi làng nào trong lãnh thổ của Leitmeritz có vấn đề gì khó khăn, ba người cũng cùng nhau vắt óc tìm kiếm cách giải quyết.

Lim cũng rất kinh ngạc cũng như kính trọng Tigre trước tính cách nghiêm túc cũng như công bằng của anh. Cho dù là những việc có lợi cho Leitmeritz hay Zhcted đi nữa, anh cũng luôn suy tính sao cho thật chu đáo và cặn kẽ.

Ví dụ như, kể cả khi phải đặt lợi ích của Leitmeritz và Alsace lên bàn cân, cho dù chàng trai trẻ có phải nhượng bộ đi nữa, anh cũng không bao giờ chịu thoả hiệp hoàn toàn cả. Với một tinh thần như vậy, Lim vẫn luôn tin cậy cũng như giữ một ấn tượng quý trọng về anh.

Có những lúc trong khi dùng bữa, họ còn mời cả Teita vào ăn chung. Khi thì cả bốn người cũng trò chuyện vui vẻ, lúc thì giả trang lẻn ra khỏi lâu đài, lấy cớ là đi thị sát tình hình dân chúng.

“Có điều này e là hơi xấc xược, nhưng con nghĩ rằng Bá tước Tigrevurmud không chỉ là một người khách, mà còn là một người bạn quý giá của Eleanora-sama nữa.”

Lim dừng lại ở đây. Nếu mà còn tiếp tục nói nữa, cô sợ là mình sẽ không kìm lại nổi cảm xúc bừng cháy trong lòng cô.

Cho dù Eugene chỉ im lặng lắng nghe chuyện của Lim từ đầu tới giờ, ông cuối cùng cũng bình tĩnh lên tiếng, có lẽ là bởi thấy Lim không nói gì thêm nữa.

“Vị khách đó xem ra đã đi đâu rồi thì phải?”

“… Làm sao mà thầy biết được?”

“Nếu mà còn ở đây, chắc chắn là con sẽ mang người đó ra giới thiệu cho ta. Mặc dù con nói đó là một người bạn của Viltaria-dono, nhưng xem ra con cũng rất quan tâm tới người đó.”

Lim vô tình liếc mắt xuống dưới. Dù đang cố nói chuyện thật bình tĩnh, nhưng xem ra người thầy của cô đã nhìn thấu tâm can cô. Hay là, đó là bởi cô đã sốt sắng nói hết ra trước khi bản thân mình kịp nhận ra chăng?

“Bá tước Tigrevurmud…”

Không ổn rồi, Lim nghĩ. Cho dù có cố ép mình bình tĩnh lại, thế nhưng giọng nói của cô gái cứ thế mà trầm hẳn xuống, và vẻ điềm tĩnh của cô cũng một đi không trở lại.

“Ngài Tigrevurmud có việc nên đã đi tới Vương quốc Asvarre, thế nhưng thuyền của ngài đã bị kẻ nào đó tấn công trên đường quay về, và ngài ấy đã bị ngã xuống biển…”

Tới đây, lời của cô lại càng thêm phần ngắc ngứ. Trông mặt của Eugene cũng hằn rõ vẻ căng thẳng. Người quý tộc gầy gò hiểu ra ngay tình hình lúc này nghiêm trọng tới mức nào.

Không bao giờ có chuyện thượng khách từ Brune gửi sang lại tự nguyện đi ra nước ngoài. Chắc chắn là phải có Zhcted nhúng tay vào mới dẫn tới việc này.

Nếu là thế, kể cả là khi Tigre bị ngã xuống biển là do tai nạn, Zhcted vẫn không thể nào rũ bỏ trách nhiệm được. Có lẽ là Brune cũng sẽ không thể nào tha thứ cho Zhcted.

Và, nếu vì thế mà dẫn tới xung đột giữa Brune và Zhcted, các Vương quốc lân cận như Muozinel và Sachstein cũng được dịp thừa nước đục thả câu ngay.

Trước đây, Eugene đã từng đảm nhiệm nhiệm vụ ngoại giao với Brune suốt gần 10 năm. Dựa vào cục diện lúc này, xem ra vị Bá tước sẽ được giao cho một nhiệm vụ khó khăn. Không, có khi chính vì chuyện này mà ông được triệu kiến tới Kinh thành như vậy.

Đó cũng chính là những gì Lim đang nghĩ, cho dù biết là cô không thể nào vui nổi sau khi nói chuyện đó ra, nhưng cô vẫn nói ra.

“Limlisha.”

Eugene nhẹ nhàng mỉm cười mà nói.

“Ta nghĩ ra ta đã nói từ lâu rồi, thế nhưng khóc đâu có gì là xấu hổ chứ. Và nếu mà đó là người con hằng thương nhớ thì càng có nhiều lý do để khóc mà.”

Trước khi Eugene kịp nói xong, đôi hàng lệ đã tuôn trào từ khi nào trên gương mặt của Lim.

Dù nhận ra, nhưng cô không tài nào dừng lại nổi. Cô gái, người phụ tá trung thành của nữ Vanadis, giờ đây chỉ biết cúi gằm mặt xuống, vai rung lên bần bật mà khóc nức nở. Đây là lần đầu tiên Lim bật khóc trước mặt người khác kể từ khi cô biết được tin chàng trai trẻ xứ Brune mất tích.

Phải mất gần 15 phút Lim mới nín được.

“Con đừng nên ép mình quá đáng.”

Eugene dịu dàng nói với cô gái tóc vàng, lúc này còn đang bận lau đôi mắt đỏ hoe của mình.

“Con nên nghỉ ngơi 1,2 ngày đi. Có chừng đó thôi thì công việc cũng không vì thế mà rối tung lên đâu.”

“Cảm ơn thầy đã quan tâm. Nhưng con vẫn ổn mà.”

Nhẹ nhàng vuốt ve con gấu bông gắn trên thắt lưng, Lim lại tiếp lời.

“Nói điều này ra e có người sẽ cười mà cảm thấy thương hại cho con, nhưng con vẫn muốn tin là Bá tước Tigrevurmud vẫn còn sống. Một người như vậy không thể nào lại mất mạng ở một nơi như vậy được.”

Cho dù đôi mắt xanh của cô vẫn còn đọng lại vài giọt nước mắt, giọng của cô không còn chút ngập ngừng gì nữa. Nhận thấy cô học trò cũ của mình đã lấy lại được bình tĩnh, Eugene cảm thấy nhẹ nhõm mà gật đầu.

Sau đó, Lim cũng kể lại lý do tại sao Ellen lại vắng mặt. Nghe xong chuyện, Eugene nghiêm mặt lại.

“Alexandra Alshavin-dono… Ta mới chỉ được diện kiến ngài ấy đúng một lần.”

“Eugene-dono. Có phải con làm thế là sai ư?”

Lim lo lắng hỏi. Chính vì Eugene là người thầy đối với cô mà cô mới dám hỏi như vậy. Vị Bá Tước tóc xám chỉ mỉm cười hiền hậu.

“Ta không bảo đó là đúng, nhưng đó cũng không phải là sai. Ta cũng được biết là Alshavin-dono là một lãnh chúa cai trị rất được lòng người ở Legnica. Người dân Legnica sẽ không bao giờ quên tình bạn mà Viltaria-dono vẫn luôn trân trọng với ngài ấy. Ngoài ra---”

Eugene lại ra vẻ nghiêm nghị mà hạ thấp giọng xuống.

“Thực ra, ta không nghĩ là quân Muozinel lại dám xâm lược vào lúc này.”

“Con cũng nghĩ là như vậy.”

Thấy Lim đáp như vậy, đôi mắt của Eugene ánh lên đầy hài lòng.

“Con có thể giải thích cho ta nghe không?”

Cử chỉ và giọng điệu của Ngài Bá Tước bắt đầu giống hệt như khi ông còn dạy dỗ cho Ellen và Lim cách đây 3 năm trước. Lim cũng nở 1 nụ cười đáp lại. Có lẽ cô đang nhớ lại khi quay lại làm người học trò như thế này, cô lại nhớ tới những ngày làm gia sư cho Tigre.

“Đó là bởi con không nghĩ ra lý do gì để chúng tấn công chúng ta nữa.”

“Ta cũng nghĩ như vậy. Brune vẫn còn đang trong quá trình phục hồi sau trận nội chiến năm trước. Ta cũng được biết là tình hình nội bộ của Sachstein cũng đang bắt đầu rối ren. Cả Muozinel cũng như những quốc gia nằm phía Đông xem ra có vẻ khá ổn định. Nếu là thế, không việc gì chúng lại can thiệp vào Quốc gia chúng ta làm gì chứ?”

“Nếu chỉ là ở quy mô nhỏ thì chúng ta vẫn thường phải đối mặt chúng ở biên giới thật. Thế nhưng, với một quân số lên tới 100.000 người như thế này, con e là chúng còn có mưu đồ nào khác.”

“Phần đất phía Nam của chúng ta là một vùng phì nhiêu màu mỡ. Thêm vào đó, Quốc vương đương nắm quyền của Muozinel xem ra cũng là một người thèm muốn mở mang bờ cõi ra bên ngoài.”

“Vâng ạ. Và, có lẽ chúng đang định hội quân với Asvarre, tạo thế gọng kìm từ phía Nam và phía Tây. Nhưng xem ra kế hoạch đó đã thất bại rồi.”

Và, trước khi chêm vào một câu rằng “Xin thầy đừng có nói cho ai biết”, Lim bắt đầu kể lại chuyện cuộc nội chiến Asvarre đã đi tới hồi kết, và Zchted đã lập 1 liên minh với Công chúa Guinevere. Vì đây là lần đầu tiên ông được biết tin này, Eugene chỉ biết tròn xoe nhìn đầy thán phục.

“Vậy thì mục đích của Muozinel sẽ là thu hút sự chú ý vào 100.000 quân kia. Cùng lúc đó, chắc chắn chúng sẽ cho rút những kẻ hiện đang trú ở Asvarre và, có lẽ là, cả những kẻ đang ẩn náu ở trong Vương quốc chúng ta nữa.”

“Vâng. Tuy nhiên, nếu mà chúng ta mà để lộ ra bất cứ sơ hở gì thì chúng sẽ càng được thể mà giở trò khiêu chiến.”

Cho dù gật đầu đồng tình với lời của Lim, Eugene cũng nhanh chóng nghiêm mặt lại.

Sau một cuộc trao đổi đầy những tin hệ trọng như vậy, hai người lại quay về với những câu chuyện thoải mái hơn, như thể muốn xua tan bầu không khí nặng nề ban nãy. Họ có không biết bao nhiêu là chuyện để mà kể cho nhau nghe.

Sáng sớm ngày hôm sau, đúng như những gì ông đã nói, Eugene và người hầu cận của mình rời khỏi Leitmeritz. Từ trên bức tường thành của Leitmeritz, Lim dõi theo về hướng vị Bá tước đang bước xa, xa dần về phía chân trời.

. .

Việc đầu tiên mà Elizavetta Fomina phải làm sau khi trở về Lebus là giải quyết đống công việc đang chất đống lên trong thời gian cô vắng mặt.

Cho dù những quan lại dưới quyền cô đã thay mặt chủ nhân của họ mà giải quyết phần nào công việc, dĩ nhiên là còn rất nhiều việc cần phải có sự chấp thuật của Elizavetta, Lãnh chúa của vùng đất này. Kể cả khi đi đang trên đường đi dọc hành lang để tới văn phòng, cô cũng phải nghe hàng loạt báo cáo cũng như đưa ra mệnh lệnh để thi hành.

Vừa mới bước vào phòng, thứ đầu tiên chào đón cô là cả một núi giấy tờ

đủ thể loại trên bàn. Cô ưu tiên cho những văn kiện khẩn liên quan tới công việc cai quản lãnh thổ trước, tiếp đó là những vấn đề liên quan tới trận thuỷ chiến.

“Cho dù có được chút chiến lợi phẩm, thế nhưng xem ra là cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

Trong khi thu xếp các khoản ban thưởng cho binh lính và thuỷ thủ, tiền chu cấp cho các gia đình những tử sĩ, chi phí sửa chữa thuyền chiến cùng với bổ sung hàng loạt những thứ quân nhu khác, Elizavetta thở dài.

Gần 20 thuyền hải tặc chiếm giữ được sau trận chiến được chia đều cho cả Legnica và Lebus, thế nhưng không nghi ngờ gì nữa, tổn thất cũng như chi phí sau cuộc tiễu trừ hải tặc này thực sự không hề nhỏ bé chút nào.

Cho dù đã cho bán toàn bộ số hải tặc bán giữ được làm nô lệ cho các thương nhân Muozinel ở ngoài cảng, cuối cùng thì họ đành chấp nhận ở mức giá rẻ mạc vì lý do tất cả là hải tặc. Có thể là họ đã bị phát hiện ra là đang muốn tống khứ hết đám cướp biển đó càng nhanh càng tốt nên mới ra giá được như vậy.

--- Nhắc tới tổn thất lớn nhất…

Cảnh tượng cuộc giao chiến giữa Sasha và Torbalan lại thoáng hiện lên trong tâm trí Elizavetta. Chung quy lại, cái chết của cô gái đương nhiên là mất mát to lớn nhất.

--- Không biết Alexandra đã kể cho ai nghe về trận đấu của cô ta với con quỷ đó chưa nhỉ.

Những Vanadis gần gũi với Sasha nhất bao gồm Ellen, Mira và Sophie. Vì cả Sophie và Olga đều đã bị Torbalan tấn công trên đường quay về từ Asvarre, chắc chắn là họ đã biết rõ về chuyện này.

Khuôn mặt của Ellen hiện lên trong tâm trí cô. Cô băn khoăn không biết liệu có nên kể cho cô ta nghe Sasha đã chiến đấu như thế nào không?

--- Tại sao mình lại phải làm việc đó chứ? Chắc là sẽ có ai ở Legnica kể cho cô ta nghe thôi.

Elizavatte lắc đầu nguầy nguậy, cố xua tan đi những suy nghĩ lăn tăn đó. Sau đó, cô lại cau mày nhìn về đống giấy tờ trên bàn làm việc. Cho dù không hề định phớt lờ nhiệm vụ của một lãnh chúa, lẽ nào chỉ nửa tiếng thả hồn vào gió lại là một thứ xa xỉ tới vậy sao?

Bỗng dưng có ai đó gõ cửa phòng cô, kèm vào đó là tiếng của một người hầu vang lên.

“Vanadis-sama. Có Đức Ngài Công tước xứ Bydgauche tới ạ.”

Phải mất tới 1 giây Elizavetta mới đáp lại được. Không phải là do cơn mệt mỏi, bản thân vị khách là đủ để khiến cô phải tần ngần tới vậy.

“––Ilda-sama, không, Đức Ngài Công tước ư?”

Đứng vụt dậy khỏi ghế, Elizavetta bước nhanh ra cửa phòng. Vừa mới mở cửa ra, cô nhìn thấy người hầu đang đứng chờ sẵn ở đó.

“Dẫn ngài ấy vào. Có bao nhiêu người đi cùng Đức Ngài Công tước? Hãy cho chuẩn bị phòng nghỉ, nước nóng và đồ ăn ngay đi.”

“Ngài Công tước mang theo 3 người tất cả. Đã có người khác dẫn ngài ấy tới phòng khách rồi.”

Trước lời của người hầu, Elizavetta thở phào nhẹ nhõm. Nếu là 4 người tính cả Ilda, xem ra cô vẫn có thể thu xếp mà vẫn không bị coi là thô lỗ.

“Làm tốt lắm, cảm ơn ngươi đã vất vả.”

Sau khi nói lời cảm ơn người hầu kia xong, cô tiếp tục ra lệnh cho anh ta chuẩn bị một tấm áo choàng trắng bằng lụa để khoác lên người. Nếu được, cô vẫn muốn thay đổi sang một bộ lễ phục, chải truốt lại đầu tóc cũng như trang điểm, thế nhưng cô cũng không muốn để khách đợi lâu, thành ra cô chỉ có thể chuẩn bị như vậy mà thôi.

Trước cửa phòng khách, Elizavetta gõ của và xưng tên mình ra, đợi cho phía bên kia đáp lại mới đẩy cửa bước vào.

“Đã lâu rồi không gặp, thưa Đức Ngài Công tước.”

Elizavetta cúi đầu, miệng nở một nụ cười rạng rỡ. Trong khi đó, người được gọi là “Đức Ngài Công tước” hiện đang thoải mái ngồi trên một chiếc ghế, thế nhưng ông ta cũng đứng dậy ngay và cúi đầu trước Elizavetta với một dáng vẻ đầy hiên ngang.

“Ở đây thì ngài cứ việc gọi tôi là Ilda. Thật là mừng khi mà ngài vẫn khoẻ mạnh, thưa Vanadis-dono.”

Công tước xứ Bydgauche, Ilda Krutis năm nay là được 43 tuổi. Thân hình cao ráo, dáng dấp chắc nịch vốn được trui rèn qua biết bao ngày luyện tập và chiến trận được mặt trời hun đúc lại thành một nước da nâu rám nắng. Khuôn mặt tựa như đẽo gọt từ đá của ông ta tràn đầy những uy nghiêm và tham võng.

Người này gọi Vua Victor bằng bác, vốn dĩ là con trai của em Quốc Vương. Ông ta đứng thứ 7 trong danh sách nối ngôi, và được Đức vua phong cho làm Công tước. Vị Công tước này cai quản vùng Bydgauche nằm ngay cạnh Lebus. Có thể nói là 2 bên có quan hệ khá tốt đẹp. Họ vẫn thường có qua có lại với nhau mỗi khi có việc gì cần thiết.

Cho dù Ilda là một nhà cai trị giỏi giang, người đời thường chỉ biết tới ông ta như là một con người đầy quả cảm. Bản thân ông ta cũng tự cho rằng ưu điểm của mình là sự dũng cảm.

Thực tế, từ tài đánh kiếm, cưỡi ngựa cho tới cầm quân của ông ta đều thực sự tài ba, đến mức hầu như không có ai ở miền Bắc Zhcted có thể sánh bằng ông được.

“Tôi có nghe đồn là cuộc tiễu trừ mọi rợ lần nay đã kết thúc bình an vô sự.”

“Ngài cũng đã làm rất tốt trong cuộc tiễu trừ hải tặc vừa xong.”

“Vì tài hèn sức mọn, tôi đã để mất một người chiến hữu của mình.”

Giọng của Elizavetta trầm hẳn xuống. Thế nhưng, cô không dám nói thêm gì về nỗi hối tiếc của mình trước những mất mát về cả người lẫn của của bản thân. Nguyên do là bởi cô cũng được biết là Ilda cũng gặp phải những tổn thất không hề nhỏ bé gì.

Khoảng một tháng trước, Ilda được Đức vua Victor lệnh cho mang 3.000 quân đi tiểu trừ man di mọi rợ đang quấy rối ở phía Bắc Vương quốc.

Vốn dĩ theo kế hoạch ban đầu, mọi chuyện dự định sẽ kết thúc chỉ trong vòng 20 ngày. Thế nhưng số lượng của đối phương lại lớn hơn rất nhiều so với báo cáo, thêm vào đó, chúng cũng chống cự lại dữ dội hơn nhiều so với dự tính. Kết cục là, Ilda buộc phải chiến đấu đầy khó khăn. Phải tới tận cách đây vài ngày ông ta mới quét sạch được đám man di, thế nhưng tổn thất của phe ông cũng lên tới trên 500 người.

Cho dù phần thắng nghiêng về phía ông, vị Công tước vẫn cảm thấy thất vọng tràn trề.

Cố xua đi bầu không khí nặng nề trong phòng, Elizavetta cố tình vui vẻ hỏi.

“Tiện thể, ngài tới đây là vì việc gì vậy?”

“À không có gì đâu. Tôi chỉ ghé qua đây mà thôi. Đã bước qua Lebus mà không chào hỏi gì ngài thì thật vô lễ quá. Tôi sẽ đi sớm thôi.”

“Xin ngài đừng có nói vậy chứ, sao ngài không nghỉ ngơi một lát đi? Cho dù Đức Ngài Công tước, à không, Ilda-sama có thể chịu được, tôi sợ là người hầu của ngài đã cảm thấy mệt mỏi rồi. Thế nhưng nếu đúng là ngài có việc cấp thiết thì tôi cũng không dám giữ chân ngài lại làm gì.”

“Hừm, Nếu ngài đã nói vậy thì cho phép tôi được nhận lòng thành của ngài.”

Ilda cười lớn và tỏ vẻ cảm ơn trước lời đề nghị của Elizavetta.

. Vì Ilda tới đây hơi đường đột, Elizavetta chỉ có thể chuẩn bị một bữa ăn có phần hơi chắp vá, tuy nhiên xem ra là cũng không kém phần thịnh soạn.

Trên bàn ăn có trứng cá tầm đắp trên bánh mỳ lát mỏng cháy cạnh, trứng tráng với cá hồi thái nhỏ, thịt bò quay nhồi thảo dược, cá hồi vân tẩm muối nướng, tôm và sò hầm với đủ loại gia vị rồi đặt lên nấm, và súp rong biển.

Vì lãnh thổ của Lebus tiếp nối với biển, có rất nhiều thứ bắt được tại đó có thể dùng làm những món hầm hoặc nấu xúp. Tất cả món ăn đều được nấu chín kỹ, khiến cho khói bốc nghi ngút, tới cả người ngồi đối diện nhau cũng khó mà nhìn rõ được nhau.

Thêm vào đó là một vài chai rượu vang và vodka. Elizavetta biết là Ilda thường hay uống vodka hơn. Tiện cũng nói thêm, những người hầu đi cùng Ilda hiện đang dùng bữa ở phòng khác.

“Nếu mà Ilda thấy hợp miệng là tôi thấy vui lắm rồi.”

“Vanadis-dono cứ hay lo xa. Đã đường đột tới đây thế này mà ngài vẫn chuẩn bị cả một bàn tiệc thịnh soạn đến thế này thì không có lý nào lại không ngon được. Thêm nữa, tôi cũng mới từ chiến trường về cách đây vài ngày.”

Cười lớn, Ilda ăn hết món này tới món khác trên bàn tiệc. Cảm thấy thán phục phần nào khi lần đầu tiên được chứng kiến một người lại ăn ngon miệng tới mức đấy, Elizavetta thản nhiên hỏi ông ta đang định đi đâu.

“Tới Kinh thành. Quốc vương Victor đang muốn triệu kiến tôi vào cung.”

Ilda vừa đáp vừa làm đưa cốc vodka đầy tràn lên môi. Cho dù mùi vị của món rượu Bắc Zhcted này đậm đà hơn rất nhiều so với ở những nơi khác, thế nhưng Ilda vẫn khà một tiếng đầy thoả mãn sau khi bình tĩnh nốc cạn cả cốc.

“Tiện thể, ngài vẫn tiếp tục luyện đánh kiếm chứ?”

Có một thời gian Ilda đã dạy cho Elizavetta biết những gì cơ bản nhất trong kiếm thuật. Cũng chính Elizavetta đã nhờ ông giảng dạy cho cô.

Cho dù Long khí Valitsaif của cô là một cây roi đen có thể phóng sét, bản thân vũ khí này có thể biến thành một cây đoản côn tuỳ vào tâm trí của Elizavetta. Kể cả là có thể dùng roi thành thạo, chỉ có mỗi như thế thôi thì vẫn chưa có thể gọi là hoàn chỉnh được.

“Ai mà có thể ngờ là một nữ Vanadis dùng roi lại quan tâm tới kiếm thuật chứ.”

Cho dù Ilda đùa như vậy, ông vẫn chỉ cho Elizavetta biết cách dùng kiếm cũng như là đoản kiếm.

Cũng chính Ilda đã yêu cầu cô cứ việc gọi tên riêng của ông ra ở những nơi riêng tư. Đầu tiên Elizavetta tưởng đó là những lời tán tỉnh, thế nhưng khi hiểu ra rằng đó chỉ là tính cách thành thật của Ilda, từ đó cô cũng bắt đầu gọi như vậy.

“Vâng. So với những ngày đó, xem ra bản thân tôi cũng nghĩ mình đã tiến bộ hơn rất nhiều.”

“Vậy thì tốt quá. Nói thế này thì có vẻ hơi giáo điều, thế nhưng trong tương lại xin ngài đứng có lơi là tập luyện.”

Sáng hôm sau, Ilda rời khỏi Lebus và tiếp tục lên đường tới Kinh thành.

Sau khi tiễn người cháu của Vua cùng với tuỳ tùng đi, Elizavetta lại quay về với đống giấy tờ trong văn phòng của mình. Tới khi trời đã sáng rõ, một viên quan lúi húi bước tới phòng của cô.

Ở tuổi 53, ông ta là một trong số những viên quan có tuổi vẫn còn đương chức ở trong Lâu đài. Từng phục vụ từ thời Vanadis trước Elizavetta, tài cán của ông ta có thể đáng tin cậy được.

“Cái người tên Urz đó là ai vậy?”

Trước vẻ mặt nghiêm nghị của viên quan già, Elizavetta chỉ biết giương mắt lên mà nhìn. Ban đầu cô đã định là sẽ suy nghĩ thật cẩn thận để đưa ra quyết định cuối cùng sau khi giải quyết xong công việc đang dồn đống lại. Tạm thời cô đã trao cho anh ta một căn phòng để nghỉ ngơi, kèm theo đó là lệnh cho người hầu chăm sóc, bao gồm cả ăn uống.

“Hắn ta giở trò gì sao?”

“Không, không.”

Viên quan già lắc đầu, Ông ta có cái tật lặp đi lặp lại từ “không” mỗi khi không đồng ý một cái gì đó.

“Hắn ta không làm gì phật lòng người khác cả, thế nhưng tại sao Vanadis-sama lại không hề đề cập chuyện này với chúng tôi?”

Thấy ông ta nói vậy, cô gái cũng chợt nhận ra là mình chưa đưa ra bất cứ giải thích gì về chuyện này.

Khi mới quay về Lâu đài, Elizavetta còn đang bận bịu với đủ thứ công việc, chưa kể tới việc Ilda ghé thăm. Tất cả những điều đó khiến cô quên bẵng mất.

Hơi căng thẳng, nhưng Elizavetta vẫn có nói chuyện bình tĩnh hết sức có thể.

“Ta đã quyết định chọn Urz làm người hầu của ta.”

“… Rốt cuộc thì người đó là ai vậy?”

Khi thấy cô gái trả lời thẳng thừng rằng cô cũng không rõ do anh ta bị mất trí nhớ, viên quan chợt cau mày.

“Như vậy thì khác chi giữ một con mèo hoang chứ?”

“Đúng là thế. Tuy nhiên, hắn ta hữu ích hơn một con mèo hoang rất nhiều đấy.”

. Cho dù Elizavetta cố ra vẻ điềm tĩnh, thực tế tâm trí của cô lúc này cuồn cuộn đầy những căng thẳng và lo lắng.

Đối với nữ Vanadis tóc đỏ, đây không khác gì là một canh bạc.

Ngay từ đầu, Elizavetta cũng đã chẳng thân thiện gì với quan lại dưới quyền mình. Đó là vì tất cả bọn họ đều không phải là do cô chọn ra.

4 năm trước, khi Elizavetta mới trở thành Vanadis của xứ Lebus, tất cả các quan lại cho tới tướng sĩ trong Lâu đài đều đã tề tựu đông đủ, không thừa không thiếu chỗ nào. Họ đều là những người tài giỏi kỳ cựu do chính người Vanadis tiền nhiệm vắt óc ra tìm kiếm và thu nạp.

Nhờ có họ mà Elizavetta không phải tự mình tốn công đi tìm kiếm người tài. Dù rất biết ơn vì điều đó, thế nhưng nữ Vanadis tóc đỏ cũng không thể nào gần gũi với họ được.

Họ luôn so sánh Elizavetta với những Vanadis tiền nhiệm của cô, từ cách ăn nói, thái độ, cho tới cách cai trị lẫn chỉ huy trên chiến trường.

Về phần tướng sĩ, Elizavetta nhanh chóng chiếm được thế chủ động.

Là chỉ huy, cô thể hiện mình là một người đầy tài năng. Là một chiến binh, cô chiến đấu hết sức dũng cảm. Chỉ chừng đó thôi là đủ để họ ngưỡng mộ cô gái. Nữ Vanadis tóc đỏ thừa biết do dự và yếu mềm trên chiến trường nguy hiểm tới mức nào, và, vì vậy, cô luôn tỏ ra cứng rắn trong việc cầm quân.

Thế nhưng, Elizavetta lại không mấy tự tin vào những việc cai trị lãnh thổ. Cho dù tới tận bây giờ vẫn chưa phạm sai lầm gì đáng kể, bất cứ việc gì cô làm đều bị coi là kém cỏi hơn so với người tiền nhiệm của cô.

Và tất nhiên quan lại trong Lâu đài cũng không hề bỏ qua điều đó. Cho dù vẫn phải trông cậy vào những người đó, Elizavetta cũng gặp rất nhiều khó khăn mỗi khi cần nhờ tới họ.

“Urz là một cung thủ kỳ tài. Thu nhận người tài cũng là nhiệm vụ của một người cai trị. Chính ngươi cũng đã nói như vậy với ta còn gì.”

Cho dù Elizavetta phản bác lại như thế, viên quan già nua cũng chưa chịu đầu hàng.

“Vanadis-sama. Đúng là tôi đã từng nói như vậy với ngài. Thế nhưng, kể cả khi đó là điều ngài tự hào tới mấy đi chăng nữa, ngài cũng không thể nào bỏ qua những thứ khác được. Làm như vậy thì không thể nào là thượng sách được. Đơn cử như, vào thời ngài Vanadis tiền nhiệm…”

“Ta không phải là Vanadis tiền nhiệm.”

Thấy cô đáp lại như thế, viên quan kia im lặng ngay mà kính cẩn cúi đầu xuống.

“Thứ lỗi cho tôi. Thế nhưng, kể cả là Vanadis-sama có giận dữ, thì tôi e là vẫn sẵn sàng chấp nhận mọi hình phạt của ngài. Cho dù người đó có tài đến đâu đi nữa, chọn một người tới cả danh tính cũng không rõ làm hầu cận của mình thì khó có thể coi là khôn ngoan được. Bằng bất cứ giá nào, xin ngài hãy ngừng việc này lại ngay.”

“Bằng bất cứ giá nào sao?”

Elizavetta cau mày lại, giọng đầy nài nỉ. Vào lúc này, cô còn có một lý do khác để mà không lớn tiếng.

Thứ duy nhất để cô quyết định chọn Urz làm người hầu của mình là vì tài bắn cung như cô đã nói ban nãy, kèm theo đó là vì cô cảm thấy hài lòng với câu trả lời của anh. Ngoài điều đầu tiên ra, cô khó mà có thể thuyết phục ai đồng tình với mình bằng lý do thứ hai được.

Về phần viên quan già, ông ta cũng đang nhìn chằm chằm đầy bối rối khi mà Elizavetta vẫn chưa chịu từ bỏ ý định của mình.

“… Ngài muốn hắn ta làm người hầu của ngài tới mức đó sao? Lẽ nào có ai trong Lâu đài làm phật ý ngài ư?”

“Không có chuyện đó. Các ngươi vẫn luôn ra sức làm tất cả những gì nhằm bảo vệ hoà bình cho Lebus. Và cũng chính vì chuyện đó, ta muốn Urz trở thành tuỳ tùng của ta.”

Dứt lời, Elizavetta cũng gườm gườm nhìn lại viên quan. Ông ta cũng không nói gì thêm.

Hai bên cứ thế mà lặng lẽ nhìn lẫn nhau.

Sau tầm 15 phút, cuối cùng viên quan kia cũng phải chịu nhượng bộ.

“Vậy thì ngài sẽ để tôi xem xét chứ?”

“Ý ngươi là sao?’

“Đầu tiên, tôi sẽ để cho hắn ta đi coi ngựa trong vòng 2 tới 3 năm. Nếu mà làm việc chăm chỉ, tôi sẽ xem xét lại xem có nên cất nhắc hắn lên hay không.”

“Ta đã nói Urz là một cung thủ giỏi rồi mà? Sao không để hắn ta làm cái gì đó phù hợp hơn, ví dụ như một thợ săn của Lâu đài chẳng hạn.”

“Chúng ta đã có một thợ săn rồi. 2 thợ săn là quá thừa thãi.”

Hiện tại, ở Lâu đài Lebus vốn đã có 1 thợ săn già mang tên Anton. Ông ta đã từng phục vụ từ thời Vanadis trước, và Elizavetta cũng không ghét bỏ gì bản tính từ tốn của ông ta. Xem ra cô không còn cách nào khác ngoại trừ tìm ra một công việc khác dành cho Urz.

“Vậy thì, làm hề của Lâu đài thì sao?”

“Liệu Urz có biết làm trò tiêu khiển và gây cười không?”

“Hắn ta đã làm ta cười từ tận đáy lòng vào lần đầu tiên chúng ta gặp nhau.”

Cho dù Elizavetta trả lời nghiêm túc thật, thế nhưng viên quan vẫn không hề tỏ vẻ tán thành.

“Vanadis-sama. Là binh lính, quan lại hay người hầu,

tất cả những ai làm việc ở trong Lâu đài đều phải qua tuyển chọn gắt gao. Nếu ngài mà bỏ hết những quy tắc đó đi mà đưa một người đến cả danh tính cũng không có vào Lâu đìa thì tất cả những cận thần thân cận của ngài chắc chắn sẽ tỏ vẻ bất mãn.”

--- Ra là vậy.

¬Elizavetta hiểu rằng ông ta sẽ tiếp tục phản đối cho dù đó là việc gì đi nữa, miễn là có liên quan tới Lâu đài. Ngay cả việc cho Urz làm người giữ ngựa cũng vậy, ngoại trừ anh là trưởng chuồng ngựa, nếu không thì mới có thể được bước vào Lâu đài.

Cho dù thaatsa vọng, Elizavetta cũng nghĩ rằng cô cũng chỉ có thể đi được tới mức này là cùng.

Cô thừa biết rằng những gì cô vừa nói cũng chỉ là những điều ích kỉ đầy trẻ con của cô, và cô cũng không có lý lẽ nào để bác lại những lời nói đúng đắn của viên quan kia.

Vào những lúc như thế, nếu mà là Ellen, có lẽ cô đã nói rằng “Sẽ không sao đâu, chỉ là một người thôi mà. Chưa kể, ta cũng đâu có giảm lương bổng của ai đâu.” Thế nhưng, Elizavetta lại không thể làm được điều đó.

--- Liệu mình có nên chấp nhận điều này không?

“Được rồi, ta hiểu rồi. Vậy thì cho hắn ta làm giữ ngựa. Cũng cần phải cho hắn làm quen với nơi này nữa.”

Và thế là Urz đã trở thành một người giữ ngựa. Hay chính xác hơn, anh buộc phải làm việc đó.

. Ở bên ngoài Lâu đài Lebus, có một trang trại cũng với chuồng dành cho ngựa. Cả khu nhà ở dành cho người giữ ngựa cũng được xây ngay gần đó. Tại đấy, có khoảng 20 người coi sóc trên 100 con ngựa.

Những trang trại và chuồng ngựa như vậy thường nằm không cách xa Lâu đài là mấy. Tất cả thường được dựng lên rải rác là vì như vậy sẽ hiệu quả hơn so với tập trung lại vào một chỗ.

Urz được đưa tới chuồng ngựa nằm gần Lâu đài nhất. Ngôi nhà ở bằng đá của những người coi ngựa được xây ở ngay góc của trang trại rộng lớn. Cách đó tầm vài chục bước là những chuồng ngựa sừng sững làm bằng gỗ, trông cũng phải rộng gấp đôi so với nơi ở.

Trưởng chuồng ngựa đứng đấu nơi này là một con người khó gần, năm nay đang ở độ tuổi 40. Cho dù khi Urz cúi đầu mà nói “Rất hân hạnh được làm việc với ngài”, ông ta cũng không đáp lại ngay.

“Đi theo ta.”

Nói xong, ông ta quay lưng lại và bước đi. Trong khi Urz bối rối mà đi theo, anh được dẫn tới chuồng ngựa. Urz bỗng nhăn mặt lại.

Ở đấy, một bầu không khí lẫn lộn giữa mùi phân ngựa, mùi thú vật và cỏ khô sộc thẳng vào mũi anh, đủ khiến cho ai cũng phải khó chịu.

“Đầu tiên, hãy đi dọn phân đi.”

Người trưởng chuồng ngựa dửng dưng nói.

“Sau đó, quét dọn toàn bộ chuồng ngựa. Nhớ quan sát những người khác thay nước và cho ngựa ăn ra sao. Tiếp đó là chải lông cho ngựa. Vì cậu vẫn còn non tay nên

bao giờ tôi cho phép thì mới được động tay vào. Sau khi làm xong thì hãy kiểm trả yên cương. Xong xuôi tất cả thì lại quay lại dọn phân tiếp.”

--- Xem ra mình đã bị đưa tới một nơi không vui vẻ chút nào nhỉ.

Urz thầm phàn nàn trong lòng trong khi chun mũi lại, gắng chịu đựng múi hôi thối đang hành hạ anh.

. .

Vài ngày sau khi Ellen quay về từ Lippner thì Sophia Orbertas cũng tới thăm Leitmeritz.

Vốn dĩ cô đã tới Kinh thành để báo cáo cho Đức vua biết về tình hình Asvarre, tuy nhiên do sức khoẻ của Quốc vương Victor ngày càng tệ hơn vì cái lạnh đang tràn về, cô phải ở lại mất vài ngày. Mãi tới tận bây giờ cô mới có dịp ghé qua Leitmeritz.

“Sophie. Em mừng là chị đã ghé thăm. Dù em biết chuyện ở Asvarre rồi, thế nhưng dù gì đi nữa thì thật mừng là chị vẫn không sao.”

Đối với Ellen, đây thật sự là cuộc hội ngộ sau cả một quãng thời gian dài không gặp nhau. Đón chào Presuvet [Quang Hoa Diệu Cơ] bằng một nụ cười tươi thắm, cô tự mình dẫn người bạn của cô tới phòng khách mà không hề nhờ tới người hầu. Sophie chỉ mỉm cười mà đáp “Cảm ơn em.”

Thế nhưng, cả hai vẫn không thể nào giấu nổi vẻ u ám trong câu nói cũng như điệu bộ của hai người. Suy cho cùng thì họ vừa mất đi Tigre và Sasha, những người hết mực quan trọng đối với họ. Chưa kể mới có 10 ngày trôi qua kể từ khi Sasha từ trần.

Ngay sau khi quay về Leitmeritz, Ellen đã cho gửi một bức thư chia buồn tới Legnica.

『Vào một ngày như thế này, tôi không thể nào không khỏi thấy buồn bã cũng như tức giận cho chính bản thân mình. Tôi xin được gửi bài ai điếu này tới toàn thể người dân Legnica. Xin mọi người hãy cho phép tôi được cùng chia sẽ nổi đau buồn vô hạn này. Cho dù kém tận 3 năm tuổi, đối với tôi ngài Alexandra là một người bạn vượt qua mọi địa vị xã hội, là người chiến hữu hết mực tin cậy. Chính ngài là người đã dạy tôi thế nào mới là một Vanadis đích thực. Tất cả những thứ ngài dạy tôi, ngài ấy không hề làm ngược lại bất cứ điều gì hết. Nhờ vào nhân cách cao cả đó mà tôi đã vượt qua không biết bao là gian nan thử thách. Và tôi đã cầu nguyện từ tận đáy lòng, rằng ngài đã có thể vượt qua căn bệnh quái ác đó. Vào ngày tôi gặp ngài ấy lần cuối cùng, ngài vẫn trong sáng, điềm tĩnh và dũng cảm như mọi khi. Ngay cả khi trút hơi thở cuối cùng, tôi vẫn tin ngài ấy vẫn mãi như vậy. Ngài không bao giờ đầu hàng trước căn bệnh của mình, mà ngài đã sống một cuộc đời đầy rực rỡ, tựa như một ngọn lửa bừng cháy xuyên thủng qua cả chính bầu trời kia, xứng với cái tên Hoàng Viêm Ẩn Cơ. Cho dù không thể nào chối cãi được rằng cuộc đời của ngài mới ngắn làm sao, tôi không nghĩ rằng ngài Alexandra sẽ cảm thấy nuối tiếc. Giờ đây, một lần nữa tôi xin cầu nguyện tới chư vị Thánh thần. Xin hãy để cho linh hồn của Alexandra được yên nghỉ vĩnh hằng. Xin hãy để cho vùng đất mà ngài ấy hằng yêu quý cũng như những con người sống trên mảnh đất đó được sống một cuộc sống hoà bình.』

Lá thư vẫn còn chưa hết. Dù không dám viết về phần lo việc tang lễ cho Sasha, cô vẫn viết với một say mê tới lạ kỳ.

Khuôn mặt bình thản như thể đang ngủ của Sasha vẫn còn in hằn vào trong tâm trí của Ellen.

Nguyên nhân quan trọng nhất mà Sophie tới Lâu đài Leitmertiz là để trao lại món quà của Tigre. Và như vậy, cuộc nói chuyện sau đó cũng khó mà vui vẻ được.

Trong khi Sophie lần lượt trao những món quà lại cho Ellen, Lim và Teita, bầu không khí đau buồn trong căn phòng như càng thêm nặng nề hơn mỗi khi tới lượt ai nhận lấy món quà của mình.

Đặc biệt, Teita vừa đứng vừa khóc, từng giọt nước mắt từ khoé mắt của cô gái rơi lã chả tựa như một cơn mưa. Lim phải vừa dìu cô đi vừa tìm lời an ủi.

“Tiện thể, Ellen này. Thành thực xin lỗi em, nhưng có chuyện này chị muốn nhờ tới em…”

Sophie muốn hỏi cô xem liệu cô có thể gửi món quà cho Mira hay không.

Sophie cũng định tự mình đi gửi tận tây, thế nhưng cô nhận ra là chuyến đi của mình tới Kinh thành Silesia đã kéo dài hơn nhiều so với dự tính. Nếu mà lại còn tới Olmutz – lãnh thổ của Mira, cô e là cuộc hành trình về Polesia, lãnh địa của cô, sẽ lại càng thêm phần trì hoãn.

Chưa kể, 100.000 quân Muozinel vẫn đang nhăm nhe đe doạ lãnh thổ phía Nam của Zhcted.

“Được thôi. Em sẽ chuyển lại cho cô ta.”

Ellem mỉm cười trả lời, làm cho Sophie phải bất ngờ.

Ellen cũng cảm thấy hơi do dự. nhưng thấy Sophie đã tự mình tới tận đây, cô không thể nào cho phép mình từ chối được. Và, trước những gì Sasha đã nói, cô cũng cho rằng nếu mà mình không làm việc này tử tế, cô sẽ cảm thấy có lỗi với Tigre.

Sau đó, hai người chuyển sang một số việc khác. Về việc con quỷ Torbalan, hai bên tạm thời đồng ý giữ kín lại cho tới khi gặp được toàn bộ các Vanadis khác, tuy nhiên họ cũng không còn đầu óc gì để làm việc đó. Hai cô gái tạm quyết định rằng “chúng ta sẽ bàn lại chuyện này khi nào xuân sang.”

Sau đó một lúc, Sophie cũng nói rằng mình sẽ rời Leitmeritz. Cô không thể nào lưu lại đây lâu hơn được nữa.

“Chị không muốn gặp Lunie sao?”

Cho dù Ellen đùa như vậy, Sophie chỉ lắc đầu.

“Lần này thì thôi vậy. Này, Ellen này. Em có biết không, mỗi khi chị gặp Lunie-chan, chị chỉ nhìn vào mình Lunie-chan mà nghĩ về Lunie-chan mà thôi. Thế nhưng… Giờ đây, chị nghĩ là mình sẽ không bao giờ làm việc đó được nữa.”

Trước người bạn đang cố che đậy nỗi đau buồn của mình bằng một nụ cười như vậy, Ellen chỉ có thể thốt ra rằng “Ra vậy”.

“Sophie. Sẽ phải mất một thời gian dài nữa chúng ta mới có thể cười từ đáy lòng mình được, nhất là khi chị sẽ còn bận rộn như vậy. Hẹn gặp lại.”

“Ừ. Ellne, cả em nữa, xin hãy bảo trọng.”

Và như thế, Presuvet [Quang Hoa Diệu Cơ] bắt đầu rời khỏi Leitmertiz.

. Vào lúc Sophie rời đi, Rurick, người ngưỡng mộ tài bắn cung của Tigre nhất ở Leitmertiz, được Ellen cho gọi tới.

Sau khi nhận được món quà của Tigre, anh được cô giao cho việc chuyển quà tới những người khác trong thành.

“Về việc này, nếu muốn thì anh có thể từ chối.”

Dù là vậy, Rurick với mái đầu bóng loáng vẫn cẩn trọng nhận lấy những túi quà kia. Sau dó, anh đi khắp Lâu đài và thản nhiên trao quà cho mọi người.

Ngoài Rurick, Aram cũng là người rất thân thiết với Tigre. Thế nhưng, sau khi nhận quà, trong khi đánh bạc với đồng đội, anh ta để thua tới tận một tháng lương của mình trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Vốn là một tay đánh bạc đáng gờm, không hiểu sao lúc này mọi trực giác của anh ta như thể đều bị lu mờ đi.

Cho dù những người chơi cùng anh đều biết chuyện và cho phép anh không phải trả nợ, Aram chỉ lặng lẽ đặt đủ số tiền bạc mình thua, sau đó quay về phòng mặc kệ lúc này đang là ca gác của mình mà ngủ. Gương mặt điển trai mà mọi người vẫn hay đùa là “hải ly” của anh ta, vào ngày hôm đó đờ đẫn đến bất ngờ.

Ngày hôm sau, anh ta bị phạt một bữa ăn do dám bỏ canh gác giữa chừng.

Trong khi đó, Rurick lại trái lại hoàn toàn với Aram. Anh ta vẫn làm việc chăm chỉ như bình thường, và, sau khi kết thúc ca gác của mình vào lúc hoàng hôn, anh lại bắt đầu luyện tập bắn cung ngoài sân.

Thế nhưng, buổi luyện tập ngày hôm đó kết thúc chỉ sau có một phát bắn. Bị kéo quá căng, dây cung của anh bị đứt phăng đi, cắt vào ngón tay của Rurick.

“Xem ra mình kéo mạnh quá…”

Nhìn vào chiếc cung thẳng đuột ra do dây cung bị đứt, Rurick chỉ mỉm cười yếu ớt. Đây là lần đầu tiên trong suốt 3 năm anh phạm phải một lỗi như vậy.

Băng bó ngón tay xong, Rurick quay luôn về phòng, bỏ ngang buổi luyện tập.

Đêm hôm đó,

có người nghe thấy những tiếng thút thít phát lên từ phòng anh ta. Thế nhưng, tất cả đều vờ như không nghe thấy và bỏ đi trong im lặng.

. .

Dưới bầu trời lạnh giá, trên một vùng hoang mạc chết chóc nằm ở gần biên giới giữa Zhcted và Muozinel chỉ có chút cỏ dại mọc nổi là đầy những người, ngựa, gia súc và những căn lều trắng toát. Mùa đông đang chầm chậm tiến tới tận nơi này.

100.000 người, da nâu, dáng người gày gò. Áo giáp da mặc ngoài một lớp áo dày, bên hông có đeo những thanh kiếm cong vút. Trong khi chủ yếu đều quấn một tấm vải đen trên đầu, một số người ra dáng chỉ huy đều đội một chiếc mũ giáp sắt. Dưới ánh nắng mặt trời, chiếc mũ giáp cũng leo lét sáng lên.

Ngựa dành cho kỵ binh, gia súc dùng để kéo xe. Lều đều có hình trong với trận cũng tròn theo. Mỗi lều có thể chứa được từ 5 tới 10 người.

Lá cờ đang tung bay trên nóc lều đều có nền đỏ, cùng với đó là một chiếc mũ giáp vàng có sừng với một thanh kiếm ở giữa. Ngọn cờ dưới cơn gió khô khốc của cuối thu lúc này đều đồng loạt bay lên phấp phới.

Đó chính là quân Muozinel. Chỉ huy của chúng chính là Kreshu Shaheen Baramir, biệt danh Barbaros [Râu Đỏ] và là em trai của Quốc vương Muozinel.

30 ngày đã trôi qua kể từ khi đoàn quân trú chân tại đây. Cách đó 2 ngày về hướng bắc của vùng hoang vu này chính là biên giới của Zhcted.

Tất nhiên Kreshu cũng biết là quân Olmutz dưới trướng của Vanadis Ludmira Lurie cũng đang đóng quân và quan sát tại đó.

Viên chỉ huy lúc này đang xem một báo cáo từ trong lều mình. Tiện cũng nói, lều của Kreshu, khác với các lều khác, được nhuộm một màu đỏ rực.

Không phải vì tôn giáo, cũng chẳng hề có dụng ý nào đằng sau của màu ngôi lều, tất cả chỉ là vì Kreshu muốn như vậy mà thôi. Nhắc tới chuyện này, ngày hôm qua hắn ta lại chọn màu xanh lá cây, ngày hôm kia thì là màu xanh da trời. Thậm chí có ngày hắn ta còn bắt phải để lều nhiều màu nữa.

Dù sao đi nữa, hôm nay Kreshu đang ở trong một chiếc lều đỏ. Vừa nằm trên một chiếc giường phủ đầy gối lụa, hắn vừa lắng nghe một binh lính báo cáo.

Cho dù có một thân hình tầm thước rắc chắc, không hiểu sao hắn lại mặc một bộ trang phục với vạt áo lớn tới khó hiểu. Trên tấm khăn buộc đầu của y là một lông to lớn đủ 7 sắc cầu vồng.

Mắt hõm sâu, cả mũi lẫn mắt đều dài, chòm râu đỏ nổi tiếng của hắn lúc này lại được bện thành 3 búi. Và cũng vì hắn nổi hứng nên mới buộc râu như vậy.

Người phụ tá của Kreshu không biết làm gì ngoại trừ tiếp tục báo cáo. Phần vì phía bên kia không chỉ là Chỉ huy, mà còn là em trai của Quốc vương. Phần còn lại là bởi Kreshu là một kẻ có tài, đã đạt được rất nhiều chiến công. Chưa kể bản tính kỳ quái này của y vốn đã có từ lâu rồi, có khuyên bảo thì cũng chẳng giải quyết được gì.

Sau khi nghe báo cáo xong xuôi, Kreshu nhổm người lên.

“Vậy là kế hoạch ở Asvarre đã thất bại thảm hại hử.”

“Vâng. Hiện tại Vương quốc Asvarre đang được Công chúa Guinevere cùng một người đàn ông tên Tallard Graham cai quản.”

Người lính kia trả lời với vẻ đầy thất vọng. Đáng nhẽ ra một người lính thường không đời nào lại được tỏ thái độ như thế trước mặt Chỉ huy, thế nhưng do được Kreshu tin cậy nên không có chuyện gì xảy ra hết.

“Cả Hoàng tử Jermaine lẫn Hoàng tử Elliot đều đã chết. Ngay cả những người chúng ta cử tới thì cũng chỉ còn 5 người sống sót.”

“Có khi 5 người quay về được tới đây lại là tin tốt lành. Dù sao thì chúng cũng đã cung cấp cho ta khá nhiều điều thú vị.”

Vừa vân vê chóm râu đỏ của mình, Kreshu vừa nói, ra vẻ khá hài lòng.

Khoảng 2 tháng trước, trước việc hai Hoàng tử Jermaine và Elliot giao chiến lẫn nhau hòng tranh giành ngôi báu, Vương quốc Asvarre hầu như đã bị chia cắt làm 2.

Dù mang tiếng là ủng hộ Hoàng tử Elliot, Vương quốc Muozinel vẫn ngấm ngầm chờ thời cơ để tiếp cận Jerrmaine. Cho dù bên nào thắng đi nữa, Muozinel cũng sẽ nhân cơ hội mà can thiệp vào Asvarre.

Một trong những lý do tại sao Kreshu lại mang 100.000 quân và đóng tại đây là bởi, trong khi khiêu khích Zchted, hắn sẽ có thể biết được động tĩnh từ gián điệp từ Asvarre sớm hơn, cho dù chỉ là vài tiếng đồng hồ, và tuỳ theo tình hình mà sẽ cho điều động chúng quay về đấy tiếp.

Đối với Kreshu, có thể nói là hắn đã đạt được mục đích của mình.

“Tuy nhiên, đúng là động chạm tới một Vương quốc nằm cách xa tới vậy đúng là rắc rối thật. Ra lệnh kiểu gì đi nữa cũng sẽ không thể nào theo kịp cục diện. Mặc khác, kể cả là có tính trước được tình thế có thể thay đổi theo mười cách đi chăng nữa thì cũng chẳng có ai đủ sức để thực hiện đủ ngần đó phương án phòng bị được.”

“Nói tới thay đổi, hình như đó là Tigrevurmud Vorn thì phải? Một con người đang kinh ngạc, thế nhưng hình như hắn ta đã bị ngã xuống biển trên đường quay về và chết mất xác rồi.”

Thấy người lính kia nói vậy, Kreshu chỉ nhe răng mà mỉm cười phởn phơ.

“Damad. Sao ngươi lại cho rằng hắn ta đã chết vậy?”

“Ngài hỏi tôi như vậy thì…”

Người lính tên Damad kia hốt hoảng. 19 tuổi, người cao ráo, từ mũi tới cằm đều gầy gò, thế nhưng không ai dám bảo con người này yếu đuối, nhất là với đôi mắt dũng cảm tựa như loài hổ báo.

“Ngài quên là hắn ta đã rơi xuống biển vào giữa đêm ư? Kể cả tìm kiếm suốt nửa ngày mà đến cả xác cũng không lần ra được. Nếu mà còn sống thì chắc hắn đã không phải con người rồi.”

“Vẫn còn khả năng đó chỉ là giả.”

Trước lời của Kreshu, Damad chỉ biết nghiêng đầu sang một bên đầy bối rối, không biết phải đáp lại ra sao.

“Cứ giả vờ là hắn đã chết đi. Nếu mà muốn có được hắn ta trong tay thì ta sẽ làm như thế này.”

Tiếp tục mân mê chòm râu đỏ, Kreshu lại vui vẻ nói.

“Hắn ta có lẽ đã được Brune giao cho Zhcted thật. Sớm muộn gì thì hắn cũng sẽ phải trờ về quê nhà của mình, thế nhưng nếu như hắn ta chết thật thì coi như là quá phí hoài sao? Sao không nghĩ tới việc là giờ này hắn đang sống dưới một cái tên khác, tại một căn biệt thự, tiền tài gái gú đầy đủ, coi như là một cuộc sống thứ hai luôn.”

“…Nếu là như thế, liệu quan hệ giữa Brune và Zhcted sẽ xấu đi chứ.”

“Cái đó thì chỉ việc gửi mấy cái đầu của những tên quý tộc và tướng sĩ bất tài là xong ngay ấy mà.”

Nghe Kreshu thản nhiên nói thế, Damad cảm thấy lạnh toát sống lưng, mồ hơi chảy nhễ nhại. Cái đáng sợ là nếu Kreshu một khi đã muốn là sẽ cho làm ngay đúng như những gì mình nói.

“Nói cách khác, có phải Điện hạ cho là Tigrevurmud Vorn còn sống ư?”

“Từ bây giờ, đó sẽ là việc của ngươi, Damad ạ.”

Kreshu nói không một chút do dự, như thể đã tính tới chuyện này từ đầu. Về phần Damad, hắn cũng chỉ biết cau mày. 2 năm đã trôi qua kể từ khi y được em trai của Quốc vương chọn làm phụ tá, thế nhưng, bình thường thì hắn cũng không gặp nhiều khó khăn gì.

“Bây giờ chúng ta sẽ rút lui. Thế nhưng, ta ra lệnh cho ngươi hãy đột nhập vào Zhcted và kiểm tra xem liệu Tigrevurmud Vorn còn sống hay đã chết. Lùng sục những ai thấy hắn khi hắn chết và lắng nghe thật kỹ vào. Nếu mà gặp kẻ nào đáng nghi là phải điều tra danh tính thật cẩn thận vào.”

“… Nhưng mà hắn có đáng để làm tới nước đó không ạ?”

Damad hỏi lại với giọng đầy hoài nghi. Kreshu gật đầu ngay lập tức.

“Chẳng phải ngươi cũng đã nói rồi sao? Hắn ta chính là người liên quan mật thiết tới những thay đổi này đấy.”

Và sự thực là như vậy. Cho dù Damad khó chịu ra mặt, y cũng lập tức thay đổi suy nghĩ của mình lại ngay.

“Vâng thưa ngài. Tiện thể, nếu như tìm thấy hắn còn sống thì sao ạ.”

“Trừ khử hắn ta ngay. Ngươi cũng muốn thử tài của hắn, đúng không nào?”

Trước lời của Kreshu vừa thốt lên, Damad cũng nở một nụ cười đầy ngang tàng.

“Chỉ cần nhìn lại trận Agnes là đủ thấy. Ai ngờ lại có một người có thể bắn xa được tới 300 arsin giữa một chiến trường hỗn loạn tới vậy chứ --- Chỉ nghĩ tới thôi là đủ thấy rùng mình rồi.”

“Vì chuyện đó mà chúng ta đã để mất mất Kashim. Dù sao thì hắn ta cũng là một kẻ đắc lực.”

Vào năm trước, quân Muozinel nhân lúc Brune còn đang nội chiến đã cho tiến quân đánh vào biên giới. Lợi dụng cục diện đầy rối ren đó, chúng định chiếm lấy lãnh thổ của Brune cũng như bắt người dân ở đó đi làm nô lệ.

Thế nhưng, kế hoạch của chúng đã bị chặn đứng lại.

Hải quân của chúng đã bị Công tước Thernadier đả bại, bộ binh của chúng bị chặn đứng do Bạch Ngân Lưu Tinh Quân, dẫn đầu là Tigre, cùng với quân Olmutz do Ludmira chỉ huy. Vào lúc đó, chỉ huy toàn quân Muozinel chính là Kreshu, còn chỉ huy quân tiên phong là Kashim.

Cho dù quân tiên phong đã bị đánh bại, nhưng Kreshu vẫn dồn phe Tigre vào đường cùng. Tuy nhiên, y cho rằng có đánh nữa thì cũng chẳng thu được lợi lộc gì. Vì vậy, hắn đã cho rút lui và, nhân dịp đó, tự mình đặt cho Tigre biệt danh Silvrash [Xạ Tinh Thủ].

“Thế nhưng, lẽ nào cất công tới tận đây mà ngài lại tay không bỏ về sao? Chúng ta có tới 100.000 quân mà.”

Damad nghi hoặc hỏi Kreshu.

“Ta đã nói rồi còn gì? Ta đã đạt được mục đích của mình rồi.”

Kreshu bình thản cầm lấy một đống giấy tờ bên giường. Tất cả đều là những bản báo cáo.

“Phản ứng của các Vanadis và lãnh chúa ở biên giới phía Nam. Quân số xấp xỉ có thể điều động được. Đường điều quân. Đường đi từ vùng hoang mạc này tới Agnes ở phía Tây. Địa hình địa thế. Con đường đi vào Brune mà không cần phải đi qua đường chính ở Agnes. Ha ha ha. Mất tận 30 ngày nhưng ta đã nắm được hết những gì ta cần rồi.”

Đập đống báo cáo xuống giường, đôi mắt trũng sâu của Kreshu léo lên, hắn khoái chí cười lớn. Đó chính là mục đích thực sự cho việc hắn đưa 100.000 quân tới đây.

“Một khi quay lại, ta sẽ tâu lên rằng 100.000 quân vẫn chưa đủ. Sau khi thu thập thêm 50.000 quân nữa, sớm thì năm sau, muộn nhất là 3 năm ta sẽ mang toàn 150.000 đi đánh. Mục tiêu của ta đương nhiên sẽ chính là Brune.”

Đến cả 100.000 quân kia cũng chỉ là để chuẩn bị cho một chiến lược khổng lồ hơn nữa. Và mục tiêu của Kreshu từ đầu đã không phải là Zhcted.

“Tôi được biết là miền Nam của Zhcted là một vùng đất rất màu mỡ.”

“Kể cả là gần Brune có màu mỡ, xanh tươi hay ấm áp gì đi nữa thì chúng cũng sẽ không tính tới việc tấn công đâu. Miễn là người Zhcted vẫn còn bị tuyết bao phủ, chỉ còn mỗi đường ngồi nhấm nháp khoai tây với cá hồi thì mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

Dù có lẽ đó đúng là suy nghĩ của hắn ta, thế nhưng Kreshu cũng không phải là hạng người dung hậu. Damad thầm cảm thấy hơi thương tiếc cho người Zhcted một chút.

“Hãy đọc bản báo cáo này đi, Damad. Những người sống ở gần biên giới thường cô lập mình lại ở trong Pháo đài, đóng cổng lại để chuẩn bị cho thế trận phòng thủ, kể cả là khi những kẻ định tấn công chúng có xuất hiện hay không nữa. Nếu mà vậy, kể cả là ta có mang 150.000 quân tới đánh sau 2 năm đi nữa thì chắc chúng cũng sẽ phản ứng như vậy mà thôi.”

“… Vậy thì, không tính tới những kẻ trốn chui trống nhủi trong thành không dám ra ngoài, chúng ta sẽ nhắm thẳng vào Agnes ư?”

“Đúng vậy. Thêm nữa trong 30 ngày này, ta cũng đã tìm được một vài người khá hữu ích.”

Trong số đồng tài liệu đang để trên giường, Kreshu chọn ra một tờ giấy và lôi ra.

“Kẻ thì có tài điều binh, người thì biết cách trinh sát. Bao giờ quay về ta sẽ cất nhắc chúng làm thuộc hạ của ta. Xem ra trận chiến kia sẽ rất đáng mong đợi đây.”

Damads nhìn chằm chăm với vẻ tựa như đang muốn nói lên điều gì đó. Thấy Kreshu nở một nụ cười đầy mập mờ, y quyết định dồn hết dũng cảm lại mà nói.

“Thưa Điện hạ. Lẽ nào ngài sẽ không đánh trận nào ư? Nếu như ngài có thể giao cho tôi 1.000 binh lính---”

“… Nếu ta giao người ngần đó binh lính thì sao?”

Thấy Kreshu hỏi vậy, Damad cũng được thể hùng hổ đáp lại.

“Chừng đó thì khó mà có thể chiếm được một Pháo đài, thế nhưng 1.000 quân là đủ để cướp phá và đốt cháy làng mạc và thị trấn. Vừa giáng một đòn lên đối phương, chúng ta cũng vừa không phải mang cái danh mang 100.000 binh lính đi mà không đánh được trận nào.”

Kreshu “ồ” lên 1 tiếng đầy kinh ngạc như tỏ vẻ ngưỡng mộ. Đôi mắt của y loé lêm một tia sáng trắng lấp loé.

“Nếu ngươi tự tin là không để mất bất cứ binh lính nào thì có thể ta sẽ giao cho ngươi. Nhược bằng để mất dù chỉ là một người thôi thì đầu ngươi sẽ được đem ra làm thức ăn cho chó sói. Thêm nữa, thấy ai khuỵu ngã trong khi hành quân, ngươi phải đập vỡ đầu hắn ta ngay.”

Cảm thấy giọng điệu dửng dưng của chủ nhân mình nghiêm túc đến sợ, Damad nín thở. Hắn quỳ mọp xuống ngay mặt đất.

“Thứ lỗi cho tôi, tôi đã lỡ quá lời.”

“Ngươi hiểu là được rồi. Đừng có làm ta thất vọng đấy, Damad.”

Không phải là Kreshu ghét cướp bóc. Thứ mà hắn ghét lại là để quyền chỉ huy của hắn bị lung lay.

Nếu mà hắn để một nhóm nào đó được chiến đấu và cướp phá, những binh lính khác sẽ tỏ ra bất mãn. Thêm vào đó, đoàn quân của y vừa trải qua 30 ngày nhàm chán. Hắn e là nhiều kẻ trong số chúng được thể sẽ có những hành vị vị kỷ trong hàng ngũ.

Mặt khác, để có thể chia chiến lợi phẩm đồng đều, 100.000 quân này sẽ là một rắc rối rất lớn. Với quân số lớn tới vậy, chúng cần phải có một trận đánh với quy mô thực sự khổng lồ.

Do đó, Kreshu không hề có ý định xua quân đi đánh ngay từ đầu.

Ngày hôm sau, Kreshu cho rút quân như đã định. Duy nhất chỉ có Damads là lặn lội đi ngược lên hướng Bắc, lẻn qua biên giới để đột nhập vào Zhcted.

Trong 30 ngày kia, một sứ giả từ Zhcted đã liên tục đi đi lại lại tới bên Muozinel để yêu cầu nguyên nhân chúng điều quân tới đây. Thế nhưng bên Muozinel cũng liên tục đáp lại là để huấn luyện quân sĩ.

Và, quân Muozinel cũng kết thúc cuộc đóng quân với lý do vẫn là huấn luyện quân sĩ.

Truyện Chữ Hay