Trong dãy núi Nga Mi, trên ngọn Băng Cương, cao chót vót, Huyền Mi đạo trưởng thiết lập một động phủ riêng biệt.
Sư phụ tôi ở đó với ba đồ đệ: sư huynh La Côn, tôi và sư đệ Vũ Bộ Dương.
Tổng số đồ tử, đồ tôn có tới trên ba trăm người, nhưng từ khi có sự bất bình với hai người vào hàng sư thúc và sư tỷ của tôi, người liền tìm chốn ẩn cư. La Côn và Vũ Bộ Dương, được sư phụ tôi tuyển chọn trong hàng môn đệ, đem theo hầu hạ. Còn tôi là người thứ ba và cũng là tên đồ đệ sau chót được người thâu nạp.
Đường đi lên ngọn Băng Cương rất hiểm trở, nhưng sư phụ tôi vẫn đề phòng có kẻ tới quấy rầy nên ba mặt bao quanh cửa vào động tuyết, đào ba cái ao bùn tuyết. Vì pha hòa chất muối mặn nên nước ở trong Diêm Tuyết Nê Trì lạnh lắm, chỉ đóng băng mỏng ở trên mặt, không thể rắn đóng thành băng được.
Kẻ nào đột nhập Băng Cương mà sa xuống ao bùn tuyết thì sẽ bị lạnh mà vong mạng! Trong động tuyết có tích trữ lương thực đủ ăn nhiều năm, sư phụ tôi luyện thuốc và truyền dạy cho chúng tôi võ nghệ. Ba chúng tôi vừa học tập vừa thay phiên nhau canh gác.
Tôi nhận xét từ hôm sư phụ tôi cứu tôi thoát khỏi tay hai tên Hoàng Hùng và Hắc Báo, đưa tôi về núi, vẻ mặt của người ít khi được vui. Người thường cầm quân cờ mà sợi Kim Tuyến xuyên thủng qua mà ngẫm nghĩ. Ba năm liền, người không xuất sơn.
Người có dạy bảo tôi rằng: Nga Mi là một phái võ rất tôn nghiêm, tuy sáng lập bởi Thần Ni sư tổ, nổi danh về phép đánh kiếm nhưng không thua bất kỳ một môn phái nào về nội, ngoại, huyền công, võ nghệ tinh thâm hay không là do ý chí của kẻ theo học. Con tuy trẻ nhưng đã sớm gặp những cảnh ngộ éo le. Con nên giữ lấy quân cờ và sợi chỉ này làm tiêu chuẩn học tập. Nó là bài vỡ lòng cho con đó...
Mỗi lần cầm đến quân cờ, máu nóng trong người tôi lại sôi lên sùng sục trên ngọn Băng Cương quanh năm tuyết phủ trắng xóa. Tôi cố gắng thử công phu luyện tập theo đúng những lời uốn nắn, chỉ bảo của sư phụ tôi.
Đỉnh Băng Cương là nơi tĩnh tâm luyện khí rất tốt, không khí ở đó rất trong lành, tọa thiền hô hấp vận chuyển dương khí, khu trục âm hàn đả thông kinh mạch mau chóng. Nếu gặp khó khăn, sư phụ tôi cho uống linh đan, tiếp dẫn bằng án ma, đả huyệt và khai chuyển các bộ pháp trong Nga Mi Kiếm Kíp bí truyền và linh diệu.
Hiểu rõ tâm sự tôi là kẻ phẫn uất vì tình nên sư huynh sư đệ mới rỡn tôi, kêu tôi biệt hiệu Thất Tình Tú Sĩ, bản tính tôi ít nói, ham làm việc nên đối với sư huynh sư đệ cũng không có gì thắm thiết lắm. Tuy hai người học tập võ nghệ trước tôi nhưng không tiến bộ mau chóng như tôi. Chúng tôi lấy kẻ nhiều tuổi gọi làm anh, kẻ ít tuổi làm em căn cứ vào tuổi tác mà phân định trên dưới.
Sự luyện tập khó khăn nhất của chúng tôi là phải ngâm mình trong hồ nước muối tuyết. Nước hồ có độ lạnh ghê gớm, nếu là người tầm thường có lẽ vừa nhúng thân thể xuống nước, máu huyết đọng lại ngay, tim ngừng đập, tắt thở, mất hết tri giác. Muốn chống lại khí lạnh phải biết phương pháp hành công, điều dẫn hơi thở, vận chuyển khí huyết và chỉ ngâm mình tới mức độ chịu đựng được. Nếu không tự lượng sức mình để cho âm hàn nhập vào tim thì nguy hiểm vô cùng.
Sư huynh và sư đệ tôi coi sự luyện tập này là hình phạt, không cố gắng chịu khổ thể xác để tiến lên. Thấy tôi là người thông minh, có chí kiên quyết vì đã ba lần chết hụt trong ao tuyết, sư phụ cho tôi uống linh đan để cứu tôi hồi tỉnh và tiếp tục luyện tập vận Thái Dương khí công chống lại âm hàn.
Sự khổ luyện như vậy không phải là vô ích. Đến khi tôi luyện đến bài Thác Tuyết Giản Hoa múa kiếm chém rụng một trăm đóa hoa mai mà tuyết đọng trên cánh trong buổi sớm không rơi xuống đất, tôi mới thấu hiểu công năng phép luyện tập đó. Nước ở thể lỏng đông lại thành đá, cầm thỏi nước đá nhọn có thể đâm thủng da thịt. Biết vận nội lực vào thỏi nước đá ta có thể đâm thủng qua thân cây.
Đó cũng là những thế cơ bản trong Hàn Băng kiếm khí, chỉ những người có căn bản chân truyền mới khu dụng được. Hai vị sư huynh sư đệ thấy tôi được sư phụ tin yêu thì đem lòng ghen ghét, tỏ vẻ lạnh nhạt bất bình. Tôi cũng không lưu ý tới họ chỉ để hết tâm trí vào việc tu luyện.
Sư phụ thương than thở với tôi rằng :
- Mười phần võ học ta đã truyền cho con hết bảy. Nhưng căn cốt con có nhược điểm nơi vai phải làm trở ngại cho sự tiến bộ. Muốn đạt đến cảnh giới thượng thừa, con phải mất hơn mười năm nữa. Việc chậm trễ này phương hại rất nhiều đến tính toán của ta. Cứ ba năm một lần, tất cả đệ tử trong bản phái tụ họp ở chân núi Nga Mi, dưới ngọn Phượng Dực, Chưởng môn chấp pháp định công luận tội, ban hành nhiệm vụ, khảo thí và chỉ định kẻ tài năng làm truyền nhân. Ta muốn lợi dụng cơ hội này để chấn chỉnh lại môn phong. Con cũng biết mấy năm gần đây nước ta bị nạn qua phân, giặc Liêu phương Bắc dòm ngó, nhân tình rối loạn. Các môn phái bị mua chuộc giết hại lẫn nhau. Những kẻ lừa thầy phản bạn, trò giết thầy, con hại cha, tớ phản chủ, vợ phụ chồng đầy rẫy khắp nơi. Phái Nga Mi ta cũng lâm vào tình trạng như vậy. Người nối giáo cho giặc không ai khác chính là sư thúc của con và sư muội của ta, muốn trị tội hai người này mà ta chưa có dịp nào. Từ lâu, ta đã tạm ẩn cư mong chúng tỉnh ngộ. Tài năng của con hiện nay có thể trấn áp được hai người này nhưng không thể khiến họ chịu khuất phục được... Ta ước mong con đừng nản chí, con sẽ làm rạng danh phái Nga Mi sau này...
Nghe vậy, tôi cũng chỉ biết vâng dạ không biết nói sao vì tôi chưa hề gặp mặt sư thúc của tôi và sư muội của sư phụ bao giờ cả. Sang tới năm thứ ba, tài nghệ của tôi bỏ xa sư huynh La Côn và sư đệ Vũ Bộ Dương. Trong lúc luyện tập hai người không thể nào đỡ được ba chiêu, nhiều lần tôi chỉ khẽ vòng tay xoay kiếm đã làm cho kiếm của đối phương tuột ra khỏi tay dễ như bỡn.
Chính sư phụ tôi lúc tập dượt cũng luôn khen ngợi do kiếm pháp cùng phép đánh cờ của tôi đã bước vào cảnh giới siêu tuyệt. Sư phụ lấy làm đắc ý lắm.
Tôi cũng tưởng chắc chắn thế nào cũng có ngày người đưa đi dự đại hội Nga Mi dưới núi Phượng Dực. Nhân dịp này tôi sẽ được phô diễn sở học, được biết các vị tiền bối cùng các đồng môn huynh đệ khác. Nhưng ngờ đâu, ước vọng đó không bao giờ thực hiện được mà cũng chẳng bao giờ được gặp sư phụ nữa.
Số là, một đêm kia, gần tới hạn kỳ xuất sơn cùng ba đồ đệ, người thức khuya hơn mọi ngày. Phiên tôi canh gác động phủ từ tối đến nửa đêm. Lúc qua giờ tý, La Côn đến thay phiên, tôi về phòng nghỉ. Vừa đặt minh chưa kịp chợp mắt thì tôi nghe rõ ràng tiếng sư phụ đang dùng phép Nhập Nhĩ Truyền Thanh nói xoáy vào tai thúc giục tôi trốn tránh bằng cách lẻn ra ao bùn phía sau phòng và lặn xuống đáy. Tuy hốt hoảng xong sự phản ứng của tôi rất mau lẹ, như chim én là sát mặt đất chỉ như làn gió thoảng, tôi đã thu gọn mình sát mép bờ ao, vết chân không in lên mặt tuyết. Sau khi vận đủ Thái Dương khí công tôi hít một hơi dài và từ từ lặn xuống đáy bùn lạnh hơn mười trượng.
Quả nhiên trong đêm tối như mực, sư phụ tôi quờ tay nắm lấy tay tôi, dùng kiếm nạy tảng đá và cả hai lặn vào một ngách sâu, lần đi theo mãi trong thủy huyệt ngầm rồi mới bơi đạp cho nổi lên. Thông thường, sư phụ tôi rất giỏi về thủy công. Hôm nay hơi sức người kém yếu nhiều. Nhiều lần tôi phải đỡ người nên cả hai mệt nhọc lắm mới nhoài lên mặt nước tuyết bùn. Tôi nhận thấy có hốc đá ngầm thông lên một hang động hẹp nằm trong lòng núi. Hai thầy trò bò vào sâu tới chỗ có đá lửa và hỏa liệu dấu sẵn từ trước, thắp sáng và ngồi nghỉ.
Mặt sư phụ tôi nhợt nhạt, trắng bệch không còn một chút máu. Người thở thều thào và nói cho tôi biết là bị kẻ phản sư môn ám hại. Sư phụ tôi bị ngộ độc rất nặng. Tay trái người cầm một lọ nhỏ đổ ra những viên linh đan màu đỏ phát ra ánh sang và nói :
- Những viên trường mệnh hồi sinh đan rất quý của ta bị bỏ vô trong lọ đựng thuốc độc này, làm ta vô tình uống phải, sẽ giết ta trong chốc lát. Bình đựng này ta có một, sư muội ta có một. Hai tên đồ đệ khốn nạn kia chọn đúng lúc để đánh tráo bình thuốc... Con nên giữ lấy tang vật này để truy cứu cho ra kẻ thủ phạm đích thực... Bọn sát nhân sẽ đến đây vì biết ta trở nên vô lực và sắp chết. Mục đích của chúng là chiếm đoạt cuốn “Nga Mi kiếm phổ”, ta đã xé nát cuốn sách và chỉ giữ lại ba tờ sau cùng để lại cho con... Thuốc độc của chúng mạnh lắm!... Không cách nào chữa nổi... Ta kiệt sức lắm rồi!...
Sư phụ tôi trao cho tôi bình thuốc đựng mấy viên linh đan quý báu đã bị nhuốm thuốc độc và cho ba mảnh giấy cũng thanh kiếm của người.
Trong lúc tức giận cuối cùng, bàn tay của người đã chà xát vào chuôi thanh kiếm làm mất các hình chữ chạm trổ.
Trước lúc bó đuốc tắt, người vẫy tay ra hiệu cho tôi chạy đi vì bọn sát nhân chẳng bao lâu sẽ đến bao vây quả núi Băng Sơn và đột nhập vào động phủ để tìm kiếm hai thầy trò tôi. Tôi khóc và sụp lạy người trước khi ra đi. Để tôi khỏi bịn rịn, người dương đôi mắt ảo não nhìn tôi khẽ gật đầu rồi lao đầu vào vách đá tự sát.
Tôi ôm lấy xác sư phụ tôi khóc nức nở. Cầm lấy ngọn đuốc sắp tàn tôi mò mẫn tìm đường đi ra khỏi hẻm đá. Phải mất hồi lâu mới tìm được lỗ chui ra. Giắt chặt những di vật và buộc chặt thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm ngang vai, tôi bấu vào các dây leo, tụt xuống như một bóng ma lướt đi trong tăm tối... không một ai bắt gặp và hay biết.
Kể tới đoạn đau khổ này Cao Kỳ Nhất Phương móc ra trong bọc thắt lưng ra một lọ sứ nhỏ đưa cho Mã phu nhân coi, rồi trải ra trên mặt phẳng ba tấm giấy nhàu nát ghi những đồ hình bộ pháp và thủ pháp thế kiếm bí truyền nhất thuộc phái Nga Mi.
Mã phu nhân mở nắp bình lấy ra một viên thuốc màu đỏ, dùng con dao nhỏ, cắt đôi viên thuốc đứt làm hai mảnh. Bà xem xét hồi lâu rồi nói :
- Thuốc này quý lắm, chế luyện công phu. Không nên đựng lâu trong bình độc. Nên cho vào một bình khác, tôi có cách giải chất độc chỉ ngầm tới lớp bao ngoài. Kẻ sử dụng chất độc này phải là một truyền nhân của Thánh Thủ Lão Thần Y hoặc chính Lão Thần Y mới chế luyện được.
Lý Thanh Hoa xem bản đồ hình xong cũng nói rằng :
- Mấy thế kiếm này, tôi đã tập dượt qua một lần rồi, xong chưa thi triển đem ra giao đấu với ai nên chưa biết vận dụng thực tế ra sao. Tôi biết đánh mà không biết tên. Bây giờ được xem đồ hình này mới biết nguyên ủy của nó.
Cao Kỳ Nhất Phương lấy làm lạ hỏi :
- Sư phụ tại hạ có nói rằng mất mười năm mới luyện được một thế. Huynh đài còn trẻ làm sao luyện tập chóng được vậy? Chính tiểu đệ đây bỏ mất hai tháng trời mới tập chỉ riêng bộ pháp thôi cũng không lĩnh hội được một phần mười. Còn về thủ pháp thì càng không thể nào học nổi... Cho nên dù có đồ hình và bản giải ngữ cũng coi như là vô dụng mà thôi!
Lý Thanh Hoa vỗ vào vai phải Cao Kỳ Nhất Phương nói :
- Cao đệ phải chữa khỏi chỗ này đi đã. Dưỡng mẫu tôi sẽ chữa giúp cho...
Mã phu nhân đồng ý gật đầu. Cao Kỳ Nhất Phương thấy mọi người muốn giúp đỡ mình thì cảm động cám ơn.
Tối đó mấy người ăn xong no nê, dừng xe cắm trại nghỉ ngơi bên bờ suối.
Sáng hôm sau, Cao Kỳ Nhất Phương dậy sớm thấy Lý Thanh Hoa tĩnh tọa trên một tảng đá phẳng, mắt đăm đăm nhìn vào con cá lội tung tăng dưới suối. Cao Kỳ Nhất Phương bước rất khẽ trên cỏ, thế mà còn cách xa bốn trượng đã thấy Lý Thanh Hoa quay lại tươi cười hỏi :
- Huynh đài dậy sớm thế? Sao không ngủ nữa cho đẫy giấc?...
Cao Kỳ Nhất Phương tiến lại gần chưa kịp trả lời thì Lý Thanh Hoa đã biết rõ sự thắc mắc của chàng :
- Tối qua, các hạ nghe tại hạ nói biết kiếm pháp bí truyền của Huyền Mi đạo trưởng thì không hiểu nguyên do tại sao? Thực tình, tại hạ được tập dượt nhiều thế kiếm của nhiều phái võ là do nghĩa phụ trước kia bôn ba trong chốn giang hồ, học được bất cứ miếng gì cũng truyền lại thành ra tại hạ không thuộc về môn phái nào mà lại biết thi triển võ công của nhiều môn phái khác nhau. Về sau, được lão dị nhân truyền cho các chiêu kiếm siêu việt của các bậc tiền nhân Đông Tây nên sở học về kiếm thuật cũng có phần... khả quan. Đến khi được xem đồ hình thấy các điểm đại đồng tiểu dị cũng phối hợp được ngay. Xin mời các hạ lại đầu ven rừng đằng kia, tại hạ thử phô triển ít thủ pháp và bộ pháp trong kiếm phổ Nga Mi. Nếu có chỗ nào khiếm khuyết xin các hạ bổ chính lại cho.
Nói rồi, hai người đưa nhau tới khu rừng cây mé đông, mặt trời mọc chiếu ánh nắng xuống các cây cao trông như những thân người Hộ pháp canh giữ cửa rừng. Như vậy, sẽ không làm mất sự yên tĩnh của những người khác đương còn mê man trong giấc điệp.
Tới chỗ đã lựa chọn, Lý Thanh Hoa xin mượn thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm. Cao Kỳ Nhất Phương không ngần ngại rút kiếm ra khỏi vỏ, hai tay nâng kiếm đưa cho Lý Thanh Hoa rất tôn kính.
Lý Thạnh Hoa lễ độ tiếp nhận, vén tay áo, cầm lấy chuôi kiếm báu và nói rằng :
- Xin thất lễ!
Chàng vòng kiếm bái tổ rồi mới thi triển bài múa kiếm theo từng trang mục đã ghi trong cuốn Nga Mi kiếm phổ làm cho Cao Kỳ Nhất Phương có cảm giác như đang được mục kích một đồng đạo chân truyền Nga Mi biểu diễn.
Trước còn thong thả, từ từ, nhát cử nhất động quy tắc không sai một ly. Về sau càng ngày càng nhanh, lưỡi kiếm xé không khí vun vút như gió thổi, bóng người bóng kiếm lẫn lộn không thể phân biệt nổi. Lạ thay, Lý Thanh Hoa như một người máy không biết mệt mỏi, không thở dốc, mặt vẫn thản nhiên, miệng thỉnh thoảng lại mỉm cười, mắt ngó xéo Cao Kỳ Nhất Phương mỗi khi chuyển sang thế tinh diệu hơn... Sự kiện này làm cho Cao Kỳ Nhất Phương ngạc nhiên đến... lé trật cả mắt!
Nhất là khi biểu diễn đến thế kiếm “Nhất Bộ Sinh Hoa” mà Cao Kỳ Nhất Phương cử bộ lúc bắt buộc giao đấu với Báo Tử Đầu Kim Phiêu mà chàng đã nương tay che giấu hình tích giả vờ chịu thua tên đại hán lỗ mãng. Nhưng Lý Thanh Hoa lại tinh mắt nhận xét được sự kỳ diệu ẩn tàng trong thủ pháp. Bây giờ biểu diễn mới thấy rõ sự lợi hại khi xoay cổ tay đưa mũi kiếm ngược trở lên, làm kiếm quang phân đôi địch thủ thành hai mảnh.
Cao Kỳ Nhất Phương cao hứng vỗ tay, tán thưởng. Có nhiều tiếng vỗ tay tiếp theo, thì ra không phải chỉ có một mình chàng mà Mã Hóa Long, Thần Ma Mật Tăng cũng đã tới dự xem từ lâu rồi.
Lúc này bài kiếm múa tới đoạn chót tức là phần khai triển ba thế kiếm bí truyền của Huyền Mi lão tổ.
Lý Thanh Hoa nhảy lui lại năm trượng, đứng giữa nhiều gốc cây lớn. Mọi người thấy chàng vận khí, cánh tay ửng đỏ như lửa rồi trong suốt như thủy tinh, thân thể chàng đã biến thành Kim Cương Bất Hoại. Lý Thanh Hoa thét lên một tiếng vang ầm như sấm, vũ động thanh bảo kiếm. Ba người chỉ thấy kiếm khí đi loang loáng như ánh chớp. Người chàng như xoáy ốc khiến người đứng xem ở xa vài trượng cũng thấy ù tai hoa mắt không thể nhận biết chàng tiến hay lùi, ở bên tả hay nhảy sang bên hữu, cử bộ cao hay thấp, rồi nhiều tiếng “xoẹt”, “phập” chát chúa vang lên một lúc. Khi gió bớt động lá cây thôi rì rào thì Lý Thanh Hoa đã lù lù ở trước mặt lúc nào không hay.
Cao Kỳ Nhất Phương thấy Lý Thanh Hoa vẻ mặt thản nhiên trán không dính chút mồ hôi, một chút bụi nào, hai tay nâng ngang thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm trao trả chàng tươi cười và nói :
- Cám ơn huynh đài đã cho mượn kiếm. Tại hạ múa may quá chỉ nhiều làm chướng mắt mọi người. Thanh kiếm này quả là bảo kiếm. Huynh đài nói ra khỏi vỏ ắt phải dính máu quả không sai.
Cao Kỳ Nhất Phương tiếp nhận kiếm quả nhiên thấy ở lưỡi kiếm sáng nhoáng có dính chút máu đỏ tươi thì ngơ ngác không hiểu sao có sự lạ lùng vậy.
Trước cái ngạc nhiên này chưa xong thì lại xảy đến một sự ngạc nhiên khác là từ phái sau Thần Ma Mật Tăng cũng vận công, thiết thủ đen như mực, miệng nói :
- Tối nay, chúng ta không phải lo kiếm củi nữa.
Rồi từ lòng bàn tay phóng ra một luồng chưởng phong về phía khu rừng Lý Thanh Hoa vừa mới thi triển thế kiếm bí truyền, tức thời cả chục thân cây to đều the nhau đổ sập ào ào xuống cả một lúc... Thì ra lưỡi kiếm báu đã tiện đứt đôi hàng chục thân cây lúc nào không rõ. Nay có luồng gió thổi thì đổ xuống ầm ầm rung chuyển cả mặt đất.
Đặc biệt là Mã Hóa Long dụng thần lực gạt các thân cây ra một bên chui vào trong một hốc cây lớn đã bị chém sạt một nửa gốc, lôi ra một con gấu đen, nặng đến mấy trăm cân, cổ bị đứt, cuống họng máu phun phì phì. Mã Hóa Long xốc con thú lên vai, vác đi một cách nhẹ nhõm và nói :
- Khu vực này có nhiều món ăn hợp với khẩu vị, chúng ta nên ở đây đặng ăn nhậu cho đã.
Thần Ma Mật Tăng vỗ tay nói lớn :
- Kết quả bài kiếm thật là độc đáo và thực tế, ta rất hoan nghênh Nga Mi kiếm pháp.
Món chân gấu hầm nấm tươi, Mã Hóa Long ơi, phải đặt nồi thịt hầm bây giờ, thịt mới nhừ được.
Cao Kỳ Nhất Phương hồn vía như lên mây. Lúc ở Bạch Diêm trang, chàng tưởng mấy thấy dạy võ nơi đó đã là tài giỏi tuyệt vời. Được nhập Nga Mi sơn, sự tuyệt vọng với mốt tình thầm kín kia đã giúp chàng có tinh thần kiên nhẫn luyện tập để đạt được ngôi vị tay kiếm nhanh vô địch.
Ai ngờ ngày hôm nay, mở rộng tầm mắt, người tài lại có người tái hơn gấp bội, ba thế kiếm bí truyền được Lý Thanh Hoa phô diễn khiến chàng thấy tài nghệ mình chỉ là gò đống đặt bên núi Thái Sơn. Cả đến Thần Ma Mật Tăng mà chàng tưởng là một tên gia nô đánh xe tầm thường, Mã Hóa Long dưới bộ dạng một phú thương hào hiệp, ai ngờ răng tiềm tàng công lực vô biên, ngay cả sư phụ chàng cũng khó hơn được. Được những người này giúp đỡ thì mối sư thù lo gì không giải quyết được.
Cao Kỳ Nhất Phương tra kiếm vào bao rồi phủ phục xuống đất trước mặt ba người và nói :
- Tiểu tử thất lễ! Không biết ba vị đều là bậc cao nhân.
Lý Thanh Hoa vội cúi xuống đỡ dậy nói :
- Cao Kỳ huynh! Chớ làm vậy, đừng đệ tiểu đệ mang tiếng... chúng ta nên coi nhau như người nhà cả.
Rồi tất cả bốn người cùng nhau trở về chỗ để xe bên bờ suối chia nhau công việc lột da gấu, nấu nước và bàn soạn làm món ăn thật là vui vẻ.
Cao Kỳ Nhất Phương thán phục luôn miệng thế kiếm “Vân Vụ Tích Lôi”, thế chót của bí kíp khi sử dụng như sấm sét trong cơn lốc dù địch thủ đông đảo cả trăm, ngàn người cũng bị táng mạng, ra vào trận Thiên Cương Bát Sát Kiếm cũng như đi vào chỗ không người. Dù đối phương có tới ba đầu sáu tay cũng bị chế phục.
Cao Kỳ Nhất Phương than thở mà rằng :
- Khí cốt tôi suy yếu, làm sao mà học được để khỏi phụ công ơn gây dựng của sư phụ.
Mã phu nhân thấy Thất Tình Tú Sĩ phàn nàn như vậy liền từ từ lại gần chàng thanh niên chân thật, khả ái này. Tay bà cầm một bông hoa giống như loại hoa phong lan màu tím đưa cho anh chàng gặp toàn chuyện đau lòng và tuyệt vọng. bà nói :
- Bông hoa này có mùi thơm khả dĩ giúp người ta giúp người ta quên đi nỗi ưu tư. Con ngửi xem... sẽ thấy hết mọi sự buồn phiền.
Cao Kỳ Nhất Phương đón lấy đóa hoa lạ, đưa lên mũi ngửi mùi hương thơm thoang thoảng khiến chàng ngây ngất khiến chàng nghĩ đến người đẹp Hoàn Mỹ Thiếu Cơ tựa như phảng phất đâu đây. Chàng thấy khuôn mặt tuyệt mỹ của thiếu nữ hiện ra trong trí óc, bàn tay búp măng tựa cằm ngôi nghĩ nước cờ hóc hiểm... làn tóc tung bay, vẻ mặt hớn hở khi thiếu nữ phi con Hoàng Mã về đích chiếm giải nhất... rồi tới ánh kiếm Thiên Nhạn Song Linh lóe sáng, bóng hình Lý Thanh Hoa xoay tít như con vụ, cây cối đổ ầm ầm... Cao Kỳ Nhất Phương tựa như mất tri giác, gục xuống ngủ thiếp đi.
Không biết thời gian đã bao lâu... lúc chàng tỉnh lại thì mặt trời đã quá trưa, mọi người đang xúm quanh chàng. Mã phu nhân cầm một cái kẹp bằng bạc máu me đầm đìa, bỏ vào chiếc đĩa đặt trước mặt chàng một cục thép xanh nghe “keng” một tiếng. Vai chàng đau nhói buốt tới tận cốt tủy, rùng cả người, thì ra bà ta nhân lúc chàng mê man đã chữa bệnh cho chàng.
Nào dao nhỏ sắc bén búa nhỏ bằng bạc, kim đục, đủ thứ ngâm trong bồn nước nóng, sôi nhuộm đỏ màu máu. Thấy đã trích ra được đầu nhọn một mũi trủy thủ cắm sâu trong xương bả vai, mọi người mừng rỡ reo lên. Vết mổ được rửa sạch, đắp thuốc chỉ huyết buộc bó lại cẩn thận. Tuy nhiên bệnh nhân cũng mất nhiều máu nên mặt mày choáng váng, phải nắm sấp, không thể ngồi ngay lên được... Cao Kỳ Nhất Phương thấy Mã phu nhân gắp mũi trủy thủ đưa lên mắt xem mãi. Mặt bà đầy vẻ suy tư, đầu óc bà hẳn nghĩ mông lung lắm. Bà gọi Mã Hóa Long, chồng bà lại quan sát, xem kỹ càng rồi nói rằng :
- Loại trủy thủ bốn cạnh vuông này chỉ có một người sử dụng mà thôi.
Hai người nhìn mũi trủy thủ lại ngắm nghía kỹ diện mạo Cao Kỳ Nhất Phương rồi hỏi nhau rằng :
- Mình còn nhớ... Nam Bình hầu Vương Thế Cát đã nói với chúng ta những gì không?
Hai người nhìn nhau, vẻ mặt vụt tươi sáng lên, không nói thêm câu nào nữa. Mã phu nhân lo nấu cháo gan gấu để cho Cao Kỳ Nhất Phương ăn lấy lại sức.
Lý Thanh Hoa thu dọn các đồ dùng trị liệu, lau chùi những vết máu loang lổ trên tấm ván và lấy gối nệm cho bạn mình đỡ mỏi trong khi Thần Ma Mật Tăng xoa nắn bắp thịt, huyệt đạo cho máu huyết lưu thông.
Cao Kỳ Nhất Phương thấy mọi người chăm nom mình như tình ruột thịt, nghĩ tới thân phận mồ côi, cô độc, sống lẻ loi, rẻ rúng của mình như vậy thì lấy làm xúc động vô cùng... Tối hôm đó, bên ánh lửa hồng, người nào cũng lộ vẻ vui mừng, cởi mở sung sướng hơn bữa trước. Thần Ma Mật Tăng và Mã Hóa Long uống rượu Mai Quế Nhân Sâm nhắm với món chân gấu hầm nhừ với nấm tươi một cách say sưa ngon lành.
Mã phu nhân nhờ Cao Kỳ Nhất Phương ăn chút cơm sau khi đã uống rượu ngâm Bạch Hổ Cốt làm liền xương mạnh gân rất công hiệu.
Lý Thanh Hoa ngỏ ý muốn kết tình huynh đệ với người bạn mới, ý kiến này được hai vợ chồng Mã Hóa Long tán thành nhiệt liệt. Lý Thanh Hoa hơn một tuổi làm anh.
Đáng lẽ hôm sau đó mọi người rời khỏi khu rừng lên đường đi Triết Giang nhưng vì muốn Cao Kỳ Nhất Phương được nằm nghỉ yên tĩnh cho vết thương mau lành, nên cuộc dừng chân tại khu rừng kéo dài thêm vài ngày nữa.
Trong những ngày này, họ săn bắn dã thú và tìm thực phẩm để thay đổi món ăn, nào là thỏ, chim trĩ, nhím, mật ong, cá suối, trái sim, thêm một con bò tót mà máu huyết rất bổ dưỡng cho sức khỏe của Cao Kỳ Nhất Phương rất mau chóng.
Da thịt chàng thanh niên trở nên hồng hào, mặt mũi không còn gầy còm, xanh xao, thân thể khẳng khiu như trước nữa. Mã Hóa Long nói nếu còn nhiều rượu thì ông ta nhất định ở khu rừng thêm một thời gian nữa.
Trong lúc cỗ xe chuyển bánh từ bờ suối ra con đường lộ, ông ta và Thần Ma Mật Tăng còn may mắn săn đuổi, dùng lao hạ được một con lợn rừng khá lớn, đem bỏ lên xe định bụng phải tìm rượu ngon để ăn mừng Cao Kỳ Nhất Phương khỏi bệnh một buổi tưng bừng.