Kousaka đeo găng tay, ngửa người hết cỡ lên lưng ghế làm việc và mở một cuốn tạp chí. Cũng dễ hiểu khi đó là một cuốn tạp chí khoa học liên quan tới ký sinh trùng. Trên bìa có ghi “Tập san ký sinh trùng học”, và nội dung thì đều được viết bằng tiếng Anh. Kousaka lấy làm khâm phục. Hóa ra con nhỏ mới từng đó tuổi mà đã có thể đọc được tiếng Anh phức tạp đến mức này.
Lật qua tạp chí, hắn thấy một trang được đánh dấu. Một bài viết bởi Norman R. Stoll, có tựa đề là This Wormy World. Kousaka không rõ dịch nó ra như thế nào. Câu này để chỉ một thế giới đã bị sâu bọ ăn hết? Hay một thế giới giống như con sâu? Không, hắn không được quên rằng đây là bài viết về ký sinh trùng học. Thế nên, có lẽ “một thế giới ngập tràn ký sinh trùng” mới là chính xác nhất.
Tiếng vòi hoa sen trong phòng tắm lắng xuống. Khoảng năm phút sau, Sanagi xuất hiện, đã thay ra bộ pyjama. Trông thấy nhỏ đeo chiếc khăn tắm màu đen trên đầu, Kousaka thốt ra một tiếng “hơ” chứa chút ngạc nhiên.
“Sao thế?” Sanagi hỏi.
“À, không có gì to tát… Anh chỉ nghĩ rằng nếu che đi mái tóc bạc như thế, em trông như một cô gái bình thường.”
Mắt Sanagi chớp chớp, rồi nhỏ chỉ tay lên đầu. “À, cái này á? Xin lỗi vì em không thể là một đứa con gái bình thường.”
“Anh không nói rằng tóc em trông xấu hay gì. Tự nhiên được trông thấy nó sẽ thế nào nếu là màu đen thì anh thấy lạ thôi.”
“Đằng nào em cũng biết là anh Kousaka thích những cô nàng tóc đen, da trắng, ngoan hiền rồi.” Sanagi nói một cách ranh mãnh, ngồi bắt chéo chân trên giường.
“Anh chưa hề nói điều gì như vậy.”
“Thế thì giải thích về cái đống trong máy tính của anh đi?”
“...Ý em là sao?”
“Đùa thôi. Trêu anh tí ấy mà.”
“Đừng đùa kiểu ám muội thế chứ.” Kousaka ngửa ra sau, thở dài.
Sanagi bỗng để ý thấy thứ đang nằm trong tay hắn, mắt nhỏ mở to. “Ê, cái tạp chí đó…”
“À.” Hắn đã quên khuấy về cuốn tạp chí cho đến khi được nhỏ chỉ ra. “Xin lỗi, anh cứ tò mò mãi về thứ mà em đang đọc. Anh không nên động đến nó hả?”
“Không hẳn, nhưng mà… anh nghĩ gì về nó?”
“Nó khá là khó đọc đối với anh. Em giỏi tiếng Anh không, Sanagi?”
“Nầu, điểm của em chẳng cao gì.”
“Vậy mà em lại đọc được các bài viết học thuật?”
“Chỉ trong lĩnh vực này thôi. Tất cả đều có cấu trúc tương tự nhau, nên em đã quen đọc rồi.”
“Thế cũng là khá rồi. Anh rất muốn nói điều đó với một tên sinh viên đại học lười chảy thây đây.” Rồi Kousaka đặt ra câu hỏi mà hắn đã thắc mắc trước đó. “Nhân tiện, em dịch đoạn này như thế nào?”
Sanagi đứng dậy và vòng ra đằng sau Kousaka, nhìn qua vai hắn đoạn mà hắn đang chỉ. Mùi dầu gội đầu thơm phức cù vào sống mũi hắn. Nhỏ đang ở một khoảng cách mà bình thường hắn sẽ lùi ra xa, nhưng vì nhỏ mới tắm xong nên không sao cả.
“Anh là người lớn rồi mà vẫn không biết một câu đơn giản vậy à?”, Sanagi châm chọc.
“Người lớn không phải là loại sinh vật phi thường như em nghĩ đâu,” Kousaka phản bác lại. “Thế nó có nghĩa là gì?”
“Em nghĩ nó có thể được dịch là “thế giới này lúc nhúc sâu bọ” theo một cuốn sách mà em từng đọc,” Sanagi trầm ngâm như thể đang lục lọi lại trí nhớ. “Đây là một câu nói nổi tiếng được dùng bởi Norman Stoll vào năm 1947 để miêu tả thế giới này là nơi mà bệnh dịch gây ra bởi ký sinh trùng đang hoành hành.”
“Một câu nói thật ghê rợn.” Kousaka nhíu mày.
“Nhân tiện, kể cả đến nửa thập kỷ sau đó, tình hình vẫn chẳng khác là bao. Loài người trên khắp thế giới vẫn không hề hay biết rằng có vô số loại ký sinh trùng đang trú ngụ trong cơ thể họ. Nhật Bản cũng không phải ngoại lệ. Đúng là những bệnh nổi tiếng do ký sinh gây ra như giun đũa, sán máng, hay sốt rét đã bị tiêu diệt, nhưng những loài ký sinh vốn ẩn náu ở rất nhiều nơi trên cơ thể chúng ta, chờ đợi cơ hội để lây lan. Hoặc có thể chúng đã lây lan rồi, nhưng người đó chẳng hề hay biết.”
Kousaka thở dài. “Thế thì một tên bị cuồng sạch sẽ không bao giờ có thể an tâm được mất.”
“Đen đủi thay.”
Sanagi bảo nhỏ phải đi sấy tóc và bỏ sang phòng khác.
Kể từ ngày họ nói với nhau về chứng rối loạn của mình, Sanagi đã bắt đầu đi tắm trước khi nhỏ đặt chân vào phòng khách. Kousaka nói rằng nhỏ không cần phải chu đáo đến như vậy, song Sanagi đáp “Đây là đặc quyền của em phải không?” Khi đã tắm rửa xong xuôi, nhỏ sẽ thay ra bộ quần áo mới mà nhỏ đem theo, bước vào phòng khách, nằm lên giường và đọc, nếu thích thì sẽ nói gì đó với Kousaka.
Sau khi trở lại từ phòng tắm, có vẻ như Sanagi vẫn còn muốn trò chuyện, nên thay vì nằm trên giường, nhỏ ngồi xuống đối diện với Kousaka.
Đoạn Kousaka hỏi. “Nhìn qua thì em lúc nào cũng đọc về ký sinh trùng. Ở chúng có gì khiến em thấy lôi cuốn vậy?”
“...Em có thể trả lời anh, nhưng khéo anh Kousaka lại thấy chóng mặt và ngất ra đấy mất thôi.”
“Nếu nghe trong phòng này thì anh nghĩ mình sẽ ổn thôi.”
“Để xem nào…” Sanagi chống tay lên cằm và nghĩ ngợi. “Anh Kousaka, anh đã bao giờ nghe về loài Diplozoon paradoxum chưa?”
Khi Kousaka lắc đầu, Sanagi liền giải thích về sinh thái học của loài ký sinh đó. Về sự giao hợp suốt đời, về vẻ bề ngoài tương tự như một con bướm, về tình yêu sét đánh định mệnh, về sự mù quáng của tình yêu, về sự giống nhau như đúc giữa chúng. Sau khi giảng giải một hồi, Sanagi đột nhiên nhận ra nhỏ đang huyên thuyên nhiều đến thế nào và đỏ hết cả mặt lên, nhưng nhờ câu “nói tiếp đi,” của Kousaka, nhỏ vẫn ráng nói thêm một chút.
“Cái khuyên tai này.” Sanagi vuốt tóc sang một bên để cho Kousaka thấy. “Nó cũng được phỏng theo một loài ký sinh trùng đấy.”
“Anh thấy nó giống như một bông hoa xanh thôi mà. Hóa ra có loài ký sinh trùng có hình dạng vậy sao?”
“Đúng thế. Nó có tên là Kudoa septempunctata, thuộc lớp Myxozoa. Những con ký sinh trùng này lấy cả cá và giun đốt làm vật chủ trung gian, và từng bào tử của chúng có sáu tới bảy cấu trúc hình cánh hoa gọi là nang cực, nên nhìn từ trên xuống chúng trông y hệt một bông hoa bung ra hết cỡ. Cái móc khóa Diplozoon paradoxum có hơi phóng đại, nhưng nếu anh nhuộm Kudoa septempunctata thành màu xanh thì trông nó sẽ giống hệt như cái khuyên tai này. Tra trên mạng đi.”
Theo lời hướng dẫn, Kousaka thử tìm kiếm hình ảnh của “Kudoa septempunctata” trên điện thoại của mình.
Và đúng thật, rất nhiều hình ảnh hiện lên miêu tả những loài vi sinh vật bé tí dưới kính hiển vi trông y hệt như khuyên tai của Sanagi.
“Y xì đúc phải không?”
“Anh thấy ngạc nhiên là có loài ký sinh đẹp thế đấy.”
“À, nó gây ra ngộ độc thực phẩm, nên đây là loài có hại đối với con người.”
Kousaka đặt điện thoại xuống. “Còn có loài những loài ký sinh thú vị nào như này nữa không?”
“Hừm, được rồi, tiếp theo sẽ đổi gió một chút vậy.” Sanagi khoanh tay lại và nghĩ một lúc. “Anh thích sạch sẽ đến thế thì chắc cũng biết về Toxoplasma gondii mà không cần học về ký sinh trùng nhỉ?"
“Ừ, đương nhiên.” Cuối cùng thì cũng có một cái tên mà hắn nhận ra. “Chúng là ký sinh trùng lây truyền từ mèo qua người phải không?”
Sanagi gật đầu. “Vâng. Chúng vốn nổi tiếng là nguyên nhân gây ra căn bệnh toxoplasmosis. Vật chủ cuối cùng của chúng là mèo, nhưng chúng có thể lây truyền sang hầu hết các loài động vật máu nóng, trong đó dĩ nhiên là có con người.”
“Vật chủ cuối cùng?”, Kousaka hỏi khi một khái niệm không quen thuộc bỗng xuất hiện.
“Là đích đến của ký sinh trùng,” Sanagi giải thích theo cách đơn giản.
Có một vài loại ký sinh sẽ lây qua những sinh vật khác nhau theo từng quá trình phát triển của chúng. Ví dụ như, Anisaki, loài giun tròn là nguyên nhân của bệnh anisakiasis, chúng đầu tiên sẽ đẻ trứng dưới nước, sau đó trứng sẽ bị ăn bởi những loài giáp xác như tép. Những cá thể tránh được việc bị tiêu hóa sẽ sống trong cơ thể của kẻ săn mồi cho tới khi phát triển thành ấu trùng cấp độ ba. Tiếp đó, loài giáp xác bị ăn bởi một con cá nằm ở mắt xích cao hơn của chuỗi thức ăn, và giun Anisaki tiếp tục trưởng thành trong cơ thể con cá. Thế rồi con cá bị ăn bởi một con cá voi, và giun Anisaki có thể chuyển thành ấu trùng giai đoạn bốn và phát triển lên giun trưởng thành trong đường ruột của cá voi. Trứng được con trưởng thành đẻ ra hòa lẫn với phân và được thải ra môi trường nước.
Đây là vòng đời của loài Anisaki. Trong trường hợp này, loài giáp xác sẽ là “vật chủ trung gian đầu tiên,” con cá sẽ là “vật chủ trung gian thứ hai”, và con cá voi sẽ là “vật chủ cuối cùng”. Vật chủ cuối cùng là đích đến của loài ký sinh trùng. Nếu chúng không thể lây nhiễm đến vật chủ cuối cùng, ký sinh trùng sẽ không thể sinh sản.
“...Vậy, quay trở lại chủ đề. Anh thử đoán có bao nhiêu người bị nhiễm Toxoplasma trên toàn thế giới?”, Sanagi hỏi.
“Em nói rằng chúng có thể lây truyền sang hầu hết các động vật máu nóng, nên anh chắc con số cũng phải rất cao. Có thể là một vài trăm triệu người?”
“Hơn một phần ba dân số,” Sanagi nói không ngần ngại. “Khoảng đôi ba tỷ người.”
Măt Kousaka mở to. “Nhiều thế cơ á?”
“Nếu chỉ tính mỗi Nhật Bản hiện tại, em nghĩ là tỷ lệ có thể sẽ thấp hơn một chút. Có thể là mười hoặc hai mươi phần trăm là nhiều.
“Kể cả vậy thì vẫn là rất lớn… Nhưng mặt khác, đó là bằng chứng cho việc Toxoplasma vô hại với con người đúng không? Nếu không thì anh nghĩ mọi thứ đã phải loạn hết cả lên rồi.”
“Ừ. Nếu chúng lây vào người khỏe mạnh thì chẳng sao cả. Và cho đến bây giờ, chúng vẫn được coi là vô hại với người, trừ những trường hợp mắc suy giảm miễn dịch và phụ nữ mang thai. Nhưng gần đây, đã có những cuộc thảo luận về khả năng chúng có thể thay đổi hành vi và tính cách của con người.”
Sanagi chọc vào trán nhỏ.
“Đã có một vài nghiên cứu thú vị về tác động tạo ra khi đưa Toxoplasma gondii vào một vật chủ. Những con chuột đực bị nhiễm loài động vật nguyên sinh này ngừng sợ những con mèo, thiên địch của chúng. Hóa ra là Toxoplasma đã điều khiển những con chuột, sử dụng chuột như vật trung gian, khiến chúng dễ bị ăn bởi vật chủ cuối cùng là mèo hơn.”
“Chúng điều khiển vật trung gian ư?” giọng Kousaka vỡ ra vì hoảng. Không phải chuyện đó giống hệt như cuốn Kẻ Khiển Rối của Heinlein sao?[note17921]
“Khi họ khám nghiệm con chuột bị nhiễm trùng, khu vực quanh hệ viền trong não có một lượng nang lớn. Và khi họ phân tích DNA của Toxoplasma gondii, họ phát hiện sự có mặt của một loại gen liên quan tới việc sản sinh ra dopamine. Em không biết cơ chế chính xác là như thế nào, nhưng có vẻ như Toxoplasma có thể điều khiển một vật chủ nhằm phục vụ cho việc sinh sản của chúng. Thực ra, việc ký sinh điều khiển vật chủ không phải là chuyện hiếm. Dicrocoelium và Leucochloridium là hai ví dụ điển hình. Cả hai đều được biết đến như là thứ khiến cho vật trung gian của chúng tự tử hoặc chết đói.
Kousaka nghĩ một chút, rồi nói. “Vậy ý em là có một điều tương tự có thể xảy đến với bộ não của những người bị nhiễm Toxoplasma?”
“Đúng vậy. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng một người đàn ông bị nhiễm Toxoplasma gondii sẽ cho thấy một phản ứng tích cực hơn đối với mùi của mèo so với người không bị nhiễm. Tuy nhiên, đối với phụ nữ thì hoàn toàn ngược lại.”
“Lạ thế. Tác động của ký sinh trùng lại khác nhau theo giới tính à?”
“Em không được nghe nói đến nhiều về điều đó ở những ký sinh trùng khác, nhưng đây là một xu hướng mà em để ý thấy trong những nghiên cứu về Toxoplasma. Có kết quả chỉ ra rằng nhiễm Toxoplasma gondii sẽ khiến đàn ông trở nên khép mình và bị phụ nữ ghét, trong khi phụ nữ thì trở nên quảng giao và được đàn ông mến mộ hơn. Còn có một bài nghiên cứu chỉ ra rằng đối với phụ nữ, số người bị nhiễm đã thử tự tử nhiều hơn 1,5% so với những người không nhiễm.”
“Vậy Toxoplasma có thể khiến cho phụ nữ tự tử ư?” Kousaka rùng mình. “Và hơn một phần ba dân số bị nhiễm một loài như vậy?”
“Đó chỉ là một khả năng thôi. Chưa được chứng minh.”
“...Kể cả vậy, nó vẫn làm anh nổi da gà,” Kousaka nói với vẻ chua chát. “Người ta kể rằng Pasteur đã trở thành người sợ vi khuẩn bởi những nghiên cứu của ông trong ngành vi trùng học, nên anh cảm thấy nếu như càng biết nhiều về những thứ mắt thường không thể trông thấy, thế giới này sẽ càng trở nên khó sống hơn.”
“Em còn có nhiều câu chuyện dựng tóc gáy hơn về chủ đề này đấy. Muốn nghe không?”
Kousaka lắc đầu. “Không, chuyển sang chuyện khác đi. Sanagi, em còn có sở thích nào khác ngoài ký sinh trùng học không?”
“Hừm… Đó là bí mật.” Sanagi đưa ngón tay lên môi một cách tinh nghịch.
“Một sở thích mà em không thể nói với ai sao?”
“Đó là một sở thích của con gái.”
“Bình thường thì em phải công khai về cái sở thích con gái và dấu đi chuyện thích ký sinh trùng chứ.”
“Tiêu chuẩn cho sự xấu hổ còn tùy từng người,” Sanagi bất mãn vặc lại. “Nói em nghe, anh Kousaka. Điều gì đã thu hút anh trong việc tạo ra virus vậy?”
Kousaka kể lại câu chuyện khiến hắn có hứng thú với mã độc. Về việc một tin nhắn nói về tận thế đã cứu rỗi hắn một chút. Về việc hắn thắc mắc liệu mình có thể tạo ra một thứ tương tự hay không. Về việc khi đã bắt đầu rồi, hắn mới thấy mình rất phù hợp với việc đó, và thậm chí đến cuối cùng trở thành lẽ sống của hắn.
“Em nghĩ mình có thể hiểu được cảm giác được cứu bởi một tin nhắn nói về tận thế,” Sanagi đồng tình. “Nhân tiện, anh đang tạo ra một con virus như nào thế?”
“Em có biết về virus máy tính đầu tiên được phát hiện tại Nhật Bản không, Sanagi?”
“Không.”
“Con virus nội địa đầu tiên của Nhật được làm ra vào năm 1989. Nó là một loại virus đùa giỡn có tên là Giáng Sinh Nhật Bản chỉ có tác dụng hiển thị một lời nhắn vui tươi trên các máy tính trong ngày 25 tháng 12. Tương tự, mã độc mà anh tạo ra cũng sẽ kích hoạt vào thời điểm Giáng Sinh. Nhưng anh nghĩ thiệt hại mà nó tạo ra sẽ nghiêm trọng hơn một chút.”
Sanagi rướn cằm nhỏ lên chỉ vài milimét, thúc giục hắn nói tiếp.
“Chính xác mà nói, thứ anh tạo ra là một loại sâu máy tính ngăn cách mọi người,” Kousaka giải thích, cố gắng làm nó trở nên đơn giản. “Những chiếc điện thoại bị nhiễm sẽ không thể liên lạc được trong ngày trước Giáng sinh từ tối đến nửa đêm. Anh đã dự tính rằng nó sẽ ngăn cản các cặp đôi đang cố gắng gặp nhau trên khắp Nhật Bản. …Rất buồn cười đúng không?”
Nhưng Sanagi thì không cười.
Khoảnh khắc nhỏ nghe xong câu nói của Kousaka, mắt nhỏ mở to và người nhỏ sững lại, như thể vừa bị sét đánh trúng.
“Sao vậy?”, Kousaka hỏi. Mắt Sanagi tiếp tục dán vào cổ họng của hắn, và nhỏ không trả lời. Chưa biết mắt nhỏ có đang thấy gì không.
Sanagi không động đậy mất một lúc, lặng lẽ suy tư. Giống như vừa chợt tìm ra một khe nứt của thế giới, nhỏ cứ mãi nhìn chăm chăm vào một điểm nào đó trong không gian. Nếu lắng nghe thật kỹ, có khi người ta có thể nghe được những bộ phận máy móc đang xoay cực nhanh trong đầu nhỏ.
Có lẽ có điều gì đó trong lời mình nói đã khiến cho Sanagi chột dạ, Kousaka chợt nhận ra. Nhưng hắn không thể xác định được điều gì có sức nặng đến như vậy trong những lời mà hắn đã nói.
Rút cục, Sanagi vẫn không giải thích tại sao nhỏ lại đột ngột im lặng như vậy, chỉ lúng túng chuyển sang chuyện khác. Nhưng kể cả trong lúc trò chuyện về những chủ đề khác, có vẻ như sự tập trung của nhỏ vẫn hướng về “thứ gì đó” khi nãy.
Nhỏ chột dạ cũng đúng thôi. Bởi vì con malware mà Kousaka tạo ra, tình cờ thay, quá sức tương đồng so với một thứ khác mà nhỏ biết.
*
Đó là ngày mua sắm hàng tuần của hắn. Cầm mấy túi đồ trên cả hai tay, Kousaka đi dọc con phố được chiếu sáng bởi ánh đèn. Nước đọng lại thành những vũng nông trên đường đang lập lòe một màu tối. Không khí thoáng đãng, và người ta có thể thấy cả những vì sao nhỏ bằng mắt thường.
Hắn trông thấy một người đàn ông đứng tuổi đang ngồi ở một băng ghế bên vỉa hè, vây xung quanh là những tán cây. Khi người đó nhìn thấy Kousaka, gã đặt chiếc lon cà phê xuống băng ghế và đứng dậy.
“Này,” Izumi nói, giơ một cánh tay lên. “Trông nặng đấy. Cần giúp một tay không?”
“Tôi xách được.” Kousaka từ chối. “…Định kiểm tra tiến độ của tôi à?”
“Chà, không đúng mà cũng không sai.”
Izumi vẫn vận bộ trang phục thường thấy: một cái áo khoác Chester xám xịt bên ngoài bộ com-lê. Gã không còn cái áo khoác nào nữa à? Hoặc có thể là gã đã quyết định sẽ luôn mặc cái áo này khi đi gặp Kousaka, hoặc có thể là gã chẳng bận tâm chút nào đến chuyện quần áo.
Izumi ngồi xuống băng ghế và liếc qua đống túi của Kousaka. “Tôi vốn vẫn thắc mắc, rằng một kẻ cuồng sạch thì ăn được cái gì?”
“Ngũ cốc, mấy đồ dinh dưỡng, đậu phụ, thức ăn đóng hộp, hoa quả ướp lạnh…” Kousaka liệt kê những thành phần trong túi của hắn. “Có rất nhiều thứ mà tôi không ăn, đúng vậy, nhưng tôi cũng không kiêng dè gì cả. Thường tôi cũng không ăn nhiều lắm.”
“Thịt thì sao? Sashimi? Rau sống?”
“Tôi ghét mấy thứ quá nhiều mỡ, nên không ăn được thịt. Sashimi thì chắc chắn là không. Rau sống thì được nếu như tôi rửa cẩn thận và tự mình nấu. Mặc dù tôi không nghĩ là mình ăn vì ý thích.”
“Rượu bia thì sao?”
“Tôi chỉ uống whiskey, nếu buộc phải uống.”
Nhưng cũng chỉ áp dụng với những loại whiskey thuốc như Laphroaig hay Bowmore mà thôi, Kousaka thầm nghĩ.
“À, thế thì tốt,” Izumi gật gù thấy có lí. “Có rất nhiều người không thể uống whiskey mặc dù chẳng phải người sạch sẽ gì cho cam. Nếu suy xét kỹ thì cậu khá là may mắn đấy."
Kousaka ngồi xuống bên cạnh Izumi và để mấy cái túi xuống đất. Những chiếc hộp đồ ăn trong túi va vào nhau kêu lách cách. Sau khi kéo chiếc khẩu trang đã ẩm ướt do hơi thở của hắn xuống dưới cằm, Kousaka nói.
“Lý do Hijiri Sanagi không tới trường là do chứng sợ bị người khác nhìn.”
Sau một vài giây, Izumi hỏi lại. “Cậu nghe việc đó từ chính miệng con bé?”
“Ờ. Chiếc tai nghe có vẻ như là biện pháp để làm dịu đi các triệu chứng tâm lý.”
“...Khó mà tin nổi,” Izumi nói đầy nghi hoặc. “Hijiri Sanagi đã nói như vậy thật sao? Đừng có mà đoán mò đấy.”
“Nó không nói gì với ông à?” Kousaka vặn lại.
“Con bé không thèm nói cho tôi điều gì về nó cả. Mọi thứ hoàn toàn là bí ẩn.”
Hiểu rồi, Kousaka thầm nghĩ. Từ gương mặt của Izumi vừa xong, hắn có thể khẳng định chắc chắn rằng giữa Izumi và Sanagi có tồn tại một sự trao đổi nào đó.
“Hội chứng của con bé tình cờ bộc phát và nó đã gọi điện cho tôi cầu cứu. Nếu không nhờ chuyện đó, chắc tôi còn phải mất khá lâu nữa thì mới tìm hiểu ra được.”
“Con bé gọi điện để cầu cứu?”, Izumi lặp lại như không tin nổi tai mình. “Chuyện này càng lúc càng có nhiều bất ngờ ra trò đây. Không thể nào đoán trước được điều gì với cậu cả. Ấy vậy mà tôi đã dự liệu rằng cậu là người có ít tiềm năng nhất trong số những người đã thuê từ trước đến nay…”
“Có lẽ nó không còn ai khác để trông cậy vào ngoại trừ tôi. Chỉ là may mắn mà thôi.”
“Không, tôi thì không nghĩ vậy. Cậu là người đầu tiên tìm hiểu được nguyên nhân tại sao Hijiri Sanagi không đến trường. Cho đến giờ phút này, dù con bé có yếu lòng tới đâu, nó cũng chưa từng bao giờ để lộ hội chứng của nó ra với bất kỳ ai ngoại trừ những người họ hàng. Nói cách khác, con bé đã coi cậu như một người có máu mủ với mình.”
Nếu thế thì tôi đây cũng mừng lắm lắm, Kousaka nghĩ. Nhưng hắn không thể tin lời nói mồm của Izumi. Có thể gã đang thêu dệt ra để tìm cách tâng bốc hắn. Sẽ không quá lạ khi nghĩ rằng tất cả những người được thuê trước đây đều bị lấy lòng bằng chiến thuật này.
Izumi lấy ra một chiếc phong bì từ túi trong của chiếc áo khoác và đưa nó cho Kousaka.
“Thù lao của cậu đây. Nhưng chỉ có một nửa thôi. Tùy vào hành động của cậu kể từ giờ mà tôi sẽ quyết định có trả cho cậu nửa còn lại hay không.”
Một nửa số tiền thì cũng bằng với số tiền mà hắn đã trả cho Sanagi. Kousaka cho chiếc phong bì vào trong túi, nhẹ nhõm vì số tiền hắn bỏ ra đã quay về với hắn.
“...Vậy, tôi nên làm gì tiếp theo?”
Izumi ngồi tựa lưng lên băng ghế và nhìn lên trời, không đưa ra câu trả lời ngay. Kousaka cũng ngả lưng ra sau và ngước lên. Hắn tưởng tuyết đã bắt đầu rơi, nhưng kỳ thực lại không phải vậy. Izumi đang suy tính điều gì đó. Trông gần như thể gã đang tìm một câu trả lời trong vô vàn những vì sao.
Izumi uống một hớp cà phê trong chiếc lon đặt bên cạnh, lấy hơi, rồi trả lời câu hỏi của hắn.
“Cậu không cần phải làm gì cả.”
Kousaka quay sang Izumi với hai mắt trợn tròn. “Vậy có nghĩa là công việc của tôi…”
“Này, tôi đâu có nói như vậy. Công việc của cậu chưa kết thúc đâu. “Không cần phải làm gì cả” có nghĩa là “để cho mọi thứ y nguyên như thế.” Cứ tiếp tục đóng vai một người bạn đáng tin cậy với con bé đi. Làm thế… biết đâu sẽ có điều gì hay ho xảy ra.”
“Hay ho là sao?”
Izumi phớt lờ câu hỏi đó.
“Hết rồi đấy, tôi sẽ liên lạc lại với cậu sau.”
Sau câu nói cộc lốc ấy, Izumi đứng dậy. Gã trông như thể sẽ cứ thế mà bỏ đi, nhưng rồi lại đột ngột dừng chân và quay đầu lại.
“Quên mất một điều quan trọng. Một điều mà tôi phải cảnh báo trước với cậu.”
“Là điều gì?”
“Cho dù tiếp theo đây có xảy ra chuyện gì đi nữa, đừng bao giờ đi quá giới hạn với Hijiri Sanagi. Kể cả nếu đó là điều con bé muốn cậu làm. Tôi không nghĩ là phải lo lắng trước một kẻ cuồng sạch như cậu, nhưng tôi vẫn phải nói để đề phòng trước tất cả mọi tình huống. Cố mà giữ nó trong sáng, như trong truyện Signal và Signaless ấy.”
Kousaka đờ mặt ra nhìn Izumi. Sau một hồi, hắn mới nhíu mày lại.
“Ông nói cái gì thế? Ông có biết khoảng cách tuổi tác giữa chúng tôi là bao nhiêu không đấy?"
“Cứ xác nhận đi. Tôi không nói ra điều này vì lo cho Hijiri Sanagi, mà là cậu. Nếu bỏ qua lời cảnh cáo này, cậu sẽ là người gặp rắc rối lớn nhất. Cậu muốn tin hay không thì tùy.”
Kousaka thở dài. “Ông không sao phải lo lắng cả. Tôi còn không cầm tay nó được.”
“Phải rồi. Tôi cầu mong rằng mọi thứ sẽ tiếp tục giữ được như vậy.”
Hết câu, Izumi tan biến vào màn đêm lạnh lẽo.
*
Kousaka bị Sanagi gọi đến bằng điện thoại. Không phải là một cuộc gọi khẩn cấp như lần trước, nhưng có cảm giác nhỏ đang cần làm việc gì với hắn.
“Em muốn thử làm cái này. Đến thư viện ngay đi.”
Sanagi cúp máy sau khi nói vỏn vẹn như thế. Kousaka lưỡng lự một lúc, song nhanh chóng đầu hàng, thay quần áo, đeo khẩu trang và găng tay, chuẩn bị để đi ra ngoài. Nhưng vừa mới bước chân khỏi phòng, hắn dứt khoát tháo cái khẩu trang ra và quăng nó vào thùng rác. Chính hắn cũng không biết tại sao, nhưng hắn nghĩ như thế thì tốt hơn.
Sanagi đang chờ hắn trên những bậc cầu thang cạnh lối vào thư viện. Như mọi khi, cách ăn diện của nhỏ trông có vẻ sẽ khiến cho hai chân lạnh cóng, mà thực tế là nhỏ đang hơi run run, nhưng hình như nhỏ coi thế là bình thường. Khi nhìn thấy Kousaka, Sanagi tháo chiếc tai nghe ra và khẽ giơ tay lên.
“Em muốn thử làm gì vậy?”, Kousaka hỏi.
“Em không thể trả lời bây giờ. Lát nữa em sẽ cho anh biết.”
Sanagi đứng dậy. Hai người cùng nhau bước đi.
Trên đường về căn hộ, Kousaka lén nhìn về phía Sanagi liên tục. Hắn không hề nghĩ ngợi gì trước đây, nhưng sau những nghi hoặc vô căn cứ của Izumi, hôm nay hắn lại để ý Sanagi đến lạ thường.
Kousaka thử tự vấn lòng hắn: Liệu mình có thể nhìn cô bé thích ký sinh trùng, sợ bị người ta nhìn này dưới con mắt lãng mạn được không? Chẳng bao lâu, có tiếng đáp lại. “Không đời nào.” Đúng thế, có một sự thật không thể chối bỏ là mình không có tình cảm đặc biệt gì đối với Hijiri Sanagi. Nhưng mình cũng có một sự quý mến hoàn toàn tự nhiên đối với nó, đơn giản như một người đang phải đối mặt với những nỗi lo lắng tương tự mình, và thế thì còn khuya mới đến mức tình cảm.
Kousaka cười trừ đi nỗi bất an trong hắn - thật là ngu ngốc. Con bé vẫn chỉ là một đứa trẻ mới lớn. Izumi cũng không thể nào mà nghiêm túc được. Chỉ là để đề phòng, đề phòng hết cỡ mà thôi, chắc chắn là vậy.
Đột nhiên, Kousaka nhận thấy Sanagi đang nhìn thẳng vào hắn. Hắn giật mình tưởng rằng những suy nghĩ trong đầu đang hiện ra mồn một trên mặt, nhưng có vẻ không phải là như vậy.
“Ê, anh Kousaka. Nếu em yêu cầu anh xoa đầu em ngay bây giờ thì anh sẽ làm gì?”
Trong một chốc, Kousaka không trả lời được câu hỏi bất ngờ đó.
“Em muốn anh làm thế à?”
“Chỉ là nếu như thôi. Anh làm được hay không làm được?”
Kousaka ngầm xem xét giả định ấy trong đầu.
“Cũng không phải là không thể, anh có thể cố được.”
“Thế thì đúng rồi.”
“...Đúng cái gì?”
“Khi đi bên cạnh anh như thế này, em không cần đến tai nghe nữa.”
Giờ mới để ý, nhỏ đã bỏ tai nghe ra và cho vào trong cặp từ lúc nào.
“Dường như khi anh ở đây, chứng sợ bị người khác nhìn của em đã đỡ hơn đôi chút. Chưa biết chừng có một người hiểu được triệu chứng của em bên cạnh lại khiến em an tâm hơn. Thế còn anh, anh Kousaka?”
Kousaka đột nhiên đưa tay lên miệng. Hắn chợt nhận ra. Đó ít nhiều cũng là lý do mà hắn đã bỏ đi tấm khẩu trang trước khi rời khỏi nhà. Chắc hẳn việc gặp gỡ với Sanagi đã đem lại cảm giác nhẹ nhõm, nên hắn thấy thoải mái hơn bình thường.
“Ờ, anh đoán là khi ở cùng em, chứng sợ của anh cũng đỡ đi một chút.”
“Em biết mà,” Sanagi tự hào nói. “Em không rõ là như thế nào, nhưng chúng ta có thể tận dụng được điều này.”
“Tận dụng cái gì cơ?”
“Rõ quá còn gì? Tập luyện để chúng ta làm quen với thế giới bên ngoài. Một cuộc chạy ba chân để tái hòa nhập cộng đồng, để chúng ta có thể đi ra bên ngoài mà không cần khẩu trang hay tai nghe.”
“...Anh hiểu rồi. Không phải ý tồi đâu,” Kousaka đồng tình.
“Vì vậy em đã suy nghĩ thế này…”
Sanagi nhanh chóng vạch ra kế hoạch của nhỏ.
Ngày 17 tháng mười hai, chủ nhật.
Nghĩ lại thì, đây là lần đầu tiên Sanagi đến phòng hắn trước buổi trưa.
Khi gặp nhau, Sanagi đưa cho Kousaka một chiếc vé tàu Shinkansen. Hắn có nghe nói cả hai sẽ đi xa hơn bình thường, nhưng cũng chỉ nghĩ sẽ đi lại trong tỉnh thôi, nên điều này làm hắn thấy lo lắng.
Hắn định trả tiền vé cho nhỏ, nhưng Sanagi thẳng thừng từ chối.
“Đây là quà của em, nên em không cần anh trả tiền. Đổi lại, anh không được kêu ca về điểm đến của chúng ta.”
“Được rồi,” Kousaka xác nhận. Rồi hắn lầm bầm thêm vào “miễn là chỗ nào không quá bẩn.”
Hai người cùng nhau đi. Họ cất găng và tai nghe trong cặp để đề phòng có lúc cần đến, nhưng đó chỉ được coi là phương án cuối cùng. Trừ khi có điều gì, còn không thì họ chẳng có ý định lôi chúng ra.
Kousaka chẳng nhớ được nhiều về chặng đường. Hắn quá bận bịu trong việc cố gắng không nghĩ ngợi, thành ra không có thời gian để mà thưởng ngoạn cảnh vật hay trò chuyện. Sanagi cũng gần giống như hắn, giấu mặt đi và vặn vẹo trong suốt thời gian trên tàu.
Đúng là triệu chứng của họ đã yếu hơn nhiều so với bình thường. Nhưng cũng giống như cơn sốt giảm từ 40 xuống 39 độ, dù đã “đỡ hơn” đáng kể thì đấy vẫn là những hội chứng rối loạn nghiêm trọng, điều đó chẳng thể thay đổi.
Khi họ xuống ga Tokyo và đổi sang chuyến Yamanote, chứng lo âu của Kousaka đạt tới đỉnh điểm. Trên tàu đông kinh khủng, và sau mỗi cú xóc, hắn đều va phải những hành khách đứng gần, làm hắn thấy gớm ghiếc như thể sâu bọ đang bò lúc nhúc khắp người. Nội việc thở đã khiến hắn cảm thấy như bị đầu độc vì phải thở chung bầu không khí với những người khác.
Bụng hắn quặn lại, hắn cảm thấy vô cùng buồn nôn. Có thứ chua chua đang trào lên họng hắn. Hắn đứng không vững nữa, không cẩn thận thì sẽ ngã nhào ngay.
Nhưng bên cạnh hắn là Sanagi. Nhỏ nắm lấy ống tay áo khoác của Kousaka, nghiến răng nhất quyết chống chọi lại nỗi sợ của nhỏ. Khi nhận thức được sự hiện diện của Sanagi, cơn đau bụng và buồn nôn trong hắn dần dần dịu đi. Mình là người duy nhất Sanagi có thể trông cậy vào thời điểm này. Nếu mình mà không chịu đựng nổi thì sẽ thế nào đây?, Kousaka nghĩ thế để tự khích lệ chính mình.
“Em có sao không?”, Kousaka hỏi khẽ. “Em đi được tiếp chứ?”
“Ừ. Em ổn,” Sanagi thều thào trả lời.
“Nếu không chịu được nữa thì phải bảo anh ngay.”
“Anh mới là người trông chán đời ấy,” Sanagi cười, ra vẻ mạnh mẽ. “Nếu anh không chịu được thì bảo với em.”
“Anh sẽ làm thế,” Kousaka cũng cười.
Chuyến đi kéo dài chưa đầy hai mươi phút, nhưng phỏng theo lời Einstein, đó là hai mươi phút đặt tay lên lò nướng. Khi họ bước xuống tàu, Kousaka cảm thấy kiệt quệ như thể hắn đã mắc kẹt hai ba tiếng ở đó.
Sau khi ra khỏi nhà ga Meguro và đi bộ về phía tây khoảng mười lăm phút, Sanagi dừng lại.
“Đến nơi rồi.”
Kousaka ngước lên. Trước mắt Sanagi là một tòa nhà ống sáu tầng. Trên đó là dòng chữ “Bảo tàng Ký sinh trùng học Meguro”.
Bảo tàng Ký sinh trùng học?
“Anh thấy nó chẳng hợp với anh lắm đâu,” Kousaka phản đối yếu ớt.
“Anh đã hứa là sẽ không phàn nàn dù có đi đến đâu cơ mà?” Sanagi ngó lên và mỉm cười.
Hắn chẳng còn hơi sức để mà chống lại nhỏ nữa.
Theo đuôi Sanagi, Kousaka tiến vào trong viện bảo tàng. Trong một khu vực tựa như một căn phòng chờ nhỏ, người ta trưng bày những thông tin và mẫu vật về các loài ký sinh. Hai người họ bắt đầu đi từ một bên và lần lượt tham quan hết tất cả. Có những dãy bình tiêu bản xếp thành hàng trong những chiếc lồng kính chứa đủ thể loại ký sinh trùng, cả các sinh vật và thậm chí là những nội tạng được chúng ký sinh trong đó nữa.
Cho tới khi được thấy tận mắt, Kousaka vẫn lo ngại rằng chỉ cần nhìn vào mấy mẫu vật ký sinh trùng đã có thể khiến hắn đủ bệnh để ngất ra đó. Nhưng bọn ký sinh trùng được ngâm trong các bình thuốc này trông giống như những bức điêu khắc trừu tượng hơn là sâu bọ, nên với hắn chúng trông sạch tới không ngờ.
Một vài loài ký sinh có hình dạng tựa như sợi mì hoặc rau củ. Mấy con giun móc và sán dây trông cong cong như mì kishimen, giun tròn trông như một nùi giá đỗ, còn loài Gyrocotylidea thì như mộc nhĩ. Tất nhiên, cũng có một vài mẫu vật trông gớm gúa khiến hắn phải nhìn đi chỗ khác: một con chuột đồng bị bệnh sán chó với một khối u to tướng dưới bụng, đầu của một con rùa biển xanh bị đỉa Ozobranchus branchiatus xâm hại. Mặt Kousaka nhăn nhó lại theo phản xạ khi nhìn thấy mấy thứ đó, nhưng Sanagi thì đứng chiêm ngưỡng chúng không vấn đề gì.
Bên cạnh Kousaka và Sanagi, có năm cặp khác cũng đang tham quan viện bảo tàng, bốn cặp trong số đó là tình nhân. Kousaka khó lòng hiểu nổi sao lại có đông người đến đây để hẹn hò như vậy. Một số đôi thì đang ré lên như thể họ đến đây để được xem mấy thứ đáng sợ, nhưng những người khác thì đang bình thản trao đổi về khu trưng bày và bắn tía lia những thuật ngữ chuyên ngành.
“Anh Kousaka, nhìn này.”
Sanagi nói, nãy giờ nhỏ chỉ lặng lẽ đứng ngắm các hiện vật. Nhỏ đang nhìn vào một bình tiêu bản có một mảnh dán ghi “Diplozoon paradoxum.” Đoạn thuyết minh nói rằng “Nhìn sơ qua chúng trông như một con bướm duy nhất, nhưng giống ký sinh đặc biệt này là hai cá thể giun gặp nhau khi còn là ấu trùng và hợp thành một” – ít nhiều đã trùng hợp với những gì Sanagi bảo với Kousaka. Người sáng lập ra Bảo tàng Ký sinh trùng học Meguro, ông Satoru Kamegai, đã dành cả đời nghiên cứu về loài này, nên chúng cũng là lô gô của viện bảo tàng luôn.
Kousaka nhìn qua chiếc kính hiển vi được lắp ở trước cái bình.
“Thế nào?” Sanagi đứng cạnh hắn hỏi.
“…Chúng là bướm.”
Chúng thực sự trông như bướm. Những con bướm trăng trắng với cặp cánh sau nhỏ hơn. Chúng có hình dạng gần giống như chiếc móc chìa khóa của Sanagi.
Kousaka ngồi xổm trước mặt kính và ngắm mấy con Diplozoon paradoxum thêm một lúc. Không hiểu sao, Kousaka cảm thấy loài ký sinh có hình dạng đặc trưng này vô cùng lưu luyến.
Bức pa nô trên tầng hai cho thấy những loài ký sinh trùng phổ biến như Toxoplasma gondii và Echinococcus, và còn một bài thuyết minh về loài sán nhái Spirometra erinaceieuropaei. Theo như bài thuyết minh đó, khi Spirometra erinaceieuropaei lây nhiễm vào cơ thể người, nó có thể gây ra một căn bệnh truyền nhiễm có tên là sparganosis. Tên Nhật Bản của bệnh này có chứa khái niệm ‘giun cô nhi’, dùng để nói về những loài giun đã xác định được hình dạng ấu trùng, nhưng chưa tìm thấy dạng trưởng thành của chúng.
“Chính xác mà nói thì ‘giun cô nhi’ là cách dùng chưa chính xác,” giọng Sanagi cất lên từ bênh cạnh. “Khi loài Spirometra erinaceieuropaei lần đầu được phát hiện, dạng trưởng thành của chúng vẫn chưa được tìm ra, nên chúng vẫn được coi là giun cô nhi trong hơn ba mươi năm. Căn bệnh vì thế cũng lấy luôn thuật ngữ này, và dù bây giờ họ đã tìm ra dạng trưởng thành của chúng, cái tên đó vẫn được giữ lại vì lý do thói quen.”
Như thường lệ, con bé vẫn luôn mau miệng mỗi khi có chuyện liên quan đến ký sinh trùng, Kousaka tủm tỉm nghĩ.
Sanagi chỉ sang bên phải của chiếc lồng kính.
“Mặt khác, dạng trưởng thành của những con Spargarnum proliferum này vẫn chưa được tìm ra trong hơn một thế kỷ, nên chúng là giun cô nhi chính hiệu. Khi lây truyền qua cơ thể người, chúng sẽ liên tục phân bào để sinh sôi, xâm nhập và phá hủy mọi loại cơ quan, bao gồm cả bộ não. Cuối cùng, nó sẽ lan ra toàn bộ cơ thể người nhiễm trùng và gây ra cái chết. Chưa có biện pháp chữa trị chính thức nào, nên tỷ lệ tử vong là 100%. Thuốc không có tác dụng, và chúng quá đông để phẫu thuật có hiệu quả.”
Kousaka nuốt nước bọt. “Có những loại ký sinh nguy hiểm đến thế sao?”
“Ừ. Mà dĩ nhiên, mới chỉ có khoảng hơn chục ca chúng lây sang người trên toàn thế giới.”
Rồi hai người họ yên lặng nhìn mấy mẫu vật trong một lúc.
“Này, Sanagi, anh mới nghĩ ra,” Kousaka nói, mắt vẫn đang nhìn loài Sparganum proliferum. “Tại sao chúng lại giết con người chứ? Theo những gì anh nghe nãy giờ, điều chúng làm giống như kéo cả hai cùng chết vậy. Nếu giết vật chủ mà chúng đang trú ngụ, chúng cũng sẽ tiêu đời còn gì? Tại sao chúng lại tự đốt nhà như vậy?”
Ánh mắt Sanagi nhìn Kousaka như muốn bảo “câu hỏi của anh rất hay.”
“Ký sinh trùng không phải lúc nào cũng có thể lây nhiễm vào sinh vật mà chúng muốn. Đôi khi chúng sẽ lạc vào một vật chủ không xác định – không phải vật trung gian cũng không phải vật chủ cuối cùng, thậm chí còn chẳng thể sử dụng cơ thể đó như một vật chủ tạm thời. Đối với một con ký sinh trùng, lạc vào một vật chủ không xác định đồng nghĩa với việc mãi mãi mất đi cơ hội đi đến được vật chủ cuối cùng. Khi điều này xảy ra, hầu hết ký sinh trùng sẽ chỉ chấp nhận cái chết, song có vài loài sẽ ngoan cố chống cự, và trong quá trình cố gắng đi tới một vật chủ xác định, chúng sẽ di chuyển qua các nội tạng và hệ cơ quan dưới dạng ấu trùng. Trong một vài trường hợp, việc này có thể gây ra những căn bệnh nghiêm trọng. Kiểu bệnh này được gọi chung là ấu trùng di trú. Loài Gnathostoma, vốn sống trong cá nước ngọt, nếu lây nhầm sang người, chúng có thể ngụ lại trong cơ thể họ hơn một thập kỷ.”
“Chúng chỉ đang cố thoát ra khỏi cơ thể mà chúng vô tình đi lạc vào thôi sao?”
“Em đoán là chỉ có vậy thôi. Ngay cả loài Sparganum proliferum đáng sợ kia cũng sẽ khá là lành tính khi chúng lây được vào một vật chủ xác định. Bởi vì anh nói đúng, nếu giết vật chủ của mình, chúng cũng sẽ đi đời.”
Kousaka gật đầu. Mà nghĩ lại, hắn có nghe nói về việc Echinococcus lây từ cáo sang người, nhưng chúng vô hại khi ở trong cơ thể lũ cáo.
Sanagi tiếp tục nói rất trôi chảy. “Nói thế nhưng ký sinh trùng không phải lúc nào cũng vô hại đối với vật chủ của chúng. Ví dụ, sán dây là loài ký sinh trùng lấy người làm vật chủ, nhưng khi ấu trùng của chúng xâm nhập được vào não bộ và tủy sống, chúng sẽ gây ra một bệnh chết người có tên là bệnh lợn gạo. Và rồi…”
Đột nhiên, miệng Sanagi ngậm lại. Nhỏ nhận ra mấy du khách xung quanh đã ngừng nói và đang lắng nghe nhỏ. Vài người đang nhìn nhỏ như một loại sinh vật kỳ thú, song vẫn có những người đang tỏ vẻ ngưỡng mộ ra mặt. Sanagi nhìn quanh, thấy nhỏ đã vô tình thu hút sự chú ý vào chính bản thân, bèn vội vàng trốn ra sau lưng Kousaka.
“…Chúng ta nên đi thôi,” nhỏ nói bằng giọng lí nhí.
“Ừ,” Kousaka đồng tình.
Nếu ngày hôm đó Sanagi giải thích rõ đầu đuôi về bệnh lợn gạo, kết cục của một sự việc sau đó có lẽ sẽ ít nhiều khác đi.
Khi con người nuốt trứng sán dây vào bụng, trứng sẽ được ủ trong các nội tạng, rồi trở thành ấu trùng hay còn gọi là nang sán. Nang sán di chuyển qua đường ruột, tạo nên các túi nang ở đó. Nếu những túi nang này hình thành ở những nơi như não bộ hay tủy sống, chúng sẽ gây ra bệnh lợn gạo, nhưng thực tế thì, các triệu chứng gần như không bao giờ xuất hiện trong lúc các nang sán còn sống.
Vấn đề chỉ xuất hiện sau khi những con sán chết đi. Cái chết của chúng trong phân khu thần kinh trung ương gây ra phản ứng dữ dội ở các mô, gây ra viêm tại chỗ và u thần kinh đệm quanh túi nang, điều này có thể gây tổn hại lên dây thần kinh và tạo ra các cơn động kinh. Đến giai đoạn này, tỷ lệ tử vong do bệnh lợn gạo có thể lên tới mức 50 phần trăm.
Có một lý do quan trọng để không ai khác ngoài Kousaka nên biết đến kiến thức này. Đối với một kẻ mù mờ về ký sinh trùng như hắn, sẽ là hoàn toàn bất khả thi để hắn có thể bỏ qua những định kiến và tập hợp các tri thức lại với nhau để tìm đến được sự thật.
*
So với chiều đi, chiều về dễ dàng hơn nhiều. Sau quãng nghỉ ngơi ăn trưa nhẹ nhàng ngắn gọn ở một quán cà phê, họ đi về nhà. Hai người trò chuyện vu vơ trên suốt thời gian đi trên chuyến Shinkansen.
“À đấy, anh từng nghe nói ký sinh trùng có thể chữa được bệnh dị ứng. Có thật không?”
“Đúng là có một vài kết quả thí nghiệm cho thấy điều đó. Không chỉ dị ứng, chúng có vẻ hiệu quả đối với cả những rối loạn miễn dịch tự động như viêm loét đại tràng hay bệnh Crohn. Song đương nhiên là không thể đảm bảm được về sức khỏe của bệnh nhân, nên việc sử dụng chúng phổ biến như một phương pháp chữa bệnh có lẽ vẫn còn xa vời.”
Cổ Kousaka vặn vẹo. “Cơ chế chính xác là như thế nào? Bình thường, anh tưởng việc đưa vào một thứ gì đó ngoại lai như ký sinh trùng mới là nguyên nhân gây ra dị ứng nghiêm trọng.
“Cái đó chắc chắn cũng có thể xảy ra. Nhưng mà…” Sanagi im lặng trong vài giây, như thể nhỏ đang giải nén một phần của bộ nhớ. “Theo một vài cách, hệ thống miễn dịch của con người được hình thành trên cơ sở tồn tại của ký sinh trùng. Giả sử nếu bây giờ chúng ta thấy ký sinh trùng lúc nhúc chui ra khỏi cơ thể thì thấy sợ, nhưng chỉ vài thập kỷ trước, việc có nhiều ký sinh trùng là bình thường. Nếu hệ miễn dịch của chúng ta cứ tấn công hết con này đến con khác như thế, cơ thể người sẽ liên tục trở thành một bãi chiến trường, chẳng mấy chốc mà nát bét. Thế nên cơ thể chúng ta đã được cấu tạo theo con đường cộng sinh với những kẻ xâm nhập vô hại.”
“Chung sống hòa bình hả?”
“Vâng. Nó liên quan tới những tế bào có chức năng ức chế hệ miễn dịch, gọi là tế bào T kiểm soát – tùy từng người, số lượng của những tế bào này có khi không đủ, dẫn tới không có dung nạp miễn dịch. Kết quả là, hệ thống miễn dịch sẽ tấn công bừa bãi vào các vật thể ngoại lai, hoặc thậm chí là chính các tế bào và hệ cơ quan của anh. Nói rộng ra, đây chính là nguyên nhân gây ra dị ứng và các bệnh miễn dịch tự động. Do đó, việc khiến cho hệ thống ức chế miễn dịch hoạt động có liên quan đến việc chống lại các chứng bệnh liên quan tới hệ miễn dịch. Nhưng rõ ràng là, những tế bào T kiểm soát đó được sinh ra bởi sự tồn tại của những ký sinh trùng “được vật chủ cho phép.” Nên về cơ bản, việc thiếu đi những ký sinh trùng, tưởng chừng vô cùng vệ sinh, lại dẫn tới sự gia tăng các bệnh dị ứng và miễn dịch tự động trong thời đại ngày nay.”
Kousaka nghĩ ngợi một chút. “Nói cách khác, ký sinh trùng có thể chữa được dị ứng bằng cách khéo léo làm yếu đi sức đề kháng của hệ miễn dịch?”
“Nếu anh thích tóm gọn lại như vậy thì cũng đúng.”
Cũng có phần giống ‘Eros và Thanatos’ của Freud, Kousaka nghĩ. Đều là về việc năng lượng đang hướng ra bên ngoài có thể bị quay ngược vào trong và tự trở nên có hại.
“Nhưng mà, cái việc cơ thể người được “cấu tạo dựa trên cơ sở của ký sinh trùng” nghe khá là sốc.
“Thật không vậy? Chẳng phải vi khuẩn đường ruột là một minh chứng cụ thể hay sao?”
Kousaka vỡ lẽ. Đúng thật, nhỏ nhắc đến đây mới nhớ.
Trong lúc bước dọc một hành lang trên tầng hai của một nhà ga mà họ vừa xuống để đổi tàu, Kousaka bình thản nhìn ra ngoài cửa sổ về phía con đường trước ga. Những hàng cây được trang trí với những bóng đèn Giáng sinh, đường xá được nhuộm trong ánh sáng da cam lộng lẫy. Lúc hắn quay sang Sanagi, hắn thấy nhỏ cũng đang đứng ngắm những vật trang trí. Mắt nhỏ là sự pha trộn phức tạp của oán trách và đố kỵ.
Vài chục phút sau khi đổi sang một chuyến tàu tư nhân, họ cuối cùng cũng trông thấy vài cung đường quen thuộc. Hai người ra khỏi nhà ga và đón nhận làn không khí trong lành quay về. Bầu trời đêm đẹp và quang đãng, có thể dễ dàng trông thấy vầng trăng hạ huyền.
“Có vẻ như chúng ta đã trở về ổn thỏa,” Sanagi xúc động nói.
“Bằng một cách nào đó,” Kousaka đáp lại. “Thế có hơi khó đối với tập buổi đầu tiên nhỉ.”
Trong lúc bước qua khu dân cư lặng ngắt, Sanagi đột ngột đứng lại. Nhỏ đang nhìn về một công viên trẻ em. Một công viên chật ních chẳng có chỗ để chơi trốn tìm hay làm bất cứ thứ gì. Sanagi bước về phía nó không chút ngần ngại. Kousaka đi theo.
Có một lượng tuyết ngất ngưởng trong công viên, trông như từ lâu đã chẳng có ai vào. Mỗi bước chân khiến cho tuyết ngập lên mắt cá của họ. Tuyết cứng lại rất dễ, nên bằng cách đạp lên những đống tuyết trên đường đi để làm chỗ đặt chân thì sẽ tránh được tuyết chui vào giày.
Đến bộ khung xà màu lục lam, Sanagi trèo lên không nghĩ ngợi nhiều. Nhỏ ngồi trên đỉnh, kêu “lạnh ghê, lạnh ghê” trong lúc phả hơi nóng lên tay, rồi nhìn xuống Kousaka bên dưới và nhe răng cười tự hào.
Kousaka rụt rè chạm vào bộ khung xà, gạt đi lớp tuyết để tránh bị trượt, cẩn thận trèo lên ngồi cạnh Sanagi.
Hắn chưa hề leo xà kể từ hồi tiểu học. Hai người lặng lẽ ngồi một lúc, tận hưởng cảm giác vừa bồi hồi vừa mới mẻ. Chỉ cần tầm nhìn được nâng lên hai, ba mét cao hơn so với thông thường, thế giới trông như đã khác đi một chút. Tuyết trong công viên thấm đẫm ánh trăng và tỏa ra một màu trắng nhờ nhờ.
Sau một hồi, Sanagi phá vỡ sự im lặng.
“Anh Kousaka, anh có nhớ về loài Diplozoon paradoxum mà em đã kể với anh trước đây không?”
“Tất nhiên là nhớ. Trông giống như một con bướm này, tình yêu định mệnh từ cái nhìn đầu tiên này, giao hợp suốt đời này, tình yêu mù quáng này, rồi cả việc chúng giống nhau như đúc nữa?”
“Tuyệt vời.” Sanagi chụm tay lại và mỉm cười. Rồi nhỏ nói tiếp. “Này, anh Kousaka, anh đã bao giờ nghĩ thế này chưa?”
Có lẽ cả đời em, sẽ không có ai để em gọi là bạn tình cả.
Có lẽ em sẽ chết mà không yêu bất kỳ ai.
Có lẽ khi em chết, sẽ không có ai nhỏ một giọt nước mắt vì em.
“Em không phải là một con Diplozoon paradoxum, nên đôi khi trước khi đi ngủ, em nghĩ về những điều như thế,” Sanagi bình thản nói không chút xúc động. “Anh có hiểu những cảm giác đó không, anh Kousaka?”
Kousaka trầm ngâm gật đầu. “Anh luôn luôn nghĩ về những điều như thế. Mỗi khi đi quanh phố và nhìn thấy một cặp vợ chồng trông vô cùng hạnh phúc bên nhau, anh lại nghĩ rất nhiều. “Đó có lẽ là thứ mà mình sẽ không bao giờ có được trong đời.” Ý nghĩ đó khiến anh buồn rười rượi.” Rồi hắn hít một hơi và nói thêm. “Nhưng anh không nghĩ là em cần phải nghĩ đến những điều đó, Sanagi. Em còn rất trẻ so với anh, thông minh, chân thành, xinh đẹp. Em có nhiều thứ để bù đắp cho những khiếm khuyết của mình. Anh chắc chắn là không có lý do nào để mà bi quan sớm đến vậy.”
Sanagi chậm rãi lắc đầu. “Anh Kousaka, anh chỉ có thể nói thế vì anh chưa biết nhiều về em thôi.”
“Có thể em nói đúng. Nhưng nếu nghĩ em là người hiểu bản thân mình rõ nhất thì là một sai lầm đấy. Có những thứ mà em sẽ bỏ qua về bản thân. Đôi khi, điều mà người khác thấy chưa biết chừng lại gần với sự thật hơn.”
“…Chắc là vậy. Nếu đúng như thế thì tốt.”
Sanagi buồn bã nheo mắt lại, rồi mở miệng định nói gì đó, nhưng suy nghĩ lại và mím môi. Rồi nhỏ từ tốn ngồi thẳng dậy.
“Chúng ta nên về nhà sớm thôi. Em thấy lạnh lắm rồi.”
“Đi nào.” Kousaka cũng nhổm dậy.
Sau khi rời khỏi công viên, hai người hoàn toàn im lặng. Cuối cùng, cho đến lúc tạm biệt, họ vẫn không nói một câu nào với nhau. Kousaka vừa mở mồm ra định chào, nhưng Sanagi ngắt lời hắn.
“Ừm, khi làm một việc gì, em nghĩ tốt nhất là nên có một mục tiêu cụ thể trong đầu.”
Mất khoảng năm giây Kousaka mới nhận ra nhỏ đang nói về việc vượt qua những trở ngại gây ra bởi những ám ảnh của họ.
“Cho nên, thế này nghe có hợp lý không? Đến đêm Giáng sinh, em sẽ đi được quanh thị trấn, không bận tâm về ánh mắt của mọi người nữa. Còn anh Kousaka, anh sẽ nắm tay được với ai đó mà không sợ bẩn nữa. Nếu chúng ta đạt được mục tiêu ấy, thì vào đêm Giáng sinh, em với anh sẽ nắm tay nhau và đi dưới ánh đèn Giáng sinh bên ngoài nhà ga, sau đó sẽ có một buổi ăn mừng nho nhỏ.”
“Nghe vui đấy.”
“Vậy hứa nhé.”
Sau câu nói đó, Sanagi quay đầu và mau chóng bỏ đi.
Sau khi về nhà, Kousaka tra cứu về Bảo tàng Ký sinh trùng học Meguro, chẳng có ý định rõ ràng nào cả. Và một thông tin bất ngờ hiện ra. Có vẻ như Bảo tàng Meguro là một địa điểm hẹn hò nổi tiếng trong khu vực. Đó là lý do tại sao lại có nhiều cặp đôi ở đó.