Không có bất cứ cử chỉ nào để động viên cô. Không một lời nói, không một nụ cười hay một cái nháy mắt, Juliette tức điên lên. Cô rời khỏi phòng làm việc của Brolin mà anh ấy không hề thể hiện một chút thông cảm hay thiện cảm gì với cô.
Juliette gõ bàn phím một cách điên dại. Vì tức giận và thiếu tập trung, nên bài tập của cô không có mảy may cơ hội nào đạt điểm cao hơn điểm “C” khoan dung.
Cô dừng lại giữa một câu và đưa tay lên ôm đầu.
Thời gian gần đây, Brolin có nhiều mối bận tâm, cuộc điều tra tồi tệ đã choáng hết tâm trí anh, nhưng liệu đó có là lý do anh lờ cô đi như thế? Có lẽ đầu óc anh còn ở đâu đó do hậu quả của vết thương. Vừa bước vào phòng, Juliette đã nhận ra một bên má sưng phồng của Joshua. Salhindro trấn an cô khi giải thích rằng không có gì ghê gớm cả, Brolin bị thương trong khi chơi đấm bốc cùng các đồng nghiệp, nhưng Juliette đoán là do lý do nào khác. Salhindro quá xăm xắn, chắc chắn ông ấy nói dối. Chắc là Brolin bị thương trong một trận đấu cơ bắp. Nhưng liệu đây có phải lý do để cô làm ra vẻ như không ở đó không? Khi ấy cô muốn nói chuyện với anh, chỉ thế thôi, thậm chí băng bó cho anh nếu cần. Cô không đòi hỏi gì ghê gớm, chỉ một chút quan tâm và…
Juliette chợt nhận ra mình đang ở vị thế nào.
“Mày đúng là đứa ngốc nghếch”, cô tự nhủ và lắc đầu. Tại sao cô lại phản ứng như thế? Cứ như một phụ nữ có chồng làm mình làm mẩy với chồng mình vậy. Brolin chỉ là một… “người thân”. Từ này không phù hợp lắm, đúng hơn là một người bạn, mặc dù họ chưa biết nhiều về nhau, nhưng họ dần dần tìm hiểu nhau cho dù cả hai đã rất tin tưởng nhau. Và họ có một quá khứ chung đáng nhớ nữa. Vài tuần sau khi sự kiện đó, Juliette biết được rằng Leland Beaumont là kẻ đầu tiên mà Brolin bắn chết. Trước đấy, cô chưa bao giờ nghĩ tới chuyện này, nhưng đó hẳn phải là một kinh nghiệm gây chấn thương mạnh khi quyết định lấy đi mạng sống của một con người. Brolin không quen cô, nhưng anh đã bắn chết Leland để cứu sống cô. Cô thường suy nghĩ về điều ấy và chần chừ khá lâu mới định nói đến chuyện này với anh thanh tra trẻ, nhưng ông bạn bụng phệ của anh ấy, Salhindro khuyên cô không nên nói. Brolin không thích bàn cãi nhiều về chủ đề này, anh là người duy nhất chịu trách nhiệm và không phải chịu bất cứ lời chỉ trích nào nhưng cũng không nhận được lời an ủi nào. Theo Juliette, vết thương này sẽ liền sẹo cùng thời gian giống như tất cả các vết thương khác, nhưng cô vẫn muốn giúp anh quên nó đi.
Cô nói và nghĩ tới Brolin như thể anh là người đàn ông duy nhất của đời cô…và thành thực mà nói, cô phải tự thú nhận với mình rằng điều này là đúng. Ý nghĩ cô có thể đã yêu khiến cô chợt rùng mình.
Không! Không phải người như anh ấy, đây…đây chỉ là kiểu người có thể trở thành một người anh, một người bạn tâm giao.
Thế nhưng cô lại nghĩ tới việc làm thế nào để thu hút sự chú ý của anh. Cô nhớ tới lá thư.
“Tôi ở trong một khu rừng tối”
“Trên sông Acheron, dòng sông chết chóc”
Cô đã đọc đi đọc lại lá thư và ghi nhớ từng dấu phẩy. Có điều gì đó trong nội dung thư khiến cô ngờ ngợ. Cô tin chắc đã biết nội dung thật, ít nhất là nguồn trích dẫn. Thế nhưng khi nhớ lại các câu chuyện khác nhau, chuyện cổ tích, chuyện kể và khảo dị mà cô đã học một vài năm gần đây mà cô vẫn không nhớ ra điều gì cả. Một câu chuyện hay một truyền thuyết trong đó nói về một khu rừng đáng sợ và một dòng sông của người chết. Chẳng có gì trong những thứ cô biết về thần thoại Hy Lạp trực tiếp bao gồm cả hai yếu tố đó.
Nhưng cô tin chắc đã biết, đã đọc hay nghe một câu chuyện tương tự ở đâu đó.
Juliette xem giờ trên đồng hồ báo thức, mới bốn giờ chiều, cô cầm lấy sách vở rồi ra khỏi nhà. Cô báo với những người ở trong chiếc ô tô kiên nhẫn đứng trước nhà cô rằng cô phải đi đến thư viện của trường để học bài và thế là họ cũng lên đường. Theo thỏa thuận, cô được tự do đi lại, nhưng một chiếc xe cảnh sát với hình thức thông thường sẽ theo sát cô để đảm bảo an toàn cho cô.
Bốn mươi phút sau, Juliette đi quanh khắp các giá sách trong thư viện. Thư viện vừa mới xây dựng lại, cô thích thú với ánh sáng tràn ngập. Những chiếc giá sách dài không cao lắm tạo thành nhiều hàng lối trong gian phòng mênh mông. Cô gái đi lại giữa các tấm pano một cách dễ dàng và nhanh chóng, chứng tỏ cô đã quen làm việc ở đây. Hai “vệ sĩ” đợi ở cửa vào, theo đề nghị của Juliette, cô không muốn bị để ý vì lúc nào cũng có hai người đàn ông theo sát. Họ kiên nhẫn ngồi ở quán café, cùng kể chuyện vui về những năm tháng học đại học và ngắm nhìn những cô sinh viên xinh đẹp đi qua.
Trước tiên, Juliette nhớ lại nội dung bức thư và chép ra giấy, giữ nguyên cách viết nghiêng. Rồi cô dùng máy vi tính của thư viện để tìm kiếm theo chủ đề, các từ khóa tìm kiếm của cô là “người dẫn đường”, “rừng”, “Acheron” và “địa ngục”. Phần mềm máy tính chạy ù ù và đưa ra cho cô danh sách của khoảng cuốn sách, cô in danh sách này ra. Để xem về Acheron và nội hàm mang tính Hy lạp và thần thoại mạnh mẽ của nó, cô bắt đầu tìm trong cuốn Odyssee của Homere, rồi Liiade, nhưng đều không thu được kết quả. Trong bài thơ dường như có một câu được lấy ra từ Kinh Thánh, mặc dù không khiến cô nhớ ra cuốn sách nào trong kinh thánh hay văn bản nào có nguồn gốc từ Kinh Thánh. Với suy nghĩ này, cô gật đầu. Đúng là có vài tác phẩm liên quan đến các văn bản tôn giáo có thể được đưa vào danh sách này. Cô đi khắp các giá sách và nhặt ra những cuốn cần tìm. Cô điền vào phiếu mượn và trở về nhà, ngày đang sắp kết thúc.
Cả buổi tối hôm đó và cả ngày thứ năm, cô lật giở những cuốn sách của thư viện. Cô nghĩ là đã chạm vào tới đích khi lướt qua cuốn “Thiên đường đã mất” của Milton, nhưng không một trích dẫn nào phù hợp. Đôi chỗ có nói tới khu rừng tối tăm, nhưng các ẩn dụ và những loại suy đậm chất thơ không nói lên điều gì có thể đi theo hướng của Quạ. Và nhất là ở đây không có bất cứ yếu tố nào khác của bức thư.
Đêm khuya hôm thứ Năm, khi Juliette thấy các hàng chữ chồng chéo lên nhau, buộc cô phải tập trung mới đọc được, thì vài từ cũng bật ra từ một trang cũng giống như pháo hoa, kéo cô ra khỏi trạng thái đờ đẫn. Đúng là những từ ấy, giống hệt lá thư trước mắt cô. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính xác là những câu ấy, chỉ khác là Quạ chọn chúng theo ý thích của hắn từ các chương khác nhau. Trong toàn bộ bức thư, có hai câu thơ đặc biệt thu hút sự chú ý của cô. Vì hàm ý của nó:
“Phải bỏ lại mọi sợ hãi ở đây
Nỗi hèn nhát phải chết ở đây”
Hai câu thơ này trùng lặp với điều gì đó rất chính xác, chúng thể hiện thái độ cần có trước cái mà Quạ không muốn trực tiếp nhắc đến.
Juliette vừa mới khám phá ra bí ẩn. Một bí ẩn cô vội vã chép lại ra ý chính.
“Qua khỏi ta là xứ sầu thảm
Qua khỏi ta là đau thương vĩnh cửu
Qua khỏi ta là những con người khổ đau
Trước ta, chỉ tồn tại những gì vĩnh viễn
Và ta, ta trường tồn vĩnh cửu
Hỡi ai vào đây, hãy bỏ lại mọi hy vọng”.
Cô đọc nhanh lại đoạn thơ và cảm thấy càng thêm nặng nề.
Đây là những dòng thơ viết trên cánh cửa địa ngục.