Đầu năm Cảnh Hòa thứ ba, Khương Nam hạ sinh Tứ hoàng tử, ta cũng viết xong《Đạo Đức kinh tân chú》.
Hoàng thượng dùng “học thuyết Hoàng Lão” để trị vì thiên hạ, cho nên ngày đêm đọc sách mới của ta, yêu thích không buông tay.
Có lúc đang dùng bữa, hắn đột nhiên cảm thấy có mấy câu trong sách khó hiểu, liền lập tức sai người đến Nội hoa quán triệu ta đến, vừa dùng bữa, vừa nghiêm túc thảo luận với ta.
Sau đó Hoàng thượng cảm thấy như vậy quá phiền phức, liền điều ta từ Nội hoa quán đến Ngự tiền làm Bí giám.
Nhưng trên danh nghĩa là Bí giám, nhưng trên thực tế công việc của ta lại rất lộn xộn, phức tạp.
Tấu chương của các vị đại thần do ta sắp xếp, thánh chỉ của Hoàng thượng do ta soạn thảo, nội quy, gia huấn cũng do ta biên soạn.
Thậm chí ngay cả lúc Hoàng thượng ở Kiền Thanh các bàn chuyện chính sự với các đại thần, ta cũng phải ở bên cạnh ghi chép.
Ghi chép thì ghi chép, nhưng mà Hoàng thượng lại rất thích đột nhiên hỏi ta.“Vấn đề giặc Oa hoành hành ở vùng ven biển, Thẩm Bí giám có kế sách gì hay không?”(giặc Oa; giặc lùn (bọn hải tặc người Oa Nhật Bản, thường quấy phá vùng ven biển Triều Tiên, Trung Quốc, thế kỷ XIV-XVI))
“Chuyện tuyển chọn nhân tài trong kỳ thi xuân sắp tới, Thẩm Bí giám có kiến giải gì?”
“Chính sách cải cách thuế má, Thẩm Bí giám ngươi thấy thế nào?”
Ta: “...”
Tuy rằng ta tự cho mình là đọc nhiều hiểu rộng, nhưng thật sự là chịu không nổi những bài kiểm tra bất ngờ như vậy của Hoàng thượng.
Cho nên trong âm thầm, ta càng thêm siêng năng, mỗi ngày đều đọc sách đến tận canh ba mới chịu đi ngủ.
Khương Thì dựa vào việc là cận thần thân tín, nên thường xuyên nhân lúc không có ai, lén lút nói nhỏ với Hoàng thượng:
“Hoàng thượng, thân thể A Vi yếu ớt, chịu không nổi sự "ưu ái" này của người đâu.”
Hoàng thượng lại không cho là vậy, liếc hắn một cái, cười khẩy nói: “Hừ, lúc trước cũng không biết là ai quỳ xuống đất cầu xin trẫm cho phép nàng ấy vào cung làm nữ quan. Xót rồi hả? Có bản lĩnh thì cưới về Khương gia đi!”
Bị vạch trần chuyện xấu hổ, Khương Thì chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt: “Muốn cưới, nhưng mà cưới không nổi.”
“Trẫm cho ngươi một cơ hội lập công, muốn không?”
“Thần không dám nhận, năm ngoái người cũng nói cho cơ hội lập công, kết quả là phái thần đến vùng biên cương lạnh giá thảo phạt sơn tặc, suýt chút nữa thì c h ế t rét ở đó.”
“Lần này khác, nếu như ngươi lập được công lao, trẫm sẽ tứ hôn cho ngươi.”
Vừa nghe đến hai chữ “tứ hôn”, ánh mắt Khương Thì lập tức sáng rực lên, eo cũng thẳng tắp, ngay cả giọng điệu cũng trở nên phấn khởi hơn: “Muốn! Muốn chứ, nhưng mà người đừng có tứ hôn lung tung, người biết rõ trong lòng thần thích ai mà.”
Hoàng thượng trợn trắng mắt, khóe miệng giật giật, liếc nhìn ta đang đứng bên cạnh, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, tim nhìn…
“Ngươi thích Thẩm Bí giám của trẫm, chuyện này còn ai không biết nữa sao?”
Ta: “...”
Trong lòng ta kêu khổ thấu trời, nhưng trên mặt vẫn giữ nguyên biểu cảm nghiêm túc, hỏi Hoàng thượng một cách dửng dưng: “Xin hỏi Hoàng thượng, đoạn đối thoại này có cần phải ghi chép lại không?”
“Phụt...”
Hoàng thượng và Khương Thì đồng thời bị câu nói vô cùng nghiêm túc của ta chọc cười.
Tháng năm, năm Cảnh Hòa thứ ba, Hoàng thượng tự mình phong Khương Thì làm Trấn Tây đại tướng quân, dẫn theo hai mươi nghìn binh mã đến Tần Châu phong quan.
Ba năm trước, Hoàng thượng tuy rằng đã tiêu diệt được Tam vương gia, nhưng vì tình hình cấp bách, cho nên không thể g i ế t sạch dư nghiệt của hắn.
Hai năm nay, tàn dư của Tam vương gia liên kết với Ngũ vương gia ở vùng Tần Châu chiêu binh mãi mã, hiện giờ bọn chúng chiếm cứ Tần Châu, có trong tay mấy chục nghìn binh mã, thường xuyên gây rối, đã trở thành cái gai trong mắt Hoàng thượng.